Vật phẩm phong thủy mang lộc thần
Tường điều thụy thú liên quan tới lộc có những loại nào?
“Nhất phẩm điểu” có liên quan gì tới lộc?
“Nhất phẩm điểu” là chỉ chim hạc. Hạc là một loại chim vô cùng quý giá, trong văn hóa truyền thống Trung Quốc, có địa vị rất cao. Đặc biệt, đan đính hạc được cổ nhân cho rằng là vật tượng trưng cho trường thọ, cát tường và thanh cao. Cổ nhân còn thường liên kết hạc và thần tiên với nhau, vì vậy hạc được gọi là “tiên hạc”.
Thời kỳ Minh Thanh, đế vương không chỉ nuôi hạc trong vườn hoàng gia, mà còn đặt hạc đồng trên điện đường, coi như là vật thần. Ngoài ra, trên đỉnh và lầu các trong viên lâm hoàng gia cũng khắc các hình hạc tiên, đào tiên, hạc trở thành vật cát tường trong nhà đế vương. Quan phục của quan văn thời nhà Thanh vô cùng được coi trọng, huy thức quan phục của nhất phẩm văn quan là hạc tiên, nhị phẩm là cẩm hạc, tam phẩm là không tước … Có thể thấy, địa vị của đanh đính hạc trong lòng mọi người ngày càng được nâng cao lên, đạt đến địa vị thấp hơn phượng hoàng.
Bức vẽ “nhất phẩm đương triều” là bức vẽ tường truyền thống là một con hạc tiên đứng trên hòn đá thủy triều dâng lên võ vào. Hạc tiên vốn có ngụ ý nghĩa là nhất phẩm – chức quan cao nhất ở Trung Quốc. Đầu Hạc tiên hướng về phía mặt trời, ngụ ý là đương triều; còn trong tiếng Hán “sóng” và “triều” đồng âm, ý chỉ việc quan thăng nhất phẩm, quản quốc gia đại sự. Không khó nhận ra, hạc cũng là một tượng trưng của “lộc”.
Hươu có ngụ ý gì?
Hươu là một loài thú, là loài động vật may mắn lâu đời trong lịch sử. Tương truyền, khi quân vương thi hành chính trị nhân tử, thiên hạ thái bình, trên trời xuất hiện một con lưu năm màu tỏa ánh hào quang, còn được gọi là “thiên lộc” (hươu trời), ngụ ý là điềm tốt lành thiên giáng. “Lộc” (hươi) và “lộc” (tài lộc) đồng âm, nên có liên quan mật thiết với quan lộc. Ngụ ý may mắn của hươu trong quan niệm truyền thống là phúc lộc, cho nên “bách lộc” có nghĩa là nhiều phúc. Trong những bức vẽ mang ý nghĩa may mắn truyền thống có bức vẽ 100 con hươu, biểu thị cho hưởng bách lộc trời cho, còn được gọi là “bách lộc đồ”, thể hiện tâm lý mong ngóng quan vận và tài vận của con người lúc bấy giờ.
Hươu và quan đồ có duyên, là môi giới giữa quan lộc và người đón lộc, vật may mắn trong lòng người cầu lộc. Tương truyền, những năm Nam triều Lương Vũ đế, có một người gọi là Cát Sỹ Thiêm, ông muốn có được quan lộc, nhưng mãi không thực hiện được. Một buổi tối, Cát Sỹ Thiêm nằm mơ, trong giấc mơ ông thu nhập được rất nhiều da hươu, đếm một lúc tổng cộng có 11 bộ. Cát Sỹ Thiêm sau khi tỉnh dậy, một mình lẩm bẩm: “Hươu là lộc, chẳng lẽ mình cso thể 11 lần nhậm quan sau?”. Sau này, Cát Sỹ Thiêm tiến thân được vào con đường quan trường, nhậm chức trên 11 vị trí khác nhau.
Tương truyền, tướng lĩnh quản quân đời Đường Sử Tư Minh cũng từng mơ một giấc mơ có liên quan tới hươu. Ông mơ thấy trên bãi đất bồi giữa dòng nước có một bầy hươu, ông đuổi theo mấy con hươu đó. Sau khi ông đến được bãi đất bồi, mới phát hiện tất cả số hươu đó đều chết, đến cả nước trên sông cũng khô cạn. Tỉnh dậy, Sử Tư Minh gọi một vài quan sử thân cận giải mộng cho ông. Thị tùng quan sử nói: “Hươu có nghĩa là lộc, nước đại diện cho sinh mệnh. Lộc và sinh mệnh đều không còn nữa, giấc mơ này thật sự không may mắn”. Quả nhiên, sau này Sử Tư Minh bị con ông là Sử Triều Nghĩa giết chết.
Tóm lại, hươu là một con vật mang lại may mắn nhất trong văn hóa lộc, là vật tổ cát tường trong lòng những người cầu lộc.
“Bạch lộc” (cò trắng) là vật tượng trưng của lộc phải không?
Cò trắng là một loài chim nước rất đẹp, còn được gọi là “chim cò”, thời cổ đại cũng là một loài chim mang lại may mắn. Do “lộc” (cò) và “lộc” đồng âm, nên “cò” trong dân gian cũng là tượng trưng của “lộc”.
Trên quan phục thời kỳ Minh Thanh cũng thêu hình con cò trắng, đại diện cho quan văn thất phẩm. Cổ đại bách quan đều hướng lên hoàng đế, nhìn quan phục của họ từ xa, giống như một đàn cò trắng đang bay, hơn nữa rất có trật tự. Do vậy, người ta dùng “lộc tự” để miêu tả quang cảnh khi bách quan chiếu kiến hoàng thượng.
Dân gian còn cho rằng, cò trắng là loại vật giữ quy tắc, hiểu lễ nghĩa, là hình tượng của bách quan quần thần. Do vậy, hình ảnh này trong những bức tranh tết đều có ý nghĩa may mắn. Như trong bức họa “nhất lộ liên khoa”, vẽ cò trắng, hoa sen và lau sậy. Bông hoa sen đang hé nở trong bức hình làm tăng màu sắc lộng lẫy cho tranh, do “liên” (hoa sen) và “liên” (liên khoa) đồng âm, nên có nghĩa là liên khoa. Khoa do hai cây lau sậy thể hiện, “cây” (trong tiếng Trung đọc giống với “khoa”). Cò trắng thích nước, trong khi hoa sen và lau sậy đều sống trong nước, kết hợp ba thứ đó lại, thành một bức tranh đẹp. Một cò, sen, hai cây lau sậy sẽ thành “nhất lộ liên khoa”. Nó ngụ ý rằng học tử tiếp liên đăng khoa, trở thành một thành viên trong bách quan. Ngoài ra, nó còn có ý nghĩa đường quan trường thuận lợi.
Cò trắng còn kết hợp với hoa phù dung trở thành hình ảnh may mắn “nhất lộ vinh hoa”, biểu đạt lời chúc tốt đẹp của con người: Mong người trong sự nghiệp học hành và con đường làm quan thuận lợi, có được may mắn và quý vô hạn.
Cá diếp lục hợp có truyền thuyết gì?
“Cá chép hóa rồng” là một kiểu chúc phúc may mắn lưu truyền vô cùng rộng rãi trong dân gian. Nó có ý nghĩa là con người chỉ cần miệt mài tôi luyện, rồi sẽ có ngày vượt được long môn, hóa thành rồng bay trên trời. Mọi người có rất nhiều cách thức biểu đạt nguyện vọng và theo đuổi vượt long môn, hóa thành rồng.
Hình dạng cá diếc ở huyện Lục Hợp, Giang Tô, Trung Quốc rất lớn. Về cá diệc Lục Hợp, dân gian lưu truyền một truyền thuyết rất hay.
Tương truyền ngày xửa ngày cưa, có một cặp vợ chồng bổ củi trồng rau sinh sống, cuộc sống vô cùng vất vả. Một ngày, khi người chồng lên núi đốn củi nhặt được một quả trứng rồng. Quả trứng rồng này rất thần kỳ, đặt vào vại gạo có thể sinh ra rất nhiều gạo, đặt lên đống củi sinh ra nhiều củi khô, đặt vào vại nước có thể làm tràn đầy nước.
Sau này, quả trứng đặt trong nước biến thành một con rồng trắng nhỏ, vũng nước xung quanh hồ rồng. Có một lần, một đôi cá chép không thể vượt qua long môn đến hồ rồng này, chúng tự cho rằng không còn mặt mũi nào nihìn các con cá chép khác, liền thỉnh cầu tiểu bạch long giúp chúng biến thân. Tiểu bạch long đáp ứng lời thỉnh cầu của chúng, dùng pháp lực biến chúng thành cá diếc. Cá sau khi biến thân, đầu vẫn giữ hình dạng là cá chép, chỉ có điều thân to hơn các diếc bình thường khác, trọng lượng cũng phải đến 1 -2 kg.
Tương truyền, chỉ cần ăn được loại cá diếc lớn này, có thể vượt qua được trắc trở ở kỳ thị vượt long môn, có thêm tự tin trả lời bài thi gấp trăm lần. Đây cũng là một nguyên nhân khiến mọi người thích ăn cá diếc Lục Hợp.
Trạch có liên quan gì tới Trạng Nguyên.
Trạch giống với rồng, phượng và kỳ lân, đều là những con thú thần tượng trưng cho điềm lành. Trạch là con ba ba hoặc rùa lớn dưới biển trong truyền thuyết thần thoại. Tương truyền, loài này ó thể thồ được ngọn núi tiên Bồng Lai, Phương Trượng, Doanh Châu. Khôi tinh đứng trên đầu trạch, ngụ ý của nó không nói cũng rõ ràng. Sau này theo sự hoàn thiện không ngừng của chế độ khoa cử, trạch và trạng nguyên xuất hiện mối liên quan. Cử tử thi đỗ tiến sỹ được gọi là “đăng long môn”, thi đỗ trạng nguyên được gọi là “độc chiếm ngao môn”, thi đỗ trạng nguyên được gọi là “độc chiếm ngao đầu”, đây là vinh dự cao nhất của khoa cử.
Thời kỳ Đường Tống, trên bản đá ở các bậc thềm chính giữa đại điện hoàng cung, luôn khắc hình ảnh rồng và trạch, các tiến sỹ đỗ khoa cử đều phải đứng dưới bậc thềm để chờ kết quả. Theo quy tắc khoa cử, tiến sỹ đứng đầu là trạng nguyên phải đứng một mình trên đầu trạch để đón bảng vàng, khấu bái hoàng đế. Điều này giải thích cho câu “kim bảng đề danh” và “độc chiếm ngao đầu”. “Kim bảng đề danh” là một việc vô cùng quang vinh, còn “độc chiếm ngao đầu” càng là sự quang vinh nhất trong quang vinh.
Học tử thời đại phong kiến theo đuổi “học nhỉ ưu tắc sỹ”, coi thi đỗ khoa cử là mục tiêu lớn của đời người. Người đọc sách để có thể ghi danh bảng vàng, không chỉ gian khổ đọc sách, mà còn phải kính bái Khôi tinh. Do vậy, các học từ cầu khấn trước Khôi tinh đứng trên đầu trạch, để mình có thể có được điều may mắn.
Hổ có ngụ ý may mắn gì?
Hổ là vua muôn loài, sự uy nghiêm và thần dũng của nó được mọi người kính nể. Do vậy thời cổ đại thường dùng “hổ” để tán dương những tướng sỹ chiến đấu hi sinh trên chiến trường, như hổ sỹ, hổ thần. Hổ được coi là vua của muôn loài, không chỉ có ngụ ý cao qúy và uy nghiêm, mà còn tượng trưng của quyền lực và sức mạnh. Người thống trị thời cổ đại ban binh phù cho tướng lĩnh là hổ phù, các bộ lạch dân tộc thiểu số coi hổ là biểu tượng của sự thống trị.
Cùng với sự phát triển của xã hội, văn hóa về hổ thâm nhập và lĩnh vực khác nhau, thường được coi là vật may mắn. Vật phẩm phong thủy may mắn là hổ ngọc bích. Dùng phương thức hiện đại và truyền thống thể hiện văn hóa về hổ của Trung Quốc, cũng là một cách biểu đạt văn hóa truyền thống.
Là kẻ thống trị muôn loài, hổ sinh ra đã có khả năng thống lĩnh, do đó rất nhiều người quản lý thường đặt hổ ngọ bích, ngụ ý hóa thân của quyền lực. Vua muôn loài càng có phong thái của kẻ làm vua, do vậy hổ ngọc bích tập trung cả may mắn, uy danh, tôn quý, quyền lực, có rất nhiều ngụ ý.
Đeo các vật trang sức có liên quan tới hổ không chỉ thể hiện sự kính ngưỡng con người đối với các bức hình hổ, cũng là để đạt được sự may mắn, tôn quý. Người làm quan đeo vật có hình hổ, hy vọng mình có thể ngày càng thăng tiến, có được quyền lực và địa vị cao hơn, có phong thái của người làm vua tướng.
Gà mái gáy ngụ ý đăng khoa?
Dân gian cho rằng, gà là động vật may mắn có thể mang tới điều tốt lành, gà trong văn hóa dân gian có rất nhiều ý nghĩa. Một bức tranh may mắn, trên đó vẽ một con gà trống và gà mái, nằm cùng năm con gà con trong ổ. Điều đó có ý nghĩa là “ngủ tử đăng khoa”.
Dân gian còn luôn lưu truyền một tin kỳ lại “mẫu kê đề minh, triệu ứng đăng khoa”. Tương truyền, ngày xửa, ngày xưa, huyện Đại Túc, Tứ Xuyên, Trung Quốc có một người tên là Giang Hồng Đạo. Ông từ nhỏ đã mất bố, cùng người mẹ sống cuộc sống bần hàn. Tuy nhà nghèo, nhưng Giang Hồng Đạo lài rất có ý chí, từ nhỏ đã thích đọc sách, hy vọng có một ngày sẽ ghi danh bảng vàng. Mẫu thân cũng là người thông minh đại nghĩa, để có thể giúp con hơn hẳn mọi người, không kể đêm ngày dệt vải đổi lấy tiền tài, cho con đi học.
Đến năm trưởng thành, Giang Hồng Đạo phải tiến kinh tham gia khoa cử. Mẫu thân buổi tối trước ngày khởi hành gói ghém đồ đạc và bút sách cho ông. Sáng sớm hôm sau, trời vừa sáng, bỗng một con gà mái trong nhà phát ra tiếng gáy giống như gà trống. Giang Hồng Đạo cho rằng gá mái gáy là điềm vô cùng xấu, nên nản lòng, không muốn lên kinh tham gia kỳ thi nữa. Nhưng mẹ ông lại nói với ông: “Gà mái gáy là mình thường không gáy, một khi gáy thì kinh động lòng người. Con tham gia kỳ thi lần này chắc chắn sẽ đỗ khoa cử nhất cử thành danh. Lấy lại tinh thần và lên đường đi kinh ngay đi!”. Giang Hồng Đạo nghe lời mẹ, tinh thần phấn chấn lại, rời nhà đi kinh thành. Sau này, Giang Hồng Đạo quả thật đỗ tiến sỹ, như lời mẹ ông đã dự liệu.
Cái hốt là thể hiện thân phận đạt quan quý nhân phải không?
Hốt là thể bằng ngà, ngọc hoặc tre của quan lại khi vào chầu, dùng để ghi việc hoặc chỉ ý của đế vương thời xưa. Trong Lễ ký có ghi lại: “Hốt dài 2 xích 6 thốn, giữa rộng 3 thốn”. Kích thước này phù hợp để quan viên mang theo.
Mới đầu hốt được làm bằng tre, Lễ ký – ngọc tảo ghi chép: “Hốt, thiên tử dĩ cầu ngọc, chư dầu dĩ tượng, đại phu dĩ ngư tu văn trúc, thổ trúc, bổn tương khả dĩ”. Sa này dùng xương, ngà voi hoặc ngọc chế thành, dựa vào chất liệu để phân biệt các cấp thứ bậc của quan văn võ.
Sau những năm thứ 4 Võ Đức Đời đường, các quan viên ngũ phẩm trở lên khi lên chiều tay phải cầm tấm hốt ngà voi; quan luc phẩn trở xuống tay phải cầm tấm hốt bằng tre gỗ. Đại Đường còn quy định, quan viên phải kẹp tấm hốt đeo trên eo, cưỡi ngựa lên triều. Minh triều quy định, quan viên ngũ phẩm trở lên phải cầm tấm hốt ngà voi, ngũ phẩm trở xuống không cần cầm tấm hốt.
Trong Hạng tích hiên chí viết: “Khuynh chi, trì nhất tượng hốt chí: “Thử ngô tổ thái thường công tuyên đức gian chấp thử dĩ triều, tha nhật nhữ đương dụng chi”. Đến thời nhà Thanh, do lễ tết và tập tục không giống nhau, quan nguyên lên triều không cần cầm tấm hốt nữa.
Tấm hốt có chất liệu khác nhau, thể hiện phẩm cấp của quan văn võ, do đó tấm hốt là một vật tượng trưng cho dịa vị ở thời cổ đại Trung Quốc. Giữ tấm bản có nghĩa là thể hiện thân phận đạt quan quý nhân.
Cây hòe tượng trưng cho lộc phải không?
Cổ đại có cách nó “tam hòe cửu trúc”. Theo Chu lễ chú sớ, triều đình đời Chu trồng ba cây hòe, chín cây táo chua, công khanh sỹ đại phu lần lượt ngồi ở dưới, để xác định địa vị tam công cửu khanh, dưới ba câu hòe chính là “tam công”. Sau này “tam hòe cửu cức” là chỉ tam công cửu khanh. Do đó nói hòe là đại diện của “lộc”.
Dân gian còn có điển cố từ “tam hòe đường”. Vương Hộ đời Tống là đại thần khai quốc, từng nhậm các chức vị quan trọng như thượng thư, binh bộ thị lang. Có một năm, Tiết độ sứ Phù Ngạn Khanh ở Đại Danh bị vu cáo tạo phản, Tống thái tổ Triệu Khuông Dận pháo Vương Hộ đi điều tra. Tống thái tổ ban cho vương Hộ tướng vị và cho phép ông tùy ý hành sự, kỳ thực là tước binh phù của Phù Ngạn Khanh. Vương Hộ hiểu được tâm tư của hoàng đế, nhưng quân mệnh khó khánh, đành phải đi tới Đại Danh. Nhưng, Vương Hộ đến được vài tháng, qua điều tra kỹ càng nhiều phương diện, phát hiện Phù Ngạn Khang không hề có ý đồ tạo phản. Vương Hộ đến báo cáo kết quả điều tra thực tế cho hoàng thượng, dùng tính mạng của cả dòng họ nhà mình để đảm bảo. Mặc dù vậy Triệu Khuông Dẫn không hề nghe lọt tai lời nói của Vương Hộ, tìm cớ để đẩy ông tới Tương Châu nhậm chức. Như vậy, Vương Hộ không còn được làm tể tướng nữa.
Sau khi tới Tương Châu, Vương Hộ ở trong vườn nhà mình tự tay trồng ba cây hòe và nói: “Mình không làm được tể tướng, nhưng đời sau của mình nhất định ngồi được vị trí tam công. Dùng ba cây hòe này làm dấu vậy”. Sau này, quả thật như lời dự đoán của Vương Hộ, con ông là Vương Đán làm tể tướng của Tống Chân Tông. Từ đó, “tam hòe đường” trở thành một đường hiệu phân nhánh của gia tộc họ Vương Hộ, còn được gọi là “tam hòe vương thị”.
Mây xanh và lộc có mối quan hệ gì?
Mây xanh vốn chỉ bầu trời, không trung, sau này trở thành tượng trưng của “lộc”, như “bình bộ thanh vân” “thanh vân trực thượng” ….
Tư Mã Thiên trong Sử ký – Phạm Thư Thái trạch liệt truyện có viết lại: “Tu giả đốn thủ ngôn tử tội, viết” “giả bất ý quân năng tự chsi vu thanh vân chi thượng”.
Câu chuyện được nói đến ở đây là:
Thừa tướng nước Tần Phạm Thư trước khi thành danh, từng làm việc cho Đại phu Tu giả ở nước Ngụy. Có một lần, Phạm Thư nhận được lời tán thưởng và tặng phẩm từ Tề Vương. Tu Giả trong lòng rất khó chịu, và vô cùng ghen ghét Phạm Thư, nghĩ đủ mọi đọc kế hãm hại Phạm Thư. Sau này Phạm Thư may mắn bảo toàn tính mạnh, làm được thừa tướng của nước Tần.
Có một năm, Tu Giả xuất sử nước Tần, Phạm Thư thay trang phục bình thường, hàn huyên cùng Tu Giả, và đích thân đi xe ngựa đưa ông ra đến phủ thừa tướng. Người trong phủ nhìn thấy thừa tướng tự mình đi xe ngựa vô cùng kỳ lạ, đều tránh đi hết. Tu Giả cũng cảm thấy chuyện kỳ lạ. Đến phủ thừa tướng, Phạm Thư nói với Tu Giả: “Ông đợi một chút, tôi vào trước thông báo một tiếng”. Tu Giả chờ đợi ở cửa rất lâu, vẫn không thấy bóng dáng Phạm Thư đâu, liền hỏi tiểu tốt trong cổng: “người vừa rồi sao vẫn chưa ra?” . Tiểu tốt nói “Ông ấy chính là thừa tướng nước Tần của chúng tôi”. Tu Giả nghe thấy sắc mặt tái đi, nhanh chóng cởi bỏ quần áo, quỳ xuống, cầu xin tiểu tốt vào thông báo. Sau này, Phạm Thư tiếp kiến Tu Giả trên Đại Đường. Tu Giả nhìn thấy Phạm Thư liền liên tục khấu đầu và nói: “Tôi không ngờ ngài dựa vào khả năng của mình đạt được tôn vị cao như vậy, tôi không dám đọc sách, cũng không dám tham gia bất kỳ chuyện của thiên hạ nữa”.
Mây xanh một là so sánh với cao quan hiển tước, hai là so sánh với con đường mưu cầu địa vị cao. Uông Linh đời Minh trong Xuân vu ký – bi thu viết: “Can đảm tự liên bạch thủ, cong danh thùy tá thanh vân”. Mây xanh trong thơ là “thanh vân lộ”.
Liêm Tuyên Trọng người Tống là một người tài hoa tuyệt vời, tuổi trẻ mà đã thi đỗ tiến sỹ, được tể tướng Trương Bang chọn làm con rể. sau này, Liên Tuyên Trọng tự đắc ý nói bản thân là “bình bộ thanh vân”. Để so sánh con đường làm qua của ông thuận lợi, được thăng chức một cách dễ dàng. Do đó, đời sau liền lấy “bình bộ thanh vân” để so sánh với thăng quan tiến chức thuận lợi. Dân gian Trung Quốc cũng thường dùng những bức tranh may mắn có diều bay vào đám mây để biểu đạt tâm trạng vui mừng khi “thanh vân đắc ý” của con người.
Hồ lô có nghĩa là “Hồ lộc”.
Những ghi chép về người xưa về hồ lô rất nhiều. Người xưa thường gọi hồ lô là “cam hồ” … đều là đồ vật đựng đầy thức ăn và rượu. Do hình dạng của hồ lô giống với những đồ đựng, bầu nậm ở trên nên người ta lấy “hồ lô” – ấm, bình, hũ thay cho hồ lô.
Hồ lô còn có nhiều ý nghĩa khác. Trong hồ lô chín thường có nhiều hạt nhỏ. Cành leo của hồ lô có âm đọc là “vạn” lại đồng âm với từ “vạn”. Từ đó, hồ lô được dân gian mang ý nghĩa “con cháu vạn đời, cát tường thịnh vượng”. Ngoài ra hồ lô còn đọc hài âm là “hộ lộc” (giữ lộc, bảo vệ lộc), mang ý nghĩa bảo vệ quan lộc, ngày một thịnh vượng. Để tăng thêm ý nghĩa cát tường, người xưa còn cho rằng hồ lô còn có ý nghĩa về phúc lộc, có thể tránh tà, chuyển hung thành cát lợi, bảo vệ sự hưng vượng cho đời sau. Do vậy, từ xưa tới nay, hồ lô là một vật phẩm cát tường, được dân gian vô cùng sùng kính.
Có trường hợp treo hồ lô dưới cột góc nhà, gọi là “đính lương”. Tương truyền, điều này có thể giúp cho gia đình mãi mãi bình an. Có người con dùng dây đỏ buộc năm quả hồ lô, gọi là ngũ phúc lâm môn. Người Đài Loan thường cho rằng: “Trong nhà có hồ lô, gia cảnh luôn giàu có”. Nói một cách đơn giản, trong nhà có hồ lô, cuộc sống luôn ấm no.
Theo quan niệm của dân gian, hồ lô là vật cát tường có thể đem đến cho người muôn sự may mắn. Hồ lô là vật phẩm gửi gắm nhiều ước nguyện của con người.
Hoa hạnh mang tới điều may mắn.
Người xưa thường gọi hoa hạnh là “hoa cập đệ”, là loại hoa may mắn trong gia đình, dinh thự. Kỳ thi tiến sỹ ngày xưa thường được mở vào tháng 2 mùa xuân. Đây là mùa hoa hạnh nở rộ nên có môi liên hệ thân thiêt với kỳ thi tiến sỹ.
Vườn hạnh khi nở hoa thường là nơi các sỹ tử hướng tới. Đây cũng là nơi tụ tập các tiến sỹ.
Vườn hạnh khi nở hoa thường là nơi các sỹ tử hứng tới. Đây cũng là nơi tụ tập của các tiến sỹ đăng khoa. Đương nhiên, một bộ phận cao hứng thưởng ngoạn, một số thì ủ ê, chán nản.
Vào thời Đường, khi các tiến sỹ thi đỗ, các tân khoa thường tiến hành hoạt đọng chúc mừng. Trong đó có tham gia hạnh viên yến. Trong bài thơ Bồ tân cập đệ phó đồng niên hội viết: “Từng vịn cảnh quế thơm, nơi nơi bước theo anh. Nay dự Hạnh viên yến, đương lúc trời tấu nhạc”. Hạnh viên yến không chỉ là yến tiệc ăn uống mà còn là hoạt động vui chơi vô cùng tao nhã. Sau khi kết thúc uống rượu, trong các tân khoa chọn ra một vị tiến sỹ anh tuấn làm thám hoa, cũng gọi là sứ giả thám hoa. Vị này phải trực tiếp vào trong vườn hạnh, tìm ra một bông hoa hạnh đẹp nhất. Nếu bông hoa đẹp nhất bị người khác lấy mất, vị thám hoa sẽ bị mọi người trách phạt. Hình thức phạt tội ở đây không phải là đánh đập mà chỉ là một hình thức vui đùa. Do đó, hạnh viên yến còn được gọi là thám hoa yến. Đến thời Nam Tống sau này, thám hoa mới được chuyển thành tiến sỹ đệ tam. Vào ngày Hạnh hoa yến, mọi người đều mang con cái đến, mong mỏi có thể nhiễm được phúc khí tiến sỹ, có được vận tốt về khoa cử.
Do hoa hạnh có ngụ ý là hạnh hoa yến và thám hoa hái hoa nên việc hai hoa và cái hoa hạnh trở thành một loại lối sống thời thường lúc đó. Trong bài thơ Hạnh hoa thi, nhà thơ Đỗ Mục miêu tả: “chẳng lạ vường hạnh tiều tụy đi, đầy người trong thành cài ha”. Do đều muốn thi đỗ tiến sỹ nên mỗi người đều cài một bông hoa hạnh. Từ đó, hoa hạnh được gọi là hoa cập đệ.
Sư tử và cao quan bổng lộc có mối liên hệ gì?
Sư tử là một loài động vật uy nghiêm và hung mãnh, giống với hổ trong giới động vật, cũng được gọi là “chúa tể muôn loài”. Chính vì địa vị này, nên trong dân gian sư tử thường được lấy để tượng trưng cho phú quý, quyền thế của thế gian.
Chữ “sư” (sư tử) và “sư” (thái sư) đồng âm, thể hiện ý nguyện tốt đẹp. Thái sư là chức quan trong thời kỳ lưỡng Chu, sau đời Hán có Thái Phó, Thái Bảo cùng hợp lại là “tam công”. Thiếu sư là chức quan thời kỳ Xuân Thu, sau này có Thiếu Phó, Thiếu Bảo, hợp lại thành “tam thiếu”. Điểm chung của những chức quan này đều là hộ trợ, định hướng cho thiên tử đương chính.
Do hai chức vị này đều liên quan mật thiết với hoàng đế, cho nên là chức quan mọi người đều mơ ước. Trên quan phục của quan võ thời Minh Thanh có thêu hình sư tuer, đại diện cho quan võ nhị phẩm. Trước cổng quan phủ, sư tử đá lớn ở bên trái đại diện cho “thái sư”, sử tử đá lớn bên phải đại diện cho “thiếu sư”.
Do đó, dân gian thường dùng bức họa may mắn sư tử để chúc người có thể đạt được mong ước hoặc đường làm quan hanh thông. Như bức tranh tết “Thái sư thiếu sư”, có hai đầu sư tử một to một nhỏ, chữ “đại” viết gần giống chữ “thái”, chữ “tiểu” viết gần giống chữ “thiếu”, chữ “sư” lại đồng âm với “sư” (thái sư). Do vậy, cả bức tranh tết ngụ ý đời đời thế thế cao quan bổng lộc. Một vài bức tranh cũng vẽ một vị đồng tử, cưỡi một con sư tử lớn, chơi với một con sư tử nhỏ, ngụ y chính là chúc phúc con cháu sau khi trưởng thành có thể đỗ đạt khoa cử, có địa vị cao.
Vì sao “khôi tinh đồ” được học sỹ coi trọng?
Ngoài việc mài kinh sử, kẻ sỹ thời xưa còn cầu Khôi tinh chủ nghiệp văn phù hộ dùng bút đỏ điểm tên cho mình. Do đó, không chỉ lầu Khôi tinh được nhiều học sỹ tới khấn vái mà Khôi tinh đồ được nhiều người coi trọng.
Truyền thuyết kể rằng, vào giữa năm Thiên Thuận thời Minh Anh Tông, kinh thành cử hành thi hội. Quan giám khảo dán một bức Khôi tinh đồ bên phải chỗ ngồi trường thi. Nhưng không hiểu vì sao bức tranh tự nhiên biến mất. Trong lúc đó, một thí sinh họ Lục tá túc trong nhà người bạn thân họ Ôn. Ôn mỗ cũng là một thí sinh, tham gia trong kỳ thi lần này.
Vào ngày thứ hai, Lục mỗ lấy bức tranh Khôi tinh ra thưởng lãm. Họ Ôn hỏi duyên cớ vì sao có được. Lục mỗ liền thuật lại: “Hôm qua, tôi ra khỏi cửa tản bộ, gặp một đứa trẻ, tháy có cầm bức tranh này. Liền muốn lấy để xem. Nên dùng hoa quả để đổi lấy”. Sau khi nghe xong, Ôn mỗ nghĩ thầm: “Khôi tinh giáng lâm tại cửa nhà mình mà không hề hay biết. Không ngờ lại rơi vào tay của anh ấy. Xem ra thí sinh đỗ kỳ thi hội chắc hẳn là người này rồi”. Vào hôm dự thi, Lục mỗ dán Khôi tinh đồ ở bên phải chỗ ngồi trường thi, vô cùng tự tin, lời văn mạch lạc, khơi rõ nguồn cơn, kết quả đứng đầu kỳ thi hội. Ôn mỗ mất bình tĩnh, lời văn không sáng tỏ, cuối cùng bị đánh trượt.
Sau này sự việc truyền ra ngoài, có ảnh hưởng không hề nhỏ. Câu chuyện liên quan tới Khôi tinh đồ ngày càng phổ biến trong dân gian. Mỗi sỹ tử đều mong muốn Khôi tinh đồ có thể phù hợp cho mình có văn vận hanh thông. Tuy trong trường thi có nhiều Khôi tinh đồ nhưng không phải kẻ sỹ nào cũng có thể trúng được. Về sau, Khôi tinh đồ được sỹ tử và mọi người tín phụng và thờ cúng.
Tương đất “Tiểu Khôi tinh”
Thời xưa, khi đi thi, các thí sinh thường dán Khôi tinh vào vị trí bên phải chỗ ngồi trường thi và liên tục bái lạy.
Truyền thuyết dân gian kể rằng, trước khi đất Thục mở khoa thi, một người mang tượng “tiểu Khôi tinh” đến bán. Mọi người tranh nhau mua, tạo ra một khung cảnh vô cùng huyên náo. Vào năm đó, đại thần Trần Thế Kỳ đến Tứ Xuyên làm chủ khảo, nhìn thấy cảnh tượng các thí sinh tranh nhau mua tượng đất. Ông liền mời tất cả mọi người lại. Ông nói: “Ta ra vế đố, câu của ta là: “Bán Khôi tinh, mua Khôi tinh, sao lòng không mua, sao lòng không bán”. Vế đối đưa ra quá khó. Hơn một ngày mà không một sỹ tử nào tìm ra vế đáp.
Đến ngày hôm sau, Trần Thế Kỳ lại mời tất cả các sỹ tử và nói: “Hóa trang thật, hóa trang giả, sao biết là giả, sao biết là thật”. Các sỹ tử nghe xong đều tỉnh ngộ. Lúc đó, Trần Thế Kỳ mới nói tiếp với mọi người: “Muốn thi đỗ, cần dựa vào những việc chân thực”.
Trần Thế Kỳ muốn khuyên mọi người không nên quá chú trọng vào việc cầu thần thánh ban phúc, quên đi sự phần đấu của bản thân. Nếu người lười nhác, chỉ mong cầu vào sự may mắn không chỉ quỷ thần xa lánh mà ngay cả con người cũng không muốn giúp đỡ.
Nghiên mực Hấp Châu sao được gọi là bảo vật?
Nghiên mực Hấp Châu (huyện Hấp, tỉnh An Huy, Trung Quốc) được coi là một trong 4 loại nghiên lớn của Trung Quốc cổ đại. Nó với vượt Long Môn (thi đỗ) có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Tương truyền, vào thời Đường, một người tới núi Long Vĩ đi săn, nhặt được một hòn đá vô cùng tinh xảo. Hòn đá này mịn nhẵn, trên mặt có Kim tinh và hoa văn. Người thợ săn thấy viên đá có nét kỳ lạ liền mang về nhà. Sau này, con trai của ông đỗ tiến sỹ. Ông cho rằng, viên đá ở Long Vĩ đã giúp người con vượt long môn. Sau này khi mừng con thi đỗ, ông liền thuê một người thợ khắc nổi tiếng, đẽo gọt viên đá thành hình con rồng nhả ra nghiên mực.
Vào thời Nam Đường, thái thú Hâm Châu hiến rồng nhả nghiên mực này cho hoàng đế Lý Cảnh. Một lần, hoàng đế đổ mực vào nghiên thử bút. Đột nhiên từ mồn con rồng nhả ra một chuỗi bóng bóng nước. Lý Cảnh cảm thấy vô cùng kinh ngjac, thốt lên: “Đây là nghiên thần long đích thực”. Sau này, hoàng đế sắc chỉ Hâm Châu chuyên làm nghiêng dâng lên hoàng thất. Từ đó, nghiêm Hâm Châu nổi tiếng trong ngoài nước.
Văn nhân thời xưa coi nghiên Hâm Châu là bảo bối, mong muốn được hưởng long khí, một phen vượt Long môn.
Quan tài có phải là vật phẩm cát tường không?
Ngày nghĩ đêm mộng. Dân gian có nhiều cách giải nghĩa giấc mộng cát tường, trong đó có ý nghĩa được làm quan, có nhiều lộc.
Vào thời kỳ Đông Tấn, dân gian lưu truyền một quan điểm phổ biến, đó là “mộng xác chết được làm quan”. Một người đế hỏi danh sỹ đương thời Ân Hạo rằng: “Vì sao mộng thấy quan tài lại có thể thăng quan tiến chức, có được nhiều lộc vậy?”. Ân Hạo liền trả lời: “Quan chức vốn hôi thối vô cùng nên mộng thấy quan tài là đúng vậy”. Quan điểm này của Ân Hạo thể hiện tính cách thanh cao, hợp với suy nghĩ của các danh sỹ đương thời, nên được nhiều người tán thưởng. Nhưng đối với mọi người binh dân, quan lộc là một dư vị vô cùng hấp dẫn, quan cao lộc hậu là ước mơ của nhiều người. Điều này cho thấy thần linh muốn thông báo cho gười mộng thấy quan tài sắp có được quan vận hanh thông hoặc sắp bước lên con đường hoạn lộ thanh vân.
Ngoài quan niệm phổ biến trong dân gian, trong sử sách cũng có nhiều ghi chép liên quan tới hiện tượng này. Sách Tấn thư có ghi lại một câu chuyện như sau: Vào một đêm, Sách Xung mộng thấy từ trên trời rơi xuống hai chếc quan tài. Vị trí quan tài rơi xuống đúng trước mặt Sách Xung. Tỉnh mộng, Sách Xung vô cùng hốt hoảng, không biết là cát lợi hay hung họa. Khi kể lại giấc mộng, có người nói với ông rằng: “Quan tài tượng trưng chức vụ, quan chức. Mộng thấy quan tài là được lộc thăng quan tiến chức, là dấu hiệu cát tường. Dựa vào giấc mơ có thể thấy hai quan tài có nghĩa ông được đề bạt lên 2 lần. Đó là sự việc hoàn toàn may mắn”. Lúc này , tâm lý Sách Xung vô cùng thoải mái nhưng vẫn băn khoăn không biết ai là quý nhân đề bạt mình.
Sau đó ít hôm, quan thái thú Quách Hoàng nhận được thư trong kinh thành. Đó là thư của tư đồ Vương Nhung, trong thu yêu cầu quan thái thú phong Sách Xung làm công tào. Trải qua một thời gian, Sách Xung lại được đề cử làm hiếu liêm. Trong vòng chưa đầy tháng, Sách Xung được thăng chức 2 lần, ứng với giấc mộng của ông.
Tuy mộng quan tài có thể được quan vị nhưng không phải lúc nào cũng có được giấc mộng may mắn như thế. Người đời liền nghĩ ra một cách, làm một cái quan tài nhỏ tinh xảo để biếu tặng, với ngụ ý cầu chúc được thăng quan tiến chức.
Dùng “cốc” kính rượu
Từ “tước” có hai ý nghĩa: Một là cốc uống rượu, hai là chức tước. Thời Tây Chu, triều đình phân lộc vị của phong tước thành 5 cấp: Công tước, Hầu tước, Bá tước, Tử tước, Nam tước. Đến thời kỳ Chiến quốc, triều Tần cải cách chính pháp, dựa vào công lao mà phân chia tước vị. Lúc này, tước vị lại được phân thành 20 cấp. Đến thời Đường, triều đình đem tước vị phân thành 9 cấp, quy định quan ngũ phẩm trở lên mới có đủ tư cách để nhận chức vị. Đến thời Minh, Thanh, quan ngũ phẩm trở lên mới được phong tước, gọi là cáo phong. Quan lục phẩm trở xuống gọi là sách phong. Tóm lại, phong tước là một sự việc lớn, vinh hoa trong đời làm quan.
Vào thời Ân Thương, Tây Chu xuất hiện một loại cốc uống rượu, gọi là tước. Chủ yến dùng đựng đầy rượu hoặc rượu ấm. Cốc uống rượu ngày xưa được chia thành hai loại: Một là tước, hai là tôn. Tước là cốc của các bậc tôn quý. Tôn là cốc của những người có địa vị thấp hèn. Trong các yến tiệc, người chúc dùng tước để kính rượu với mong muốn người được mời thăng quan tiến chức, “tước lộc thêm tước lộc”. Còn bản thân phải uống hết rượu trong “tôn” để thể hiện sự khiêm cung.
Trong niên họa, chính giữa là thiên quan cầm quan ấn, bên cạnh có hai đồng tử. Một người cầm cốc tước, một người cầm sách tấn phong với ngụ ý thăng quan, phát tài.
Các bước để chuẩn bị thỉnh lộc thần.
Lộc thần là sao trên trời, có thể tìm thấy trong sáu sao Nam đẩu và bảy sao Bắc đẩu. Trong dan gian thường có nghi lễ thỉnh lộc thần vào trong nhà để phù hợp cho mọi người có thể thăng quan tiến chức. Thỉnh lộc thần có những quy định và các bước nhất định, không thể tùy tiện.
Trước tiên cần chuẩn bị các vật phẩn như sau: Sáu chén rượu, sáu đôi đũa, sáu cái bát, cơm, hương, lư hương (bát hương), nến, cá, hương, thịt, gà, dao, nguyên bảo (tiền vàng). Lư hương quay hướng chính Nam, dao đặt ở vị trí phía Tây của bàn thờ, lưỡi dao quay sang hướng Tây. Cá và gà đặt ở giữa, trên đầu dán giấy đỏ, đầu gà hướng vào cửa chính. Phía Đông của bàn thờ bày thịt. Sáu chén rượu đặt ở hướng Bắc. Sáu đôi đũa đặt lần lượt sang bên phải của chén rượu.
Vị trí các vật phẩm được đặt chính xác mới tiến hành thỉnh lộc thần như sau:
– Thắp nến và hương.
– Đổ một ít rượu vào chén.
– Đốt tiền vàng, nguyên bảo ở bên trái cửa chính và cửa hậu.
– Đem một ít nguyên bảo đốt ở trước bàn thờ.
– Khi nguyên bảo đã cháy hết, lạy sát đất.
– Sau đó đổ ít rượu ra chén.
– Đợi thần ăn uống xong, mới đổ thêm rượu.
– Sau đó, ra khỏi cửa nhà đốt pháo, ở phía Đông của cửa đốt nguyên bảo cho thổ công.
– Đợi hương cháy hết, thỉnh thần lộc rời đi. Đem rượu trên bàn đổ sang phía Đông của cửa, trên tường, trên cửa ….
Ngày 7 tháng 7 cúng Khôi tinh
Khôi tinh nắm giữ văn vận và thăng tiến, là một trong năm thần Văn xương. Ngày 7 tháng 7 âm lịch là ngày đản sinh của Khôi tinh. Từ xưa tới nay, dù là cầu thi cử đỗ đạt hay thăng tiến trên con đường hoạn lộ thanh vân, mọi người đề kính bái Khôi tinh, mong muốn nhận được sự trợ giúp của Khôi tinh? Lễ cúng Khôi tinh của dân gian tương đối phức tạp, cần chuẩn bị một bức tranh Khôi tinh, trà, rượu, tiền giấy, pháo và ba đĩa hoa quả. Ba đĩa lần lượt là quế viên, quả phỉ và hoa tươi. Ba thứ tượng trưng trạng nguyên, thám hoa, bảng nhãn. Những cúng phẩm này được đặt lên hướng Bắc đẩu. Khôi tinh là một trong bảy ngôi sao của Bắc đẩu. Sau khi lễ bái xong, dùng tiền vàng và bức tranh Khôi tinh hóa. Sau đó mới đốt pháo, nghi lễ cúng Khôi tinh được hoàn thành.
Trong cuộc sống, nghi lễ cúng Khôi tinh thường đơn giản hơn nhiều nhưng về cơ bản vẫn giữ được tinh thần của người cổ đại. Nhiều người thường đến khấn vái ở miếu Văn vương, cầu mong Khôi tinh phù hộ độ trì cho mình thi cử thuận lợi, công việc thăng quan tiến chức, phát tài. Trước khi đến miếu, họ thường chuẩn bị một bức tranh Khôi tinh hoặc một là bùa có điểm hình Khôi tinh, trên đó có điểm dấu đỏ của bút Văn xương. Trong khi tiến hành cầu cúng, mang bức tranh và lá bùa ra. Sau đó, đốt hương, khấn vái, rồi mang bức tranh về nhà treo trên vị trí cát lợi của phòng khác hoặc phòng làm việc. Riêng bùa Khôi tinh có thể mang bên người để có được sự phù hộ thi cử thuận lợi hoặc thăng quan tiến chức. Đồng thời, bút Văn xương đặt ở trước bàn làm việc, giúp tăng cường quan vận và vận Văn xương. Với loại bút Văn Xương được trải qua khai quang của các pháp sư, cao tăng thường có năng lượng mạnh thúc đẩy sự nghiệp công danh.
Ngày 7 tháng 7 là một lễ tiết hết sức quan trọng, cũng là ngày đản sinh của Khôi tinh. Mọi gia đình muốn phát triển công danh sự nghiệp hoặc con cái thi cử thuận lợi, thăng tiến có thể đến miếu Văn xương cầu cúng hoặc làm lễ tại nhà. Dân gian thường nói có thờ có thiênng, có kiêng có lành, hy vọng thông qua sự cầu cúng thành tâm của mỗi người, mọi ước nguyện đều có thể trở thành hiện thực.
Vật phẩm phong thủy Tháp văn xương
Sao Văn xương vốn chủ về phát huy tài học, con đường học vấn. Chúng ta nên chọn vị trí này để đặt tủ sách, bàn học, phòng học. Đây chính là nơi dành cho người đang học tập thi cử hoặc các học giả muốn tiến nhanh trên con đường nghiên cứu.
Tháp Văn xương hiện là một ngôi bảo tháp hàng đầu ở phía Nam Quảng Tây, Trung Quốc. Tháp thường được xây dựng theo hình bát giác, cao tầm 3.645m, gồm 9 tầng với mái hiên bằng gạch chồng lên nhau và nhỏ dần từ tầng dưới lên tầng trên, đỉnh tháp là một khối hình hồ lô màu đỏ.
Người Trung Quốc thường đến đây để cầu đỗ đạt, thăng tiến trong học tập và công danh sự nghiệp.
Ngoài ra, họ còn có thói quen bày mô hình tháp ở vị trí Văn xương trong nhà. Bởi theo quan niệm từ xa xưa, chùa tháp tượng trưng cho trí tuệ và pháp lực vô biên của nhà Phật nên tháp bày trong nhà sẽ có tác dụng bảo vệ và đem lại may mắn, thuận lợi trong học hành, thi cử.
Tháp Văn Xương có khả năng ngăn ngừa hung khí, tà ma bởi và được sử dụng trong việc loại trừ ma quỷ. Nó cũng rất hữu dụng cho những ai sắp trải qua những kỳ thi cử quan trọng hoặc những người muốn tăng tiến về trí tuệ và công danh.
Tháp Văn Xương có thể được chế tác từ thạch anh, ngọc lục bảo, pha lê hoặc đồng, đá…Trong trường hợp gia đình có con, cháu sắp phải tham dự kỳ thi lớn như tốt nghiệp, đại học…, tốt nhất nên đặt tháp Văn Xương trên bàn học của cháu, đúng huyệt văn xương trong nhà để cầu may mắn.
Sao Văn Xương vốn chủ về phát huy tài học, con đường học vấn. Chúng ta nên chọn vị trí này dùng đặt tủ sách, bàn học, phòng học. Đây chính là nơi dành cho người đang học tập thi cử hoặc các học giả muốn tiến nhanh trên con đường nghiên cứu.
Ngược lại, nếu vị trí này chúng ta không biết nên vô tình đặt phòng vệ sinh, bếp đun hoặc đặt các đồ vật không sạch sẽ thì công việc học tập sẽ tốn nhiều công sức nhưng không đạt được thành quả bao nhiêu.
Có thể tim ra vị trí tốt rồi nhưng không có cách nào thay đổi được các đồ vật tại vị trí đó thì chúng ta có thể dùng Tháp Văn Xương để làm tăng cường cát khí cho vị trí Sao Văn Xương.
Cách bài trí Tháp Văn Xương:
Ta dùng la bàn lấy tâm của ngôi nhà, đo chính xác hướng nhà. Sau đó đối chiếu với các hướng nhà dưới đây:
1. Tuổi: Giáp Tý, Giáp Dần, Giáp Thìn, Giáp Ngọ, Giáp Thân, Giáp Tuất. Vị trí Văn Xương ở hướng Đông-Nam.
2. Tuổi: Ất Sửu, Ất Mảo, Ất Tỵ, Ất Mùi, Ất Dậu, Ất Hợi. Vị trí Văn Xương ở hướng Nam.
3. Tuổi: Bính Tý, Bính Dần, Bính Thìn, Bính Ngọ, Bính Thân, Bính Tuất. Mậu Tý, Mậu Dần, Mậu Thìn, Mậu Ngọ, Mậu Thân, Mậu Tuất. Vị trí Văn Xương ở hướng Tây-Nam.
4. Tuổi: Đinh Sửu, Đinh Mão, Đinh Tỵ, Đinh Mùi, Đinh Dậu, Đinh Hợi. Kỷ Sửu, Kỷ Mảo, Kỷ Tỵ, Kỷ Mùi, Kỷ Dậu, Kỷ Hợi. Vị trí Văn Xương ở hướng Tây.
5 Tuổi: Canh Tý, Canh Dần, Canh Thìn, Canh Ngọ, Canh Thân, Canh Tuất. Vị trí Văn Xương ở hướng Tây-Bắc.
6. Tuổi: Tân Sửu, Tân Mảo, Tân Tỵ, Tân Mùi, Tân Dậu, Tân Hợi. Vị trí Văn Xương ở hướng Bắc.
7. Tuổi: Nhâm Tý, Nhâm Dần, Nhâm Thìn, Nhâm Ngọ, Nhâm Thân, Nhâm Tuất. Vị trí Văn Xương ở hướng Đông-Bắc
8- Tuổi: Quý Sửu, Quý Mảo, Quý Tỵ, Quý Mùi, Quý Dậu, Quý Hợi. Vị trí Văn Xương ở hướng Đông.
Vật phẩm phong thủy mang đến phúc khí
Khăn trùm đầu đỏ có quan hệ gì với phúc?
Khi chúng ta xem ti vi, thường nhìn thấy các cô dâu trong phim cổ trang đều đội khăn trùm đầu, ngồi trong kiệu hoa, vui vẻ và tràn đầy cảm giác thần bí, chờ đợi giây phút chú rể vén khăn trùm đầu trong đêm động phòng. Dù là người ngoài cuộc ở trước màn hình ti vi cũng không khỏi hồi hộp. Vậy, vợ chồng thực sự kết hôn sẽ có cảm gián hạnh phúc mãnh liệt như thế nào? Một chiếc khăn trùm đầu, sao có thể khiến cho mọi người động lòng như thế? Chiếc khăn trùm đầu đầy bí ẩn này được ra đời như thế nào?
Tương truyền, khi trời đấu hỗn độn chưa phân, Bàn Cổ ngủ chìm trong đó. Sau này Bàn Cổ tỉnh dậy, đã tìm một cái rìu khổng lồ tách trời và đất ra, về sau có người rơi xuống. Sau đó giữa trời và đất xuất hiện một cặp anh em, tức là Phục Hy và Nữ Oa. Hai người cùng nhau chung sống nhiều năm, nhưng không xuất hiện bất kỳ sinh linh nào, để sinh sôi nhân loại, hai anh em liền bàn bạc kết nghĩa vợ chồng. Tuy nhiên anh em kết hợp dù sao cũng trái với luân thường nên đắn đo nhưng không thể không có sinh linh giữa trời đất. Do vậy, hai người lên đỉnh núi cầu xin ông trời: “Nếu ông trời đồng ý cho anh em tôi làm vợ chồng, hãy cho đám mây trên bầu trời tập hợp lại, nếu không đồng ý hãy cho chúng tản ra”. Vừa nói xong, mấy đám mây đó lần lượt di chuyển lại gần nhau, cuối cùng hợp làm một. Vậy là Nữ Oa đã kết hôn với anh trai, để che đi sự ngượng ngùng, họ đã kết cỏ làm quạt để che mặt. Người thời nay cưới, vợ cầm quạt, cũng chính là tượng trưng cho sự việc này. Con cháu đời sau của Nữ Oa học theo đó. Sau khi kết hôn, các cô gái lấy khăn trùm đầu che mặt. Điều này có nghĩa bỏ thân phận cũ và bắt đầu thân phận mới của cô dâu nên dễ bị tà ma thừa cơ xâm nhập. Dùng cách này để tránh tà ác, cầu bình an. Về sau, do kết hôn là một trong 4 việc đại hỷ của đời người, khăn trùm đầu đã trở thành tượng trưng cho vui vẻ và phúc trạch.
Đây chính là lai lịch của khăn trùm đầu đỏ trong truyền thuyết thần thoại cổ đại Trung Quốc và cũng từ nguyên do này mà nó là vật đại diện cho phúc khí.
Khăn trùm đầu thực sự được xuất hiện sớm nhất vào thời kỳ Bắc Tề của Nam Bắc Triều, do nằm ở phương bắc, tương đối lạnh giá, phụ nữ Bắc Tề khi đó thường sử dụng một cái khăn nhỏ hình vuông che đỉnh đầu để tránh gió, phòng lạnh. Tới đời Đường, Đường Huyền Tông Lý Long phá bỏ tập tục cũ, lệnh cho cung nữ che đầu bằng “lưới phủ trán”, tức là gắn một tấm lưới mỏng trên mũ để che trán, coi như là đồ trang sức. Sau này truyền ra dân gian, các phụ nữ cả ngày đội “lưới phủ trán” làm việc sẽ rất bất tiện, nên chỉ đeo nó khi kết hôn. Để bày tỏ sự chúc mừng nên thường dùng khăn màu đỏ. Loại khăn trùm đầu đỏ này đã trở thành phục sức không thể thiếu của cô dâu.
Màu đỏ của khăn trùm đầu tượng trưng cho vui vẻ, may mắn, vô cùng tươi tắn, khăn trùm đầu thể hiện che đi, thay đổi thân phận, bắt đầu lại từ đầu. Khi vén khăn trùm đầu, trong lòng sẽ hình thành cảm giác hạnh phúc, mơ ước về một cuộc sống mới, cũng như tình cảm nhìn nhau đầy tình ý, luôn khiến trái tim rung động, khó quên, là một sự trải nghiệm tuyệt diệu.
Chữ “phúc” dán ngược có ý nghĩa gì?
Mỗi khi dịp tết đến, nhà nhà đều dán chữ “phúc” ngược, trên cửa chính, trên cửa sổ và trên tường. Chữ “phúc” dán ngược ngụ ý “Phúc đáo lâm môn”. Phúc đến nhà chính là phúc lâm môn, là ý nghĩa tốt đẹp. Vì thế, nó là một tập tục quan trọng cầu phúc dịp tết đến. Vậy, tập tục dán ngược chữ “phúc” ra đời như thế nào?
Liên quan đến lai lịch của chữ “phúc” dán ngược, có ba cách nói.
Một là nói về Hoàng đế khai quốc Chu Nguyên Chương đời Minh. Chu Nguyên Chương qua nhiều năm chinh chiến đăng cơ Hoàng đế, sắc phong phu nhân Mã thị của mình là Hoàng hậu, sử gọi là Mã Hoàng hậu. Vào ngày 30 tháng 12, mùa đông năm đó chính là thời điểm tiễn năm cũ, đón năm mới, Chu Nguyên Chương vi hành tới đường phố trên thành Nam Kinh. Cứ đi mãi, ông nhận ra trên đèn lồng ở cửa một gia đình có một bức tranh, vẽ một phụ nữ chân to cưỡi ngựa, ôm một quả dưa hấu trong lòng. Chu Nguyên Chương tức giận, lập tức muốn giết chết gia đình đó. Để có thể nhận biết được nhà này, ông liền tiến đến trước cửa xoay chữ “phúc” ngược đầu xuống, rồi rời đi. Hóa ra, Mã Hoàng hậu chân to, ôm dưa hấu trong tiếng Hán đọc gần giống với “Hoài Tây” ý chỉ quê hương của Mã Hoàng hậu. Bức tranh này là chế giễu Mã Hoàng hậu.
Sau khi về cung, Chu Nguyên Chương đã nói chuyện này cho Mã Hoàng hậu. Mã Hoàng hậu là người lương thiện, liền sai người đảo lại toàn bộ chữ “phúc” trên cửa của tất cả các nhà. Ngày hôm sau, Chu Nguyên Chương nhìn thấy cảnh tượng này, biết là chủ ý của Mã Hoàng hậu nên cũng nguôi giận.
Câu chuyện thứ hai là nói Cung Thân Vương đời Thanh. Tương truyền vào một đên giao thừa, trong phủ Cung Thân Vương dán chữ “phúc” đón năm mới. Nhưng trong đám đông dán chữ “phúc” có một người không biết chữ nên đã dán ngược. Đáng nói là chữ “phúc” này được dán trên cửa chính. Vậy là mọi người kéo đến xem đều bình phẩm: “Phủ Cung Thân Vương có chữ “phúc” ngược”. Cung Thân Vương giận tím mặt, định giết người này. Lúc này người đó nhanh trí, quỳ xuống nói: “Cung Thân Vương phúc lớn, phúc không cần mời cũng tự đến”. Đó chính là phúc đáo lâm môn. Cung Thân Vương nghe thấy có lý, không phạt mà còn ban thưởng. Từ đấy, chữ “phúc” ở phủ Cung Thân Vương đều được dán ngược.
Câu chuyện thứ bà cũng liên quan đến Cung Thân Vương. Một đêm giao thừa, trong Thanh cũng sắp ban chữ “phúc”, các đại thần được ban đều lần lượt phải tạ ơn. Cung Thân Vương vì có tâm sự, khi quỳ tạ, lại cầm ngược chữ “phúc”. Các đại thần đều giật thót mình. Thái giám Lý Liên Anh thường nhận được ân huệ của Cung Thân Vương nên lập tức nói: “Lão phật gia phúc như Đông Hải, thọ tỉ Nam Sơn, xuân mới đón phúc, phúc này thật sự đến rồi”. Từ Hi nghe vậy, mặt chuyển từ tối sầm sang rạng rỡ, còn thưởng thêm cho Cung Thân Vương và Lý Liên Anh, hơn nữa lệnh cho mọi người dán lại chữ “phúc” ngược. Về sau dân gian bắt chước làm theo, việc dán ngược chữ “phúc” đã trở thành một trong những tập tục quan trọng cầu phúc trong dịp tết.
Em bé tứ hỷ.
Hai em bé béo mũm mĩm, cởi chuồng, mặc yếm hoa, tay cầm trống lắc, hồn nhiên đúng mực, hoạt bát đáng yêu. Hai hình tượng đứa bé béo tròn này không hề độc lập mà lần lượt được liên kết với nhau bằng phần lưng và mông. Đây chính là “em bé tứ hỷ”. Chỉ có hai đứa bé mà gọi là “tứ hỷ”?
Thực ra không có gì huyền diệu, chỉ cần quan sát kỹ một chút sẽ nhận ra, phần lưng và mông liên kết hai đứa bé lại thực ra cũng là một phần “cơ thể” mặc yếm hoa. Bốn phía của em bé tứ hỷ lần lượt đều là một đứa bé hoàn chỉnh. Trong đó, hai đứa nằm ngang, hai đứa khác ở tư thế đứng. 4 đứa bé, 2 cái đầu, 4 cái tay, 4 cái chân, tạo nên bức tranh “bốn đứa bé tranh đầu” thú vị. Em bé tứ hỷ ngụ ý may mắn đại diện cho phúc khí, là kết tinh trí tuệ và thể hiện theo đuổi nguyện vọng tốt đẹp của tổ tiên chúng ta. Như vậy, em bé tứ hỷ ra đời như thế nào? Đại diện cho những phúc khí gì?
Đời Minh có ba đại tài tử là Giải Tấn, Dương Thận và Từ Vị. Giải Tấn chủ trì biên soạn Đại điển Vĩnh Lạc được gọi là đệ nhất bác học đời Minh. Giải Tấn thành danh từ nhỏ, khi còn bé đã nổi tiếng trong vùng vì thông minh nhanh nhẹn, nghe nói “Em bé tứ hỷ” chính là do ông phát minh sáng tạo ra.
Giải Tấn quê ở Tây Giang, lúc 5 tuổi đã đọc thuộc Tứ thư, Ngũ kinh, giỏi văn, giỏi họa, xuất khẩu thành thơ. Do Giang Tây rất gần với thủ đô Nam Kinh lúc bấy giờ nên tên tuổi của thần đồng Giải Tấn đã nhanh chóng lan đến kinh thành. Hơn nữa còn được Hoàng đế Chu Nguyên Chương lúc đó đích thân tiếp kiến và khảo hạch. Sau đó đặc biệt cho phép ông về quê cùng học với các tú tài ở trường huyện.
Sau khi đến trường huyện, giáo khoa trong trường cho rằng Giải Tấn không có thực tài như lời đồn, liền có ý làm khó ông. Đúng lúc năm đó được mùa lớn, có thể nói là ngũ cốc đầy bồ, giáo khoa bèn ra đề “Mưa thuận gió hòa nên bội thu” để Giải Tấn vẽ tranh ca tụng được mùa thu hoạch. Giải Tấn chăm chú vẽ, vẽ liền một lúc hai bức. Tuy nhiên bức tranh bị phê quá thông tục, bình thường, không có gì đặc sắc. Lúc này, Giải Tấn đã hiểu đây là giáo khoa muốn thị uy với ông. Suy nghĩ một lát, ông liền vẽ bức tranh em bé nối người. Giáo khoa nhìn thấy, cho rằng là quái vật, định phạt Giải Tấn. Giải Tấn không hoang mang, ung dung giải thích đây là em bé tứ hỷ: “Cửu hạn gặp Cam Lộ, xa quên gặp người quen, đêm động phòng hoa trúc là lúc bảng vàng đề tên”. Giáo khoa nghe xong, tâm phục khẩu phục.
Sau này, bức tranh “Em bé tứ hỷ” đã trở thành hình vẽ đặc biệt đại diện cho phúc khí, niềm vui, nhanh chóng được lưu truyền cho tới ngày nay, trở thành hình vẽ may mắn, hiếm lạ trên đời. Sau đó mọi người dựa vào hình vẽ “Em bé tứ hỷ” chế thành mô hình thực tế, bằng rất nhiều chất liệu như vàng, bạc, đồng, gốm sứ, ngọc. Mọi người đua nhau sưu tầm để nạp phúc khí.
100 các viết chữ “phúc”
Mọi người theo đuổi phúc vận, không chỉ tiến hành các hoạt động cầu phúc, khấn phúng trong ngày lễ tết, mà lúc thường ngày cũng bày những đồ vật liên quan đến phúc, để cầu phúc, nạp phúc. Mà tương đối thường gặp và cũng khá thuận tiện chính là treo tranh chữ liên quan tới phúc trong nhà. Trong những tranh chữ liên quan với phúc này, có một bức tranh tên là “Tranh trăm phúc” đặc biệt được mọi người yêu thích. Chẳng lẽ chữ “phúc” thật sự có 100 cách viết sao?
Chữ “phúc” có lịch sử lâu đời, là loại chữ Hán xuất hiện đầu tiên. Việc nghiên cứu liên quan đến “phúc” từ xưa đến nay cũng chưa từng gián đoạn, cho dù là nội hàm hay bề ngoài của nó cũng đều rất được yêu mến. Chữ “phúc” sớm nhất được phát hiện là trên một đồ đồng thau thời kỳ Thương Chu, sau này cách viết của chữ “phúc” vô cùng phong phú. Mọi người theo đuổi phúc, cũng theo đuổi cái đẹp, bèn suy nghĩ để “phúc” và “cái đẹp” kết hợp hoàn mỹ với nhau. Cách làm trực quan nhất không gì hơn là trước tiên làm chữ “phúc” đẹp hơn. Các cách viết: Giáp cổ văn, kim đỉnh văn, chính, thảo, lệ, triện, hành… nối đuôi nhau ra đời, mọi người sau này đã tổng kết tâm huyết của các tiền bối lại, thêm vào sáng tạo của mình. “Tranh trăm phúc” đã ra đời, 100 chữ với các hình thái khác nhau trong tranh đều là chữ “phúc”, mang đậm tính thẩm mỹ, lại có ngụ ý sâu sắc, trở thành lựa chọn tuyệt vời nhất để treo ở phòng khách. Tập trung thú vui tao nhã, trang trí và khấn cầu phúc vào một thể.
“Tranh trăm phúc” truyền thống do 100 chữ “phúc” khác nhau tạo thành. Trong đó để chữ có nền tảng là thể triện, thông qua xử lý nghệ thuật của nhà thư pháp, diễn sinh ra các dị thể khác nhau, thịnh hành trong dân gian. “100” ở thời cổ đại có ý là viên mãn, đồng thời cũng thường thể hiện là số cực lớn không xác định. Bởi vì, “100 phúc” có hai hàm nghĩa, vừa thể hiện phúc đến viên mãn, lại có ý “vạn phúc”.
Thể chữ trong “tranh trăm phúc” ngay ngắn, đại khí, chắc chắn, giàu ý vị, bố cục chỉnh thể gọn gàng, hợp lý. Đa phần là chữ vàng nền đỏ, màu sắc tươi tắn mà không mất đi vẻ cao nhã, cực kỳ phù hợp trep trong phòng khách. Mỗi khi tết đến, mọi người đều mong chờ vạn phúc tới nhà. Lúc này đứng trước “Tranh trăm phúc” lặng lẽ khấn cầu, lời chúc phúc sâu xa và mong muốn tốt đẹp đều nằm trong “Tranh trăm phúc” tinh xảo khác biệt này.
Con dơi của nhà Hòa Thân.
Hòa Thân là đại tham quan nổi tiếng đời nhà Thanh. Tài sản ông than ô theo thống kê tổng cộng là một tỷ lượng bạc trắng, tương đương với tiền thuế mười lăm năm của chính quyền nhà Thanh khi đó. Tiền Hòa Thân tham ô nhiều, nhà ông ở đương nhiên cũng không thua kém. Nơi ở xưa của Hòa Than giờ được gọi là phủ Cung Vương. Sở dĩ có tên gọi như vậy bởi vì Hoàng đế Hàm Phong đã ba cho Cung Thân Vương Dịch Túc.
Phủ Cung Vương tổng cộng chia làm ba đạo lộ Đông, Trung, Tây. Mỗi đường từ Nam tới Bắc đều do các đường trục giữa có nhiều tứ hợp viện tổ thành. Kiến trúc chủ yếu ở trung lộ có điện Ngân An và Giai Lạc đường uy nghiêm, khí phách. Đông lộ có chính phòng Đa Phúc Hiên, nổi tiếng là Lạc Đạo đường, cũng rất giàu có, hào hoa. Tứ hợp viện ở Tây lộ nhỏ nhắn, tinh xảo. Phủ Cung Vương không chỉ có kiến trúc xa hoa đường hoàng, cảnh quan của nó cũng cực kỹ nhã nhặn; đồng thời tên gọi cũng tao nhã, ví như trung lộ vừa bước vào cửa đã có chữ “phúc” do Hoàng đế Khang Hy ngự bút thư. Tiếp sao đó có đỉnh Độc Lạc, Phúc trì (ao dơi), ẩn giữa trời xanh là Phúc sảnh (nhà dơi), bên ngoài còn có Phúc hà (sông dơi). Trong đó, Phúc trì, Phúc sảnh, Phúc hà được coi là tam đại phúc của phủ Cung Vương. Vậy thì, tại sao Hòa Thân lại yêu thích con dơi như thế?
Nghe nói tổ tiên của Hòa Thân từng có một lần gặp nguy hiểm, trong lúc cấp bách, đã có một đàn dơi đã cứu tính mạng. Từ đó trở đi, nhà Hoà Thân đã thờ cúng con dơi như thánh vật. Hơn nữa “con dơi” trong tiếng Hán đọc hài âm với “phúc”, bản thân con dơi chính là tượng trưng cho vợ chồng. Do đó tới đời Hòa Thân, ông càng thêm yêu thích con dơi.
Hòa Thân yêu mến con dơi đến mức si mê, ông không chỉ xây tòa tam đại “phúc”, mà dù ở cả những nơi không được để ý tới trong phủ Cung Vương cũng xuất hiện các loại tiểu “phúc”. Theo thống kê liên quan, trong toàn bộ hoa viê của phủ Cung Vương tổng cộng có chín ngàn chín trăm chín mươi chín con dơi, ngụ ý “vạn phúc” nhưng lại thiếu một con. Ở đây đương nhiên có tính toán của Hòa Thân. Hòa Thân làm quá nhiều chuyện thiếu đức, phải cẩn thận đề phòng. Dù là những chuyện hư vô nhưng ông cũng buộc phải tin. Đây chính là căn cứ vào câu “Trăng đầy sẽ khuyết, nước đầy sẽ tràn” để thiết lập số lượng, luôn “không tràn đầy”. Đây chắc chắn là mong muốn của ông.
Chỉ đáng tiếv, Hòa Thân mặc dù thích phúc, thích con dơi, hơn nữa cũng có nghiên cứu nhất định về “văn hóa phúc”, nhưng lại thua ngay từ điểm khởi đầu. Từ đầu đến cuối, ông đều không làm rõ được bản chất và ngọn nguồn của “phúc” là gì. Có điều, đối với Hoà Thân bất nhân để làm giàu, làm nhiều chuyện ác thì trước khi bị chặt đầu cho dù bạn nói với ông ta “phúc do tích đức” hoặc “phúc không có đức chính là cây không rễ” e rằng ông ta cũng sẽ không tin.
5 con dơi tại sao có thể tượng trưng cho phúc khí?
Con dơi nửa giống chim, nửa giống thú, nhưng không phải chim không phải thú, toán thân có lông, là động vật vú sữa. Nếu nói nó là thú, nó lại có cánh, biết bay. Mặc dù có thể bay, nhưng không có lông vũ vì thế cũng không phải là chim. Cho dù con dơi là động vật vú sữa thật sự biết bay duy nhất, thân phận này làm cho nó rất đặc biệt trong đại gia đình động vật. Con dơi xuất hiện từ khá sớm, chúng đã sống năm ngàn năm trăm vạn năm trên trái đất. Dơi tổng cộng có hơn một ngàn loài, là gia tộc đồ sộ nhất trong các loài động vật vú sữa.
Con dơi có thân phận đặc biệt và hài âm trong tên gọi nên rất được mọi người chú ý. Người xưa luyện đơn dược theo đuổi trường sinh cho rằng ăn dơi có thể trường thọ, từ đó cho rằng con dơi trường thọ, có thể sống một ngàn tuổi. Cho nên con dơi ngoài hài âm với chữ “phúc” ra con nổi danh bởi trường thọ. Thực ra, con dơi ngoài hài âm thì truyền thuyết là không đúng sự thật, không có điều gì đặc biệt khác có liên hệ thực chất với “phúc”. Nhưng “phúc” vốn không nhìn thấy cũng không sờ được, ai có thể chứng minh con dơi không liên quan với “phúc” chứ? Bởi thế, con dơi tượng trưng cho “phúc”, mọi người coi con dơi là động vật may mắn, sử dụng nhiều trong tác phẩm nghệ thuật. Hình tượng con dơi bản thân không liên quan gì tới ý nghĩa tốt đẹp cũng vì lòng yêu thích của mọi người, được thể hiện qua những bàn tay nghệ thuật đã biến thành “con dơi nghệ thuật” bay lượn giữa đám mây lành, đa dạng, nhiều màu sắc, rực rỡ và khiến mọi người yêu mến.
Trong các hình vẽ có con dơi, thường gặp nhất là hình tượng của 5 con dơi. 5 con dơi trong tiếng Hán rõ ràng là “ngũ phúc”. Hình tượng này đại diện cho 5 cảnh giới cao nhất của Trung Quốc cổ đại đối với phúc khi, bao gồm: Trường thọ, phú quý, mạnh khỏe, làm nhiều điều nhân nghĩa, sống đến già. Vì vậy tranh “5 con dơi” cực kỳ thịnh hành trong thời cổ đại, càng thịnh hành hơn ở đời Thanh, xuất hiện rất nhiều bức tranh may mắn về dơi.
“Ngũ phúc hiến thọ”: 5 con dơi bay lượn vòng quanh chữ “thọ”, ngụ ý ngũ phúc đầy đủ, đặc biệt nghiêng về trường thọ, đa phần dùng để chúc thọ.
“Ngũ phúc hòa hợp”: 5 con dơi và hoa sen, hộp tròn tạo nên bức tranh, con dơi dường như vừa bay ra từ trong hộp tròn. Sen và hộp trong tiếng Hán đọc hài âm với “hòa hợp”, cho thấy ngũ phúc vẹn toàn, hạnh phúc dung hòa.
“Bình an ngũ phúc từ trời đến”: Trong bức tranh trên là trời, dưới là đất, có một đồng tử đứng trên mặt đất, đồng tử tay cầm chiếc hộp, trên đường từ trên xuống dưới phân bố 5 con dơi, có con bay lượn trên bầu trời, có con đã bay vào chiếc hộp trong tay đồng tử, ngụ ý phúc từ trời giáng xuống.
Những điều trên đều là ứng dụng mang tính sáng tạo của mọi người đối với “5 con dơi”, là thể hiện sự theo đuổi không biết mệt mỏi của con người đối với phúc.
Tấm gương ngũ phúc kiện toàn.
Người cổ đại khi đánh giá một người ngũ phúc kiện toàn thường nói một câu: đại phú quý diệc thọ khảo. Đại phú quý thì không cần nói nhiều. ý nghĩa của diệc thọ khảo là thọ cao hoặc trường thọ, như thế tất nhiên là ngũ phúc kiện toàn. Liên quan với nó còn có hai bức tranh, một là bức tranh tết trước đây nhà nhà đều treo vào dịp tết, tên gọi là “Đại phú quý diệc thọ khảo”; một bức tranh khác tên là “Miễn trụ kiến tù”. Vậy hai bức tranh này có liên quan gì tới phúc?
Trước tiên, chúng ta hãy nói một chút về tranh tết “Đại phú quý diệc thọ khảo”, bức tranh này thường được chia làm hai bức, là tranh quý cô, do thịnh hành ở đời Thanh, bởi vì hai quý cô trong tranh đều là ăn vận trong cung nhà Thanh, mỗi cô nằm ở vị trí trung tâm của mỗi bức tranh tết, bên cạnh có hai đôi trai gái quỳ gối, đây là quý tử quý phụ. Hai bức tranh này lần lượt có chữ “đại phú quý” và “diệc thọ khảo”. Như vậy, “Đại phú quý diệc thọ khảo” ra đời như thế nào?
Điều này phải nói đến bức tranh “Miễn trụ kiến tù”, là bức tranh đầu tiên được một người đời nhà Thanh tên là Mã Đài vẽ ra theo truyền thuyết về Quách Tử Nghi đời Đường. Câu “Đại phú quý diệc thọ khảo” là do Quánh Tử Nghi nói. Quách Tử Nghi do có công lớn trong quá trình bình định loạn An Sử, được phong làm Phần Dương Vương. Về sau, có một lần Hồi Hột, Thổ Phiên vây đánh Kinh Dương, triều đình không kịp phản ứng, quân địch đã tới dưới chân thành. Lúc này, Quách Tử Nghi liền dẫn mấy chục tùy tùng tới doanh trại của Hồi Hột, cởi bỏ khôi giáp, ném thương xuống đất, thủ lĩnh Hồi Hột từ lâu đã nghe nói đến đại danh của Tử lệnh công, thấy ông gan dạ hơn người, lại có thành ý như thế bèn lui binh. Sau khi rút binh thành công, Quách Tử Nghi đến Ngân Châu, lúc này đúng vào đêm mùng 7 tháng 7 âm lịch, Quách Tử Nghi nhìn thấy trong xe phát ra ánh sáng óng ánh, một mỹ nữ bước xuống từ chiếc xe, sáng lấp lánh. Quánh Tử Nghi biết là Chức Nữ trên trời hạ phàm, lập tức vái cầu phúc. Chức Nữ nhìn thấy Quách Tử Nghi bèn cười nói: “Đại phú quý diệc thọ khảo”. Sau đó liền bay đi mất.
Về sau, Quách Tử Nghi làm quan tới chức Thương thư lệnh, Đức Tông Hoàng đế đời Đường tôn ông làm “Thượng phụ”, đời sau của ông có 8 con trai, 7 con rể đều là hiển quý đương triều, có mấy chục cháu trai, cháu gái, hưởng thọ chín mươi tuổi, ngũ phúc trong nhân gian có thể nói là tập trung hết lên một mình Quách Tử Nghi. Mọi người khi đó ca ngợi “Tử Nghi hoàn danh cao tiết, quang minh nổi tiếng, phúc lộc cả đời, Tề Hằng, Tấn Văn so với ông còn kém hơn”
Từ đó mọi người liền coi Quách Tử Nghi là tấm gương ngũ phúc kiện toàn, hậu thế diễn sinh ra rất nhiều tác phẩm văn học và hội họa liên quan để ca tụng ông, cũng đồng thời có tác dụng cầu phúc.
Sau đời Thanh cũng thường có các tác phẩm lấy đề tài là “Đại phú quý diệc thọ khảo”, chủ đề không thay đổi nhưng nội dung có xu hướng đa dạng hóa, đa phần lấy mẫu đơn, đá thọ, tùng bách, hoa đào tạo thành tranh. Tề Bạch Thạch tiên sinh từng tạo ra tác phẩm “Đại phú quý diệc thọ khảo”, trong đó có hoa mẫu đơn, đào thọ và bình hoa vân rồng hoa xanh; mẫu đơn đại diện cho phú quý, đào thọ đại diện cho trường thọ, bình hoa đại diện cho bình an, thể hiện mong ước tốt đẹp và hướng tới hạnh phúc của con người.
Tranh Chung Quỳ có quan hệ gì với phúc?
Chung Quỳ là nhân vật phụ trách bắt quỷ trong thần thoại cổ đại Trung Quốc, đa số mọi người cho rằng, Chung Quỳ có thể bắt quỷ, ăn thịt quỷ, vì thế trong nhà thường treo tranh Chung Quỳ để trấn trái tránh tà, trừ ác, nạp phúc. Trừ ác còn có thể lý giải được, dù sao ông cũng có thể bắt quỷ, nhưng nạp phúc phải bắt đầu nói từ đâu đây?
Những năm Khai Nguyên đời Đường, Đường Huyền Tông sau khi tuần giữ từ Li Sơn về liền sinh bệnh. Một hôm, Huyền Tông mơ thấy hai con quỷ nhỏ đang lén lút trộm cây sáo ngọc của ông và túi thơm thêu của Dương Quý phi. Huyền Tông tức giận nhưng không biết làm thế nào với con quỷ nhỏ, trong lúc đang không có cách nào, bỗng có một con quỷ lớn hơn nhảy vào trong điện, con quỷ này càng hung ác hơn hai con quỷ trước. Huyền Tông chỉ thấy đầu tóc nó rối tính, đầu buộc mũ vải, người mặc áo xanh, chân đi giày da, để lộ một cánh tay, giơ tay túm lấy một con quỷ nhỏ, móc con ngươi nuốt luôn vào miệng. Huyền Tông kinh sợ, không nói được gì. Sau đó, con quỷ lớn lại thi lễ với Huyền Tông, tự giới thiệu gia môn là Chung Quỳ núi Chung Nam, những năm Cao tổ Vũ Đức, thi võ ở Trường An bị rớt bảng, xấu hổ nên đập đầu vào bậc đá trước điện tự sát. Sau đó, Cao tổ ban áo bào xanh làm đồ tang, khắc ghi trong lòng, thề chém hết yêu nghiệt trên thế gian cho Đại đường, nói xong liền biến mất. Huyền Tông tỉnh dậy, bệnh cũng không chữa mà tự khỏi.
Về sau, Huyền Tông lệnh cho Ngô Đạo Tử theo miêu tả của mình vẽ ra một bức hình của Chung Quỳ, trên đó phê rằng: “Thần linh ứng mệnh, bệnh nặng chữa khỏi, liệt sĩ trừ yêu, thực phải khen thưởng”. Do tranh không giống, ban hiển có câu “Cuối năm xua đuổi, đi khắp nơi, loại trừ tà mị, lợi cho trấn tĩnh bầu không khí quỷ. Nay báo cho thiên hạ đều biết lệnh”. Đồng thời còn in ra làm nhiều bản, ban cho quần thần, nhờ đó cáo tụng rộng rãi cho thiên hạ, để mọi người đều biết đến thần uy của Chung Quỳ, từ đây, người đời đều biết Chung Quỳ có thể đuổi quỷ tránh tà, nên đều dán tranh vẽ ông ở cửa nhà.
Sau này, Chung Quỳ đã được phong thần, có một lần xuống nhân gian chém giết yêu tà, khi đi qua một cây cầu thì bị mấy con quỷ nhỏ trên cầu chặn đường. Sau khi hỏi rõ là vị tôn thần, con quỷ nhỏ liền hỏi: “Tôn thần đi đâu thế?”. Chung Quỳ đáp “Đường thiên tử lệnh chém hết yêu tà trong thiên hạ, ta đương nhiên phải đi khắp thiên hạ”. Con quỷ nhỏ vừa nghe thấy, liền lập tức bày tỏ mong muốn được đi theo. Chung Quỳ lại không vui vẻ nhận nó, bèn nói: “Ngươi có bản lĩnh gì mà dám đi theo ta?”. Con quỷ nhỏ đáp: “Ta vốn là chuột chũi ở đồng, đánh cược với chim tiêu liêu nên đã uống nước dưới cây cầu này, từ đó trở đi đã mọc thêm hai cánh, mọi nói có quỷ, ta đều biết”. Như vậy, Chung Quỳ và con dơi càng hợp nhau trở thành cặp cộng sự vàng bắt quỷ. Từ sau khi có con dơi, hiệu suất bắt quỷ của Chung Quỳ tăng lên rất nhiều.
Về sau, Chung Quỳ không chỉ là tiên phong bắt quỷ, mọi người còn vẽ Chung Quỳ và con dơi trên cùng một tờ giấy để đuổi tà nạp phúc. Còn Chung Quỳ cũng có thêm một tên gọi “Thánh quân ban phúc trấn trái”.
Tại sao thờ kim thiền ba chân và tì hưu để nạp phúc?
Kim thiền ba chân, nghe tên đã biết là không bình thường, còn trong Đạo giáo, chỉ có con cóc ba chân được gọi là “thiềm”. Tương truyền, cóc ba chân là yêu quái tu luyện thành tinh, gây họa bốn phương. May mắn được đạo sĩ Lưu Hải cưỡi mây tới, dùng kế dụ cóc vàng, mới làm cho nó không thể lộng hành. Tuy nhiên Lưu Hải cũng không thể đánh bại được nó. Về sau, Lưu Hải lại được sự giúp đỡ của Chính dương tử Hán Chung Ly và Thuần dương tử Lã Động Tân, cuối cùng đã thu phục được cóc vàng, trừ hại cho dân, còn bản thân cũng được đắc đạo thành tiên.
Kim thiền sinh ra đã có ba chân, không phải con vật bình thường, sau khi được Lưu Hải thu phục, cóc vàng ba chân cũng một lòng hướng thiện, bèn đến nhân gian, tất cả những nơi nó đi qua đều tập trung tiền bạc, phúc vận hoành sinh, trở thành con vật may mắn để vượng tài cầu phúc của mọi người. Câu chuyện Lưu Hải thu phục kim thiền cũng được người đời truyền tụng rộng rãi, dân gian có câu: Lưu Hải trên kim thiền, từng bước câu tiền vàng.
Kim thiền đọc gần giống tiền vàng, thông thường đồ trang trí trong nhà là “cóc vàng vượng tài”, tức là con cóc cõng một “xâu tiền” trên mình, như thế tiền tài có thể tiến vào cửa nhà hết xâu này đến xâu khác.
Vật trang trí cóc vàng bình thường đều có một đồng tiền đồng có thể chuyển động trên miệng, nên thường dùng tay di chuyển đồng tiền, còn gọi là “kiếm tiền”. Khi đặt phải hướng vào trong nhà, bởi vì ngậm tiền trong miệng rõ ràng là tặng tiền, nếu quay đầu ra ngoài, chẳng phải là tặng tiền ra ngoài sao? Còn có một loại cóc vàng khác không ngậm tiền trong miệng, cóc vàng này ý là hút tài, khi đặt nhất định phải quay đầu nó ra ngoài, như thế mới có thể hút phúc khí, tiền tài ở bên ngoài. Thông thường trong nhà chỉ cần đặt một con cóc vàng là được.
Bên cạnh đó, còn có một đồ vật thường xuyên được bày trong nhà là tì hưu.
Tương truyền, tì hưu là một trong chín người con của Chân long, bởi vì không thừa kế được bản lĩnh của Chân Long, lại ăn rất khỏe nên Chân Long cho rằng nó là kẻ ăn không ngồi rồi, liền đày nó tới một nơi ở Tây Tạng. Về sau, Khương Tử Nha giúp Vũ Vương chinh phạt Trụ, một lần trên đường hành quân phát hiện ra nó, liền dẫn dụ tì hưu làm vật cưỡi của mình. Sau đó, Khương Tử Nha cưỡi tì hưu nhiều lần đại thắng, khi phong thần đã phong cho nó một quan hiệu là “vân”, từ đó tì hưu bắt đầu cuộc sống làm thần tiên. Về sau, tì hưu xúc phạm luật trời, Ngọc đế liền phạt nó lấy tiền tài bốn phương tám hướng làm thức ăn, nuốt vạn vật chứ không thải ra. Từ đó, tì hưu đã có chức năng đặc biệt chiêu tài dụ bảo, chỉ nuốt vào không thải ra.
Thời cổ đại, trên là các bậc đế vương, dưới là dân chúng đều chú trọng sưu tầm và đeo tì hưu, tì hưu ngoài công dụng chiêu tài, khai vận, tránh tà, nạp phúc, còn có tác dụng trấn trái, hóa thái tuế, thúc nhân duyên. Tì hưu có nhiều lợi ích như vậy, thì trong nhà nên thờ cúng tì hưu ra sao?
Tì hưu là con vật may mắn hút tài. Do đó khi dùng nên đặt đầu hướng ra ngoài, như thế để hút tài vận và phúc khí bốn phương vào nhà mình.
Tháp chuông gió có tác dụng gì?
Tháp chuông gió cũng là bảo vật trấn trái cầu phúc được mọi người từ xưa đến nay càng thêm yêu thích, tháp chuông gió rốt cuộc ra đời như thế nào và có tác dụng gì?
Muốn nói đến tháp chuông gió, trước tiên chúng ta hãy nói về chuông gió. Theo “Khai nguyên thiên bảo di sự” ở đời Đường ghi lại: “Trong rừng trúc ở cung Kì Vương có treo những miếng ngọc vỡ, hàng đêm nghe thấy tiếng những miếng ngọc vỡ này va vào nhau, tức là biết có gió, gọi là chiếm mũi gió”. Từ đó đã xuất hiện chuông gió. Tác dụng đầu tiên của nó là làm dụng cụ dự đoán thông tin về gió. Ngoài ra, do tiếng “gió thổi ngọc rung” của chuông gió giòn tan, thích hợp cho tĩnh tâm dưỡng tính, cầu phúc đón may mắn, vì thế chuông gió đã có tác dụng rất quan trọng.
Tiền thân của tháp là “Bảo tháp” của Ấn Độ cổ. Chức năng chủ yếu của “Bảo tháp” là thờ Phật Cốt Xá Lợi, do đó, “Bảo tháp” có cảm giác thần bí cực mạnh; hơn nữa được cho là vật thần thánh mà tốt lành, được chư thiên thần phật phù hộ. “Bảo tháp” theo Phật giáo du nhập vào Trung Quốc, đồng thời với việc cổ nhân tiếp nhận Phật giáo đã tiếp nhận luôn cả “Bảo tháp”, không chỉ tiếp nhận kiểu dáng của “Bảo tháp” mà còn hấp thu ý nghĩa tượng trưng của “Bảo tháp” và gọi nó là “tháp”. Bởi vậy, tháp đã được trao cho ý nghĩa trấn yêu ma, thiên tai, lũ lụt, hoặc cúng thiên thần, cúng địa mẫu, cầu phúc…
Về sau, với nhu cầu cầu phúc nạp cát của mọi người tăng lên, “tháp” đã được phát huy công hiệu lớn nhất là cầu phúc đón may mắn, hóa sát, tăng vận. Vậy, làm sao mới có thể khiến tháp phát huy được công hiệu lớn nhất của mình? Các bậc tiên hiền cổ đại với trí tuệ siêu phàm, kèm theo với kinh nghiệm thực tiễn lâu dài đã kết hợp “chiếm mũi gió” (chuông gió) có tác dụng dưỡng thần cần phúc với “tháp” một cách sáng tạo, từ đó tạo ra đồ dùng phong thủy trấn trái, hóa sát, vượng tài, thăng tiến có công hiệu mạnh mẽ nhất, có thể hóa giải tất cả sát khí – đó là tháp chuông gió. Từ đây, một vật khí may mắn cầu phúc nạp cát, kiêm tác dụng trấn trái, dưỡng thần, trừ tà, vượng tài, thăng tiến, hóa sát đã ứng vận mà ra đời.
Tháp chuông gió được gọi là khí vật có công hiệu trấn trái, hóa sát, vượng tài, thăng tiến, cầu phúc mạnh nhất hiện giờ. Vì ngũ hoàng sát thuộc thổ, nên tháp chuông gió có thể thoát thổ khí, thoát ngũ hoàng thổ sát.
Tháp chuông gió thường được đặt ở lầu các, phòng khách trong nhà. Đặt tháp chuông gió trong nhà, thường không cần mời thầy phong thủy xem vị trí, chỉ cần căn cứ vào hoàn cảnh sống của mình, đặt ở vị trí phù hợp là được, tháp chuông gió tự có thể hóa giải được tất cả sát khí, mang đến bình an, vận may và phúc khí.
Vật phẩm phong thủy Hồ lô đại diện cho cái gì?
Hồ lô là một trong những thực vật được trồng sớm nhất. Ban đầu mọi người cho rằng, hồ lô đến từ châu Phi, nhưng theo tài liệu cho thấy, từ thời kỳ đồ đá một vạn năm trước, Trung Quốc đã có hồ lô. Tổ tiên chúng ta rất yêu thích hồ lô, từ trồng trọt đến ăn uống, thậm chí sau này làm thành đồ dùng sinh hoạt, về sau còn chế tác nó thành những tác phẩm nghệ thuật. Có thể nói là cực kỳ yêu thích. Hồ lô không chỉ có những chức năng trên, mà còn là vật phẩm cầu phúc rất tốt. Vậy thì trong con sông lịch sử lâu dài của cầu phúc, hồ lô rốt cuộc đóng vai trò thế nào?
Thời thượng cổ, dân cư thưa thớt, tài nguyên mà mỗi người nhận được đều vô cùng phong phú, nhưng vẫn có người không biết đủ, liên tục trách móc ông trời, chọc giận ông trời. Trước tình hình đó, Ngọc Hoàng đã ra lệnh cho thần sấm, thần mưa trừng phạt trần thế bằng sấm sét và lũ lụt, dự định tuyệt diệt nhân loại.
Thần mưa và thần sấm bàn bạc với nhau, cho rằng mọi chuyện vẫn không nên làm đến đường cùng thì tốt hơn, liền đưa cho Phục Hi một hạt giống thần kỳ, để ông trồng ở bãi dâu Tứ Thủy. Phục Hi làm theo lời dặn dò của thần sấm, trông hạt giống ở bãi dâu Tứ Thủy. Hạt giống thần kỳ sau khi gieo xuống đất lập tức mọc rễ, một canh giờ đã nảy mầm, hai canh giờ chồi cành, ba canh giờ nở hoa, bốn canh giờ đã kết quả, năm canh giờ quả đã rất to, trở thành một quả hồ lô lớn. Đến canh giờ thứ sáu, quả hồ lô này đã thô ráp và to hơn cả bồ thóc, bảy canh giờ, hồ lô đã chín. Phục Hi thấy thế, lập tức gọi Nữ Oa tới, hai người đục lỗ trên hồ lô chui vào trong đó.
Tiếp đó, sấm sét ầm ầm, gió lớn gào rít, mưa ào ào trút xuống, sấm chớp kéo dài chín ngày chín đêm, mưa lớn cũng đổ xuống chín ngày chín đêm. Sau đó trời nắng, cầu vồng xuất hiện ở chân trời, Phục Hi và Nữ Oa đã sống sót nhờ chiếc hồ lô, trở thành ông tổ của nhân loại. Còn hồ lô cũng từ đó trở thành đối tượng được mọi người tôn thờ.
Hồ lô được mọi người yêu thích, ngoài những nguyên nhân trên, hài âm của nó cũng vô cùng may mắn, hồ lô hài âm với “phúc lộc”, hình dáng tròn, có đường cong, tương đối có phúc khí, cộng với đặc điểm cuống nhỏ, bụng lớn, có thể hút được rất nhiều vàng bạc, châu báu.
Hồ lô là bảo vật nạp phúc thiên nhiên, nó có thể nạp phúc tăng may mắn, loại bỏ tai ách, hơn nữa có thể hút hết khí uế sát trong không gian, để con người vui vẻ, có thể nói là nó mang công dụng lớn. Ngoài ra, do hồ lô có bề ngoài tròn, đường cong nhỏ nhắn có thể giúp gia đình hòa thuận, tăng thêm tình cảm vợ chồng.
Hồ lô thường được đặt ở tài vị trong nhà, hồ lô như thế càng dễ nạp tài, mà sau khi nạp tài cũng không thoát được ra ngoài, khả năng giữ của tụ phúc cực mạnh.
Bia đá “Thái Sơn thạch cảm đương” nên được thờ cúng ra sao?
Trước đây gần như nhà nhà đều cúng bia đá có khắc năm chữ “Thái sơn thạch cảm đương” trong nhà, bia đá này rốt cuộc là gì?
Tương truyền, thời thượng cổ, Hoàng đế cho quân đại chiến với Xi Long ở Trung nguyên, Xi Long có tám mươi mốt anh em, cộng với thần lực vô địch, pháp lực vô song của ông, đã hô mưa gọi gió, đi đến đâu quét sạch tới đó. Hoàng đế luôn ở thế hạ phong. Xi Long thấy Hoàng đế bị bại trận liên tục, càng điên cuồng hơn, tới đỉnh núi Thái Sơn, ngửa đầu lên hú dài, gọi hỏi thiên hạ: “Thiên hạ có ai dám đương đầu?”. Lúc này Nữ Oa nương nương đã thành thần, cực kỳ bất mãn với Xi Long vì hắn gây họa loạn một phương, hống hách vô độ, bèn quyết định giáo huấn hắn, vậy là bà lên tiếng: “Đá Thái Sơn dám đương đầu!” Nói xong liền ném xuống một hòn đá Thái Sơn.
Xi Long thấy một hòn đá rơi xuống liên dùng đầu cứng như sắt thép của mình để đỡ, định thị uy Nữ Oa, đâu ngờ viên đá không vỡ mà đầu Xi Long lại bị thương. Xi Long phẫn nộ, ông dùng bao nhiêu công lực cũng không thể phá vỡ được hòn đá, đành phải chạy trốn vào đồng hoang. Về sau Hoàng đế chiến thắng được Xi Long. Từ đó, “đá Thái sơn dám đương đầu” được lưu truyền và giữ trọng trách đuổi tà tránh ác của nhân gian.
“Đá Thái sơn dám đương đầu” viết theo tên Hán Việt là “Thái Sơn thạch cảm đương”, là một vật trấn phong thủy có lịch sử lâu đời, chủ yếu dùng để hóa sát. Có thể sử dụng ở các nơi như trên đường, trực xung với sông, cũng có thể đặt trong xe. Vật này đuổi họa nạp phúc, giữ cho mọi người được bình an.
Đá dám đương đầu thông thường được khắc chữ “Thạch cảm đương” hoặc “Thái Sơn thạch cảm đương” trên một bia đá hình vuông, và phía trên bia đá khắc mờ đầu sư tử hoặc đầu hổ. Hổ hoặc sư tử đều là vua của bách thú, có tác dụng trấn trái, tránh tà rất tốt, đồng thời “sư tử” là hóa thân của như ý cát tường, “hổ” là một trong bốn đại thần thú, cũng là “đại tướng” đuổi tà nạp phúc, hai cái đều có tác dụng chiêu tài tiến bảo. Bởi vậy, đá dám đương đầu đặc chế này không chỉ có tác dụng cực mạnh trong phương diện chặn sát, mà còn có biểu hiện rõ nét trong cầu phúc, nạp phúc.
Khi lập bia đá “Thái Sơn thạch cảm đương”, phải chọn ngày long hổ sau Đông chí (Ngày long hổ tức là Giáp Thìn, Bính Thìn…). Trước tiên, chọn đá dài để khắc, đêm giao thừa cúng ba cân thịt sống, năm mới vào đúng giờ Dần sẽ dựng đá ở vị trí đã chọn.
Đá dám đương đầu là vật tránh tà, không liên quan đến dòng khí, vị trí chỉ cần chọn ở “hung vị” trong nhà hoặc bên ngoài tường là được.
Sư tử và phúc có quan hệ gì?
Sư tử là bảo vật thường được đặt ở cửa chính, có thể tránh họa cầu phúc. Tập tục này bắt nguồn từ đời Hán, nhưng sư tử không phải được ra đời ở Trung Quốc, mà hình tượng của sư tử Trung Quốc cũng khác xa với sư tử thảo nguyên. Vậy hình tượng của sư tử Trung Quốc rốt cuộc ra đời thế nào? Sư tử làm bảo vật có mấy loại?
Sư tử của Trung Quốc được du nhập từ Đại Nguyệt Thị quốc của Tây Vực vào thời Chương đế Đông Hán. Khi đó nó được coi là lễ vật tiến cống cho Hoàng đế. Về sau, Phật giáo truyền nhập vào Trung Quốc, trong kinh điển xuất hiện những miêu tả về sư tử. Trong tác phẩm Đăng hạ lục ghi rằng, khi Phật tổ Thích Ca Mâu Ni giáng sinh, “một tay chỉ trời, một tay chỉ đất” sư tử gào lên: “Trên trời đất dưới, mình ta độc tôn”. Núi Ngũ Đài là đạo tràng của Bồ tát Văn Thù, có ghi chép nói rằng vị Bồ tát cai quản trí tuệ nhân gian này khi tới núi Ngũ Đài hiển linh đã cưỡi sư tử. Về sau, cùng với sự phát triển của Phật giáo, hình tượng sư tử cũng dần được chuyển hóa, mọi người khoa trương và tưởng tượng một cách hợp lý trên nên tảng hình tượng vốn có của nó, từ đó ra đời hình tượng thần thú sư tử mà ngày nay chúng ta vẫn thường nhìn thấy.
Sư tử đặt làm bảo vật thường có hai loại là sư tử đá và sư tử đồng. Sư tử đá ở các vùng khác nhau cũng có những sự khác biệt khá lớn về bề ngoài, sư tử đá phương nam tràn đầy linh khí, chạm khắc phức tạp tạo hình hoạt bát là chính; Sư tử đá phương Bắc đại khí bất kham, chất phác tự nhiên, tạo hình tương đối hào phóng. Vì sư tử là vua của bách thú nên càng có nguồn gốc sâu xa với Phật giáo, cho nên cũng tránh được tà khí, ách vận, đặt hai con sư tử đá trước cửa nhà tự nhiên sẽ đạt được hiệu quả tránh tà nạp phúc.
Thông thường, đặt sư tử ở cửa, dù là cửa hàng, cơ quan hành chính hoặc cửa ngõ khu vực nào đó đều được, nhưng sau khi đặt sư tử đá, không cần thờ cúng gương bát quái, long quy, chim nhạn, tháp văn xương, đá Thái sơn nữa, nếu không sẽ dẫn đến nội bộ tranh giành, còn phản tác dụng và không đạt được mong muốn.
Sử tử đồng tức là sư tử được tinh đúc từ đồng vàng ròng, là bảo vật trấn trái hóa sát, vượng quyền trợ vận. Đồng là kim loại, có thể khắc chế được hình khắc của mộc, nếu đối diện cửa sổ là cây đại thụ, nên dùng một cặp sư tử đồng để hóa giải. Sư tử đồng có thể hóa sát chặn tai, thường được đặt trên bàn, bậu cửa sổ, giá sách hoặc kệ thấp sát tường.
Khi đặt sư tử đồng, nên phải đặt trên không nên để thấp, phía trước nên có không gian rộng rãi để đạt được hiệu quả trên cao nhìn xuống, cấm kỹ không gian nhỏ hẹp, khiên sư tử bị ràng buộc.
Vì thế sư tử đồng thường được đặt ở phía Tây Bắc mới phát huy được công hiệu lớn nhất. Đây là vì sư tử vốn thuộc quẻ Càn, phương Tây Bắc Ngũ hành thuộc Kim, mà sư tử đồng chính là kim loại. Tuy nhiên khi đặt ở hướng Tây Bắc cũng cần xem xét, suy tính cẩn trọng, nếu nhân tố bất lợi đến từ phương Bắc, sẽ đặt sư tử đá, sư tử ngọc ở phương Bắc. Nếu phía Tây có tai họa, có thể đặt sư tử đỏ ở phía Tây. Nếu là phía Nam, đặt sư tử đen. Nếu tai họa đến từ phía Đông, nên đặt sư tử đồng, sư tử trắng ở phía Đông.
Sư tử có thể ngăn cho tà khí xâm nhập, phải bảo đảm đầu sư tử quay ra ngoài, nếu đầu quay vào trong, sát khí của sư tử có thể làm chủ nhân bất lợi mà không đạt được hiệu quả tránh tà sát.
Sư tử cũng phân đực cái, đực bên trái, cái bên phải, không được nhầm lẫn, nếu một con trong đó bị phá hỏng, lập tức thay cả đôi.
Mắc dù người hiện đại không mê tín những bảo vật này như người cổ đại, nhưng những linh vật này thực sự có phải mê tín? Một câu nói của tác giả Long Ứng Đài người Đài Loan được coi là sự giải thích hợp lí nhất. Trung Quốc không có sư tử sống, vì thế sư tử trong tranh, trước miếu, trong trận chiêng trống là sư tử biến dạng. Thế nhưng sư tử biến dạng không phải là lời nói dối, bởi vì nó là đồ đồng, đương nhiên không có cái gọi là biến dạng hay không biến dạng. (Trích từ bài viết Xuất phát từ sư tử đá trong Suy ngẫm trăm năm)
Uyên ương phúc lộc trông ra sao?
Việc lớn trong đời người không gì lớn hơn sinh tử, chết rồi đương nhiên “không có chuyện gì”. Sống lại là khởi đầu của tất cả, đương nhiên cũng là ngọn nguồn của tất cả “phúc”; còn nói đến “sống”, hôn nhân chính là một chủ đề không tách rời, chính là cha mẹ thông qua sự kết hợp của hôn nhân mới sinh ra tất cả chúng ta. Cho nên hôn nhân không chỉ là đại phúc của người trong cuộc, cũng có ảnh hưởng sâu rộng đối với phúc của hậu thế.
Khi tổ chức hôn lễ, món quà mà mọi người thường tặng cho tân lang, tân nương là uyên ương Phúc Lộc. Uyên ương đại diện cho cuộc sống vợ chồng hạnh phúc mỹ mãn, còn phúc lộc chính là mong muốn tốt đẹp của mọi người về cuộc sống tương lai. Uyên ương phúc lộc có dạng dây đeo, cũng có khi vẽ thành tranh, hoặc làm thành đồ sứ. Cho dù kiểu dáng thế nào cũng không thiếu được một đôi uyên ương và lá sen, hoa sen. Lá sen và hoa sen thể hiện sự “hòa hợp”, cũng là lời chúc phúc với đôi vợ chồng mới cưới.
Cổ nhân nói: Đời người trăm năm, vợ chồng một lần. Hôn nhân được người xưa cho là chuyện lớn hàng đầu của đời người. Thực ra, nghĩ kỹ lại không hề khoa trương. Đối với đàn ông, có được một người vợ hiền, con cháu sau này sẽ có một người mẹ tốt, trong nhà yên ổn, hòa thuận, chuyện gì cũng thuận lợi, chuyện lớn chuyện bé đều trật tự, mọi người chung sống hòa thuận trong nhà, quan hệ dung hòa với hàng xóm. Như thế, cho dù nghèo hay giàu, đàn ông đều có thể yên tâm làm việc bên ngoài, đầu tư tinh lực lớn nhất cho sự phát triển của cả gia đình, lo gì không thể sống sung túc chứ? Đối với người phụ nữ, được gả cho một người chồng hiểu biết, thấu tình đạt lý, chịu nổ lực, phấn đấu, thường ngày không cần tranh cãi về những chuyện vặt vãnh, chồng cố gắng thì kinh tế trong nhà sẽ ổn định, và phát triển. Nếu về trị thế, không nói thăng quan tiến chức vùn vụt, nhưng sự nghiệp chắc chắn có thành tựu. Cho dù ở thời loạn, chỉ cần chịu khó nỗ lực, lo gì không được no ấm? Nhìn từ đó, quan hệ giữa hôn nhân và phúc phận cuộc đời không thể nói là không lớn.
Người phúc lớn được mọi người ngưỡng mộ trong thời cổ đại Trung Quốc phải là người có cuộc hôn nhân mỹ mãn. Thời thượng cổ, cũng có cuộc hôn nhân như thế giữa Ngu Thuấn và Nga Hoàng, Nữ Anh. Hai vị phu nhân chăm chỉ tiết kiệm chăm lo nhà cửa giúp Ngu Thuấn có thể yên tâm mà xử lý quốc sự, cuối cùng để lại tiếng thơm ngàn đời. Hậu thế cũng truyền tụng câu chuyện của Đường Thái Tông Lý Thế Dân, cuộc hôn nhân viên mãn giữa ông và Trường Tôn Hoàng hậu được ca ngợi. Trường Tôn Hoàng hậu không chỉ hiểu biết mà còn thông minh đại nghĩa, thường xuyên khuyên can Thái Tông những lúc then chốt, có thể nói cai trị của Trinh Quán đầu đời Đường cũng có một phần công lao của Trường Tôn Hoàng hậu.
Tiếp sau đó, còn có một người phụ nữ được phong hầu duy nhất được ghi chép trong chính sử – Tần Lương Ngọc. Sự kết hợp giữa Thạch Trụ Thổ Tư Mã Thiên Thừa có thể nói là trai tài gái sắc, do ông trời tác thành. Hai người đều có võ nghệ cao cường, còn có lòng yêu nước sâu sắc, có chung lý tưởng. Vì thế, trong quá trình dẹp loạn sau này, hai người nhiều lần lập công lớn, nhưng Tần Lương Ngọc khi đó vẫn chưa phát huy đầy đủ tài năng quân sự của mình. Cho đến khi Mã Thiên Thừa không may chết trận, thù nước thù nhà cùng lúc bùng phát, Tần Lương Ngọc đánh bại quân địch, cuối cùng làm Đại nguyên soái, còn được phong là Trung trinh hầu, lưu tiếng thơm cho trăm đời sau.
Vật phẩm phong thủy cát tường tượng trưng cho trường thọ
Vì sao cây tùng được xem là vật phẩm phong thủy cát tường?
Từ xưa đến nay, mọi người đều có tình cảm đặc biệt đối với cây tùng: Văn nhân tạo khách nhiều thời đại đều thích ngắm cây tùng, các họa sĩ cũng thích vẽ tùng, đến cả người già cũng vô cùng thích thú khi nghe người khác gọi mình là “cây tùng không già”. Sở dĩ cây tùng có thể nhận được sự yêu mến của mọi người như vậy, là vật cát tường, ngoài vì hình thái đẹp đẽ và khí chất cao đẹp đặc biệt của nó ra, còn là bởi nó nổi tiếng từ sự trường thọ, có danh hiệu “đứng đầu của trăm loại cây”.
Cây tùng xanh tưới tốt, vào mùa đông không hề tiêu điều, sức sống vô cùng mạnh mẽ. Từng có câu thơ “đại diệc thùy thiên cửu vạn lý, cổ tùng bạt địa ngũ thiên niên”, ca ngợi sức sống ngoan cường của cây tùng. Vì thế, trong truyền thống dân gian, cây tùng không những là đại diện cho sự trường thọ, thậm chí được xem là tiên vật dùng để chúc thọ. Dần dần, cây tùng trở thành hình mẫu quan trọng trường sinh bất lão trong Đạo giáo; Trong thần thoại Đạo giáo, đạo sĩ ăn lá tùng, rễ tùng, một thời gian sau thành tiên trường sinh bất tử. Trong một số sách Đạo giáo cũng chỉ ra, nhựa tùng chảy ra từ cây tùng trên 1000 năm sẽ biến thành phục linh. Mọi người uống phục linh trong thời gian dài sẽ trường sinh bất lão.
Trong lịch sử tranh vẽ của Trung Quốc, “tùng hạc diên niên” luôn là đề tài quan trọng mãi mãi không phai nhạt. Đó là vì hạc tiên đại diện cho thanh cao, nho nhã, cùng với cây tùng, ngụ ý trường thọ. Trong đó, nổi tiếng nhất là tác phẩm của tăng nhân Hư Cốc đời Thanh – Tùng hạc diên niên vào năm thứ mười năm của vua Quang Tự. Cả bức tranh dựng đứng đầy ý nghĩa, ý cảnh thanh nhãn trang nghiêm, tình ý lại tươi mới, dùng bút gấp một bên lại phác họa tùng châm và đàn hạc, nét vẽ vô cùng sinh động, mang lại cho mọi người cảm giác vui vẻ phúc thọ, an khang, thể hiện sư thanh thoát không vướng một chút bụi trần.
Cây tùng ngoài việc được cho là hình tượng của tranh vẽ ra, còn thường xuyên dùng để khắc ngọc: Một cây tùng thẳng đứng chỉ lên trời, bên cạnh một hạc tiên ngẩng đầu cất tiếng kêu, trên trời có một hạc tiên cất tiếng hô ứng, thông qua sự kết hợp tuyệt vời tùng tĩnh hạc động, tùng cương hạc nhu, ngụ ý chỉ “Trường thọ trăm tuổi, bên nhau mãi mãi, cát tường an khang”.
Đến nay, “Phúc như Đông Hải trường lưu thủy, thọ tỷ Nam Sơn bất lão tùng” vẫ là câu đối chúc thọ hay mà chúng ta thường gặp nhất. Vì thế, cây tùng mang lại cho chúng ta không chỉ là tài sản vật chất, quan trọng hơn là sự truy cầu và ngụ ý thế giới tinh thần, cũng đã trở thành một phần không thể thiếu trong văn hóa truyền thống.
Rùa chúc thọ ngắm trăng kể về câu chuyện gì?
Cách hướng Đông Bắc ở Lam Châu, Cam Túc khoảng 20km có một nơi gọi là “Thập Xuyên”, gần sông Hoàng Hà, có tên gọi là “Tái thượng tiểu Giang Nam”. Nơi đso có nhiều loại cảnh quan văn nhã, tự nhiên vô cùng đẹp đẽ. Trong đó, nổi tiếng nhất là “Rùa chúc thọ ngắm trăng”. Nới đây còn có một truyền thuyết.
Trong sử sách của địa phương đó từng có một câu như thế này: “có một con rùa thần, sống dưới sường dốc, ngày bảo vệ sông Hoàng Hà, ngước nhìn Thập Xuyên, ban đêm ngắm nhìn trăng”. Tuy nhiên, câu chuyện vốn không phải như vậy. Tương truyền từ xưa Thập Xuyên là nơi giàu có và đông đúc, dân cư nơi đó an cư lạc nghiệp, vô cùng hạnh phúc, vì thế có rất nhiều người và động vật đều đến đây sinh sống, con rùa thần này cũng là một trong số đó. Rùa thần đến từ cao nguyên có nguồn nước khô hạn, ngày đêm gấp rút lên đường, nhưng do tốc độ của nó khá chậm còn, phải đi qua một quãng thời gian rất dài mới đến được bờ sông Hoàng Hà. Lúc này, nó đã sức cùng lực kiệt.
Rùa thần sau khi nhìn thấy nước thì muốn uống thật no, nhưng “mọi việc không như ý muốn”. Lúc này, vừa hay có một chú ếch vàng đang phạm lỗi ở Diêu Trì, bị Tây Thiên Vương Mẫu đánh thả xuống trần gian, rơi xuống nước sông Hoàng Hà. Trong phút chốc nuốt trọn nước sông Hoàng Hà vào trong bụng mình. Rùa thần đột nhiên nhìn thấy nước sông cạn xuống, nhưng không làm được gì. Nó cũng không còn sức để tiếp tục trèo lên phía tước nữa, đành nằm bò xuống bên bờ, ngẩng đầu nhìn trăng sáng trên trời thở dài. Như vậy qua một khoảng thời gian, cuối cùng rùa thần đã chết vì khát, biến thành rùa đá. Trong sử sách cũng có ghi chép: Ban đêm, khi yên tĩnh, có lúc mọi người sẽ nghe thấy tiếng gọi của rùa thần. Sau ày, quan nghiên cứu của các nhà khoa học đã chứng minh đây là do tiếng sống của sông Hoàng Hà gây ra.
Hiện nay, tấm đá nhìn trăng có hình dáng như chú rùa này vẫn còn ở bên sông Hoàng Hà. Rùa thần vẫn nằm ở mảnh đất đấy nhìn trăng. Hình rùa đá sống động như thật này cũng được mọi người gọi là “rùa thần”, “rùa chúc thọ”. Thậm chí những người già nơi đó đều nói: “Một năm nhìn rùa thần một lần, tức là vừa thêm thọ lại vừa thêm phúc”.
Tại sao cùng với rùa, hạc cũng được gọi là “vua của trường thọ”?
Tục ngữ nói “Rùa ngàn năm, ba ba vạn năm”. Từ xưa đến nay, rùa được mọi người gọi là “vua của trường thọ”. Trong cuộc sống của chúng ta còn có một loài động vật nữa cũng được xem là đại diện của trường thọ, chính là hạc tiên. Không chỉ ở Trung Quốc, các nước khác như Nhật Bản và Triều Tiên cũng thường xuyên đặt hạc tiên, rùa thần và cổ tùng với nhau, đại diện cho trường thọ.
Trong một số truyện ký, truyền thuyết thần thoại, hạc là một loại tiên cầm, vú dụ như trong sách tước báo cổ kim chú từng tiến hành miêu tả hạc như sau: “Hạc ngàn năm sẽ biến thành màu xanh biếc, qua hai ngàn năm nữa lại biến thành màu đen, nên được gọi là huyền hạc”. Từ đó có thể thấy, trong nhận thức của người xưa, hạc là một loài động vật vô cùng trường thọ, lại có linh khí.
Hạc tiên được nói trong lời của người xưa, kỳ thực chính là hạc trắng mà chúng ta có thể thấy ngày nay. Do hạc trắng có tính cách cao sáng, hình dáng đẹp đẽ, thường dùng mỏ, cổ, chân vương dài ra, nhìn trông giống một vị đạo cốt tiên phong, nên được mọi người gọi là “chim nhất phẩm”. Trong các loài chim, địa vị của nó chỉ đứng sau phượng hoàng. Tuổi thọ của hạc trắng trong hiện thực thường chỉ có 20 – 30 năm. Trong Bão Phác tử lại nói, hạc trắng có thể sống đến 100 tuổi. Từ đó có thể biết, khi miêu tả về hạc, người xưa đã thêm rất nhiều màu sắc kỳ bí vào. Kỳ thực, mọi người thường xem hạc trắng là tượng trưng của trường thọ cũng không phải là không có căn cứ. Vì trong điều kiện môi trường thích hợp, cộng với sự nuôi dưỡng hợp lý của mọi người, hạc trắng cũng có thế sống đến 60 tuổi. Trong các loại chim đây cũng được xem là sống lâu.
Ngoài ra, hạc còn có danh hiệu “tổ tiên của loài có cánh”, thường nói nó được sinh ra từ tinh khí của đất trời, 7 tuổi thì nhỏ, 10 tuổi lớn hơn, 160 tuổi dừng lại, đến 1600 tuổi thì định hình, có thể dùng làm vật cưỡi của các tiên nhân. Hai là sự hóa thân của người phàm sau khi thành tiên, như: Trong thần tiên ký có ghi chép. Ngoại ô phía Nam của huyện Huỳnh Dương có một ngôi nhà đá, sau nhà có một cây tùng cổ cao đến nghìn trượng. Nghe nói từng có một đôi vợ chồng bay lên cao sau đó hóa thành hạc tiên, còn thường xuyên bay trở về hồi tưởng cuộc sống nhân gian.
Trong tranh vẽ của người xưa, hạc thường được vẽ cùng với tunggf, đặt tên là “Tùng hạc trường xuân”, “Hạc thọ tùng linh”. Vẽ hạc và rùa với nhau, ý nghĩa cát tường của nó là “Quy hạc tề linh”, “Quy hoạc diên niên”. Về hạc, hươu và ngô đồng với nhau, biểu thị “Lục hợp đồng xuân”. Tranh cát tường về các vị thần tiên chấp tay ngẩng đầu nhìn Thọ Tinh cưỡi hạc, được gọi là “Quần tiên hiến thọ”. Tranh quý “Tùng hạc trường xuân” được lưu truyền rộng rãi trong các đồ vật cát tường dân gian chính là một bức tranh vừa biểu đạt chúc mừng hai vợ chồng cao tuổi trường thọ, còn hàm ý bay lên thành tiên, trường sinh bất lão,
Không chỉ như vậy, trong truyền thuyết thoại, hạc thường là con vật mà thần tiên dùng để cưỡi, Lão Thọ tinh cũng thường xuyên xuất hiện với hình tượng cưỡi hạc bay lên mây. Vì thế, tuổi thọ của hạc không thể tính được, dạc và rùa cùng được xem là vua của trường thọ. Người đời sau cũng thường xuyên dùng “hạc thọ”, “hạc linh” và “hạc toán” để chúc thọ.
Hươu cũng là tượng trưng của trường thọ phải không?
Trong Thái Bình quảng ký có một truyền thuyết liên quan tới hươu: Khi Đường Huyên Tông Lý Long Cơ đi săn ở ngoại ô Hàm Dương, nhìn thấy một con hươu đực đang chạy về phía trước, liền giương cung bắn. Sau khi hồi cung, Huyền Tông ra lệnh cho mài dao giết hươu, muốn đầu bếp làm một bữa tiệc thịt hươu. Tuy nhiên, khi Trương Quốc Lão nhìn thấy con hươu này, liền nói với Đường Huyền Tông: “bệ hạ, đây là một con hươu tiên. Vào năm thứ năm niên hiệu Nguyên Thú, Hán Vũ Đế đi săn, từng bị Hán Vũ Đế bắt sống trong rừng. Sau này có người nói con hươu này thọ 1000 tuổi, Vũ Đế ra lệnh cho Đông Phương Sóc chế tác ra một miếng đồng buộc vào dưới sừng bên trái của con hươu, sau đó thả con hươu này ra”.
Đường Huyền Tông nghe xong, không hề tin lời của Trương Quốc Lão, thế là ra lệnh cho người đến xem sừng hươu, kết quả nhìn thấy một miếng đồng phía dưới sừng trái của hươu, dài khoảng 2 thước, nhưng chữ phía trên lại rất mờ không rõ: “Đường Huyền tông lại hỏi: “Năm thứ năm niên hiệu Nguyên Thú năm nào, đến nay đã bao nhiêu năm”. Trương Quốc Lão trả lời: “Năm đó là năm Quý Hợi, hiện nay là năm Giáp Tuất, đến nay đã được 842 năm rồi”. Đường Huyền Tông nghe xong liền ra lệnh cho quan thiên văn đối chiếu năm, kết quả phát hiện giống như lời Trương Quốc Lão nói. Đường Huyền Tông cảm khái nói: “Lạ Thay!”.
Đương nhiên, đây chỉ là một câu chuyện, không phải là sự thật. Nhưng, bắt đầu từ đời Hán, người xưa quả thật đã bắt đầu xem hươu là tượng trưng của sự trường thọ. Đây là vì trong Bão Phác tử của Cát Hồng Triều Tân có viết: “Hươu thọ ngàn tuổi”. Phần nhọn của sừng hươu có tinh hoa của linh chi, là động vật duy nhất có thể xác định được vị trsi của linh chi, vì thế nhận được sự tôn sùng của mọi người. Hơn nữa, xét từ góc độ Y học, nhưng hươu quả thực có thể đạt được tác dụng, ích thọ diên niên, cường tráng mạnh khỏe, giúp tinh lưc dồi dào.
Ngoài ra, trong “tứ linh” thời xưa, rồng, phượng, kỳ lân, rùa, tạo hình của rồng và kỳ lân đều có liên quan đến hươu, sừng rồng. Đây là vì người xưa xem hươu là loài thú qhúy, là đại diện cho may mắn, đặc biết là hươu trắng, càng thường xuyên đồng hành với thần tiên, là một trong những ghế ngồi của thần tiên.
Trong xã hội cổ đại, hỳ vọng có sự xuất hiện của hươu đa phần có sự tồn tại của con người. Tranh hạc hươu cùng dừng lại dưới cây ngô đồng, dùng “cây ngô đồng” để đại diện cho “cùng nhau”, thường xuyên được mọi người dùng để cầu xin trường thọ. Mà truyền thống dân gian từ xưa đến nay cũng xem hươu, hoa mai, hạc tiên và rùa là đại diện của động vật chúc thọ, còn gọi 4 phương Đông, Tây, Nam, Bắc là “Lục hợp”. Vì thế, “Hạc lộc đồng xuân” cũng có nghĩa là “Lục hợp đồng xuân”, chính là vì “lộc” đồng âm “lục”, “lạc” và “hợp” cùng âm. Hơn nữa, hạc là tiên cầm, hươu là thú quý, có ý ca ngợi cảnh sắc tuyệt đẹp ý xuân ngập đất trời, vạn vật tươi tốt.
Tại sao đá chúc thọ được xem là vật cát tường để “cầu Thọ”?
Người Trung Quốc làm bất cứ việc gì đều hy vọng có được điềm báo tốt cát tường như ý. Người xưa luôn theo đuổi “trong năm điều thiện, hiếu đứng đầu” càng hy vọng có thể để các bậc trưởng bối của mình nhận được lời chúc phúc tốt nhất. Vì thế, trong vô vàn các lễ vật mừng thọ, có đào chúc thọ, mì trường thọ, sách vạn tho. Trong đó còn có một vật cát tường chúc thọ, cầu thọ vô cùng nổi tiếng, đó chính là – đá chúc thọ.
“Đá chúc thọ” thường là chỉ đá có hình dạng hỳ dị, ngụ ý khá tốt, ví dụ như đá thái hồ và đá linh bích (còn gọi là khám thạch), chính là đá chúc thọ. Sở dĩ đá chúc thọ ngày càng nhận được sự yêu thích của mọi người, nguyen nhân chính và vì ngụ ý của nó. Mọi người hy vọng tuổi thọ của mình có thể lâu bền giống như viên đá.
Nhà thư pháp lớn Mễ Phất đời Tống là một người vô cùng yêu thích sưu tầm đá chúc thọ. Một hôm, ông có được một viên đá lớn Thái hồ nguyên sơn thì lấy làm thích thú. Viên đá này có màu sắc nhẵn bóng, lại núi non trùng điệp, tạo cảm giác không gian tầng tầng lớp lớp. Viên đá nhìn lung linh, khe động đều có đầy đủ, Mễ Phất đặt tên là “Động thiên nhất phẩm”, có ý so sánh với các loại đá chúc thọ khác. Không chỉ có vậy, sự yêu thích “Động thiêng nhất phẩm” của Mễ Phất đã đến mục độ điên cường, mỗi sáng sớm đều phải hành lễ 3 quỳ 9 váy nó. Hành động này của Mễ Phất bị mọi người chọc ghẹo là “Mễ điên”. Tuy nhiên, nhiều họa sỹ sau này đã vẽ cảnh Mễ Phất vái đá, đặt tên là “Động thiên nhất phẩm”.
Kỳ thực, Mễ Phất yêu thích viên đá chúc thọ như vậy là có nguyên nhân. Nghe nói, Đại vu khi thống trị Thái Hồ, từng dùng rìu thần đục một viên đá thành hìn dáng con ba ba đá lớn. Những viên đá bay ra trong quá trình đục ba ba đá được rửa bằng nước sông, đã biến thành đá thái hồ. Vì thế, loại đá này cũng có thể là đá vụ từ thân ba ba lớn kia. Qua câu chuyện đá thái hồ được đục bởi rìu thần của Đại vu, đã có hàm nghĩa “đá chúc thọ”. Mễ Phất vái lạy “Động thiên nhât phẩm” kỳ thực chính là tôn sùng Thọ Tinh.
Trong tranh ngũ thụy có “ngũ thụy” nào?
Đã từ rất lâu, người xưa thông qua tranh Ngũ Thụy đê chúc thọ, cầu phúc, cầu bình an. Vậy thì, mọi người biết trong tranh Ngũ thụy này có những “ngũ thụy” nào không? Kỳ thực, ngũ thụy này chỉ hương xuân, có huyên, chi lan, khánh thạch và trúc, trong dân gian những loại này tượng trưng cho cát tường, bình an, trường thọ, hỉ khánh và hưng vượng.
Trong sách Trang Tử đã từng nói: “Xưa có cây xuân 8000 tuổi là xuân, 8000 tuổi là thu”. Vì thế. Trong lòng của người xưa, cây hương xuân chính là tượng trưng của trường thọ. Họ còn vì cây xuân như người cha, gọi là “Xuân đinh”, ngụ ý người già trường thọ.
Có uyên, còn gọi là “vong ưu thảo”, có thể giúp con người quên đi nỗi buồn. Vì thế, thường xuyên được mọi người ví với sự vui vẻ, cũng ẩn dụ gia đình hạnh phúc vô ưu. Mọi người đều biết người xưa dùng “lệnh đường” để chỉ người mẹ, kỳ thực nó có hàm nghĩa nhất định. Người xưa phân chia nơi ở thành “tiền đường” và “hậu thất”. “Hậu thất” còn gọi là “bắc đường”, là nơi ở của người mẹ. Người xưa thường trồng cỏ uyên ở Bắc đường. Vì thế, có uyên cũng có thể chỉ về người mẹ, cũng là chúc phúc người mẹ có thể trường thọ, an khang.
Chi lan là chậu cây được người xưa trồng ở bậc thềm, hình dáng thanh cao nho nhã, được con gười yêu thích. Đồng thời “chi lan” cùng âm với “con trai, cháu trai”, ẩn dụ con cháu do gia đình sinh ra và nuôi dưỡng, không phải là con riêng, cũng có thể biểu thị nhân đinh trong gia đình hưng vượng phát đạt, dùng để giảng dạy khuyên bảo con cháu.
Thơ cổ có viết: “Vua là khánh thạch, thiếp là bồ vĩ, bồ vĩ dẻo như tơ, khánh thạch không thể nào dịch chuyển”. Khánh thạch ở đây thường chỉ đá lớn sừng sững không động đậy, vừa lớn vừa phẳng trên núi cao. Sau này được mọi người dùng để biểu thị cơ nghiệp gia đình vững chắc, kiên cố như khánh thạch.
Trúc không những có thể được ví như quân tử thanh cao chính trực, còn có nghĩa “Trúc báo bình an”. Đây là vì khi người xưa chưa có giấy, đã viết chữ lên trúc, dùng tấm trúc để truyền thông tin. Vì thế, trên giấy viết thư, mọi người có ấn kèm cánh trúc hoặc lá trúc dùng để chỉ sự bình an.
Tranh ngũ thụy chính là tổ hợp những đồ vật có lời chúc tốt đẹp lại với nhau như vậy, bao hàm cả ý nghĩa cha mẹ trường thọ, không có ưu phiền, gia cơ ổn định như khánh thạch, con cháu hưng vượng, gia đình bình an. Trong đó, “tranh ngũ thụy” nổ tiếng nhất do Hán Linh Đế, năm thứ tư niên hiệu Lưu Hồng do Kiện Ninh sáng tác. Bên trái tranh là rồng vàng, bên phải là hươu trắng, phía dưới bên trái có 2 cây 4 cành “liên lý”, chính giữa có một cây gia hòa, cây mọc ra chish thân. Bên phải có một cây, dưới cây có người cầm đĩa “thừa lộ”, là bức tranh cát tường sớm nhất tồn tại đến nay của Trung Quốc.
Lịch sử Trung Quốc có những chữ “thọ” nổi tiếng nào?
Khi xem các bộ phim cổ trang, chúng ta thường nhìn thấy một đoạn như thế này: Nếu một vị trưởng bối làm lễ mừng thọ, hậu bối hiếu thuận thường chuẩn bị một cuốn sách vạn thọ làm quà mừng thọ. Người già nhận được qùa mừng này vô cùng vui mừng. Đó là vì sách chữ thọ kỳ thực không dễ viết, nhưng ngụ ý của nó lại đặc biệt tốt. Con cháu tặng món quà này ắt phải tiêu tốn rất nhiều tâm sức.
Nói một cách thông thường, sách chữ thọ kỳ thực là một cuốn tranh bách thọ được cấu thành bởi nhiều chữ “thọ”, phía trên viết các thể chữ “thọ” từ xưa đến nay, thường là 100 chữ, cũng có thể nhiều hơn, nhiều nhất là một van chữ. Sách chữ thọ có thể phân thành 2 loại: một là trong khung tranh rộng lớn có một chữ thọ lớn, xung quanh gồn 100 chữ “thọ” viết bởi nhiều thế chữ khác nhau; loại khác là xếp 100 chữ “thọ” viết bởi nhiều thế chữ khác nhau thành 10 hàng, mỗi hàng 10 chữ, cấu thành hình vuông, hoặc là dùng vòng tròn bao quanh từng chữ trong 100 chữ “thọ”, cấu thành hoa văn hình tròn.
Bất luận dòng chữ trường thọ thể đơn hay là dấu chữ thọ tròn có từng chữ bao quanh là một dạng đồ hình ký tự. Nhưng dòng chữ “thọ” thể đơn còn có kềm đồ hình, như: “Như ý thọ tự đoàn” được trang trí hoa văn như ý xung quanh chữ thọ hình tròn, “Ngũ phúc bổng thọ” vẽ 5 con dơi xung quanh thành hình tròn. Những tranh chữ thọ này đa phần dùng ở nơi chức thọ, dán trên cửa, trên tường và các loại đồ dùng, thậm chí là in trên quần áo, chăn gối của người già để cầu phúc nạp thọ.
Trong Độc thư mẫu cầu ký – Tự học bách thọ đồ, Tiền Tăng triều Thanh đã nói: “Lệnh sử Tĩnh Giang thời Thiệu Định, Nam Tống gọi người khắc 100 chữ thọ”. Đến triều Minh, tranh bách thọ đã được lưu hành rộng rãi. Vào niên hiệu Chính Đức triều Minh, Triệu Bích đã viết cuốn Bách thọ tự. Trong sách ghi chép 24 loại bách thọ. Dũng đồng tiểu phẩm của Chúc Quốc Trinh triều Minh đã ghi chép tranh bách thọ cất giữu trong nhà: “Ngự sự Trương Chi, trong nhà cất giữ một bức tranh chữ thọ lớn, do tổ tiên ông để lại. Chữ cao 4 thước 7 thốn, chữ khải màu đen, điểm trong tranh, đều là chữ thọ nhỏ, chữ trắng viết kiểu chữ khác, đầy 100 chữ với nhiều thể chữ khác nhau”. Từ đó có thể biết, chữ bách thọ đã có lịch sử vô cùng lâu đời, hơn nữa còn nhận được sự yêu mến rộng rãi của văn nhân tài tử.
Ngoài sách chữ thọ được viết bằng bút mực ra, ngoài Hứa Nhược Thạch, nhà khắc dấu Sơn Tây đã phát minh sáng tạo dùng 1050 vạn chữ thọ khắc dấu, tổ hợp thành “Thiên thọ ấn”, dài 30m. Trong đó chữ in có giáp cốt văn, tiểu triện, Hán ấn, Ngụy bi, hoa văn tiền cổ, cùng với các thế chữ khải, thảo, hành, lệ, còn có văn tự cảu các dân tộc thiểu số như dân tộc Mông Cổ, dân tộc Mãn, dân tộc Triều Tiên.
Thế nào là tranh chúc “thọ”?
Tranh chúc thọ chính là một loại tranh có ngụ ý cát tường dùng làm quà mừng thọ của người xưa. Đa phần được tổ hợp từ một số tranh và ký hiệu có ngụ ý nhất định, dùng để biểu thị ý nghĩa mạnh khỏe trường thọ. Ngày nay, khi các người già mừng thọ, con cháu hiếu thuận đều tặng tranh chúc thọ, kết hợp với câu đối chúc thọ, như: “Phúc như Đông Hải, thọ tỷ Nam Sơn”, cùng với tranh chúc thọ biểu đạt lời chúc hy vọng người già mạnh khỏe, trường thọ.
Tranh chúc thọ đa phần xuất hiện với hìn thức bằng tranh, cũng có không ít điêu khắc được khắc bằng ngọc thạch. Nội dung của nó đa phần là tùng bách, quy hạc, đào, vách núi, nước biể và các tổ hợp thần thọ hoặc được cấu thành bởi nhiều chữ “thọ” được viết bởi nhiều thể chữ từ xưa tới nay, chủ yếu có mấy loại dưới đây:
Tổ hợp núi, biển: Tranh chúc thọ tổ hợp núi biển có tranh “Thọ sơn phúc hải”, chủ thể trong tranh là biển lớn, trong biển có vách núi, trên biển có dơi đang bay. Sở dĩ có tranh như vậy là vì “biển” trong tranh chỉ “Đông Hải”, “dơi” đồng âm với “phúc”, vách núi đại diện cho “Nam Sơn”, ngụ ý “phúc như Đông Hải, thọ tỷ Nam Sươn”. Ngoài ra còn có tranh “Phúc như Đông Hải” và tranh “Thọ tỷ Nam Sơn”. Thông thường mà nói, tranh “Phúc như Đông Hải” đều miêu tả cảnh sắc mặt trời mọc trên biển lớn, hạc tiên bay trên biển. Tranh “Thọ tỷ Nam Sơn” là một cảnh đjep vách núi sừng sững, rồng có sừng bay vút lên không trung.
Tổ hợp hạc, tùng, rùa: Trong tranh chúc thọ, ngoài tranh núi biển thường gặp, còn có các loại tranh khác như “tranh tùng hạc”, “tranh quy hạc”. “Tranh tùng hạc” thường là hoa văn được tổ hợp từ tùng và hạc. Trong đó từ xưa đến nay, tùng là cây trường thọ, vì thế người xưa đã dùng cây tùng đại diện cho trường thọ. Lại thêm chút màu sắc thần bí vẽ vào trong tranh, cộng với thú quý hạc tiên, đại diện cho ý nghĩa chúc người mừng thọ trường sinh bất lão, thành tiên bay lên. Trong văn hóa truyền thống, rùa và hạc đều là vật cát tường có đủ tiên khí, dùng chúng vẽ tranh, đại diện cho lời chúc phúc tốt đẹp nhất của mọi người.
Ngoài ra, tranh chúc thọ có thể được cấu thành bởi nhiều chữ “thọ”, gọi tắt là “Dấu chữ thọ”. Trong đó, vừa có tranh nhiều chữ, như “Tranh bách thọ”, cũng có tranh một chữ, chữ hình dài gọi là “trường thọ”, chữ hình tròn gọi là “viên thọ” hoặc “đoạn thọ”.
Thế nào là “tranh bách thọ”?
Hồi thứ 71 trong Hồng lâu mọng có viết: Giả Mẫu hỏi chị Phượng: “Những nhà trước đã tặng quà, tổng cộng cso mấy nhà có bình phong?”. Chị Phượng trả lời: “Tổng cộng có 16 nhà, có 12 tranh bách thọ có một mặt trát vàng khung lớn là hạng nhất”. Mọi người biết “Tranh bách thọ”, “hạnh nhất” được Chị Phượng nói là cái gì không?
Tranh bách thọ cũng không khác sách chữ “thọ”, có thể xem là một loại của sách chữ thọ, được tổ hợp từ 100 chữ “thọ” viết bởi nhiều thể chữ khác nhau. Tranh bách thọ là một loại ký thác lý tưởng trường thọ của dân gian cổ đại, từ xưa đến nay đều dùng làm quà tặng mừng thọ, được mọi người thưởng thức như một tác phẩm nghệ thuật.
Tranh bách thọ có nhiều chủng loại, thường là hình tròn, hình vuông hoặc hình chữ nhật, cũng có loại viết thếm một số chữ “thọ” nhỏ bên trong một chữ “thọ” lớn. Trong đó, thể chữ viết đa phần là chữ cổ, có chữ triện, lệ, khải, Nhất định không được xem nhẹ 100 chữ “thọ” này. Vì 100 chữ thọ nhỏ trong “Tranh bách thọ” đều có từ ngàn thu, không hề giống nhau. Trong đó không thể thiếu các thể chữ như khải, lê, triện, hành, thảo, giáp cốt văn. Bên cạnh chữ thọ nhỏ còn chú thích xuất xứ loại tranh này.
Dựa vào các loại khác nhau có thể phân chia tranh bách thọ thành nhiều loại khác nhau: Phân chia dựa vào triều đại, có Thương đỉnh văn, Chu đỉnh văn, Hán đỉnh văn, phân chia theo khu vực (tên nước cổ đại), có Kỳ lệ, Yến thư, Tây Hạ đài thư; phân chia dựa vào thể chữ có dich triển, cổ lệ, cổ đầu kim văn, phi bạch thư, phân chia dựa vào trường pháp của các nhà thư pháp, có Trịnh mạc, Hoài tổ, Ngu (Thế Nam) thư, Thái (nang) thư, Tiểu Vương (Hiến Chi) thư và thể văn Hoàn nga kính của thư thánh Vương Hy Chi. Ngoài ra, còn có một số thể chức không thể phân loại như kha đầu văn, tinh đầu văn, hỏa văn, thụ văn, long văn, phượng văn, tụ bảo văn, có thể gọi là long lanh rực rỡ, khiến mọi người không khỏi kinh ngạc.
“Tranh bách thọ” xuất hiện như thế nào?
“Tranh bách thọ” đã có từ lâu đời. Về sự xuất hiện của nó, có nhiều quan điểm, chủ yếu nhất là có hai loại. Hơn nữa đều có liên quan tới tri huyện sử vị:
Loại thứ nhât là ghi chép về Liêu Phù thành tiên. Sách Bão Phác tử viết: “Giếng Đan ở Liêu Phù, người tộc này uống nước ở giếng nên thọ lâu”. Trong sách Vịnh Ninh châu ký cũng có cách nói tương tự như vậy: “Liêu Phù là người Vĩnh Ninh, tương truyền nhà có giếng Đan sa. Người trong nhà uống nước ở giếng này, đều sống hơn 100 tuổi.
Những ghi chép này không phải là không có căn cứ mà bắt nguồn từ một truyền thuyết dân gian: thời xưa, người của tộc Liêu Phù sống tập thể nơi chân núi. Người nơi đây dựa vào thức ăn ở địa phương để sinh sống, uống nước trong giếng đan sa, kết quả tuổi thọ của người ở đây đều hơn 100 tuổi. Bản thân Liêu Phù càng thọ hơn, sống 158 tuổi, cuối cùng trở thành tiên, cưỡi mây bay về phương Tây. Sau khi tri huyện Sử Vị nghe được câu chuyện rất thần kỳ, thế là viết một chữ thọ cực lớn, đồng thời tra từ điển, dẫn chứng rộng rãi, chế tác ra một bức “tranh bách thọ”. Sau này mời thợ thủ công Vương Nguyên khắc ở mặt trên của một viên đá lớn, lưu truyền đến nay.
Loại thứ hai là Cao Đăng phạm lỗi, cầu phúc bổ cứu. Tương truyền trước núi Bách Thọ có một cái giếng đan sa, nước giếng ngọt, trong vắt. Liêu Phủ và người nhà sống ở đó thường xuyên uống nước giếng này, kết quả Liêu Phủ thọ hơn 150 tuổi. Người nhà và con cháu thế hệ sau cũng thọ hơn 100 tuổi. Mọi người đều nói đó là vì trong nước giếng có một đôi hà thủ ô nghìn năm. Một đôi trẻ nhỏ xinh đẹp thường xuyên chơi đùa bên cạnh giếng cũng do chúng biến hóa thành.
Một vị tham quan tên là Cao Đăng sau khi nghe chuyện, cũng hy vọng mình có thể trường sinh bất lão, liền sai người hằng ngày đến lấy nước giếng về uống. Ai ngờ người này có lòng tham vô đáy, đột nhiên sai người đào lấy “thủ ô sống” đun lấy ăn. Giếng đan sa cũng dần khô cạn, biến mất. Đúng lúc hậu thế đều cảm thấy hối tiếc vì không được dùng nước giếng trường thọ như vậy nữa, một người nhìn thấy trước bàn thờ Quan Thế Âm trong núi nhìn một câu đối:
Bách thế thượng sự tích như tư tăng kỷ hà thời kích đan sa tầm bất kiến.
Thọ nham nội thần tiên vô toán nhi kim an tại thanh sơn lục thụ ngã lai trì.
Đến năm thứ hai niên hiệu Định đời Tống (tức năm 1229 Công nguyên), trì huyện Sử Vị biết được chuyện này, viết một chữ thọ vào ngày mừng thọ của mình, đồng thời mời các người già nổi tiếng trường thọ trong huyện viết một chữ thọ nhỏ xung quanh, cuối cùng do đích thân ông chỉnh lý. Sau đó, mời thợ thủ công giỏi đến khắc trên tường đá trong núi, trở thành “tranh bách thọ” ngày sau. Tranh bách thọ cũng trở thành đại diện của cầu phúc, cát tường.
Mặc dù đây chỉ là truyền thuyết, nhưng đều giống nhau, “tranh bách thọ” đều được hình thành từ trí tuệ của nhiều người được trì huyện Sử Vị tập hợp lại. Từ khi nó xuất hiện đến nay, đã nhận được sự yêu mến và hoan nghênh của mọi người. Thời đó, về cơ bản nhà nhà người người đều treo một bức tranh bách thọ để cầu an khang, trường thọ.
“Tranh bách thọ” có những truyền thuyết gì?
Phần trên chúng ta đã miêu tả nguồn gốc của “tranh bách thọ” trở thành bảo vật quý hiếm được lưu truyền rộng rãi, đặc biệt là ở thời kỳ Nam Tống. Tác phẩm mô phỏng “tranh bách thọ” được in ấn, bồi khung xuất hiện nhiều vô kể như trúc xuân sau mưa. Thời đó, không chỉ nhiều dân chúng tự hào vì có một bức “tranh bách thọ”, đến cả triều đình hiển quý, thư hương thế gia cũng đều tìm trang bách thọ tốt nhất, để treo ở trung đường, vừa có thể giúp môn đình huy hoàng, khách khứa tranh nhau thưởng thức, còn có thể bảo vệ gia đình mạnh khỏe, trường thọ.
Nghe nói, các thương nhân đi xa thời cổ đại hoặc là những người theo đường hoạn lộ thanh vân đều xem “tranh bách thọ” là bảo bối bảo vệ gia đình bình an. Sách Vĩnh Nính châu chỉ có viết: “Sĩ đại phu dùng sách in ấn đặc biệt, đựng trong nhiều tráp, có thể trấn được hiểm của giang hồ phong đào, nhiều kỳ nghiệ,”. Trương truyền khi Trịnh Hòa đời Minh đi xuống Tây Dương, tùng một lần gặp cuồng phong sóng lớn trên biển. Lúc đó, mái chèo của thuyền lớn đã bị sóng đánh hỏng, cột buồm bị gió thổi gậy, mọi người đều cho rằng mạng sống của mình đã chấm hết.
Đúng vào thời khắc vô cùng nguy cấp này, có người nhìn thấy một ông già râu tóc bạc trắng ngồi trên đầu của một con thuyền nhỏ, trên biển sóng to gió lớn mà vẫn ngồi yên định như ngồi trên đất phẳng. Sau khi Trịnh Hòa nhìn thấy, lập tức ra lệnh cho con thuyền còn lại vội vàng đi theo sau con thuyền nhỏ đó. Quả nhiên, không lâu sau, sóng yên biển lặng, ông già kia cũng đột nhiên không còn tung tích. Cuối cùng, khi Trịnh Hòa ra lệnh cho người đi tìm mới phát hiện trên thuyền có một thủy thủ mang theo một bức “tranh bách thọ”. Vì thế, mọi người đều cho rằng đấy là “tranh bách thọ” đang hiển linh.
Trong lịch sử có những “tranh bách thọ” nổi tiếng nào?
Mọi người thích du lịch có thể men theo đường quốc lộ Quế Dung đi về hướng Tây. Sau khi đi qua một ngọn núi lớn “Kim Trúc Ao”, lại men theo ven sông Long Giang ngoằn nghèo xinh đẹp, đi qua 3 đoạn núi quanh co, sẽ đến một nơi rộng rãi. Nơi đây muốn trùng sóng biêc nước sông như dải ngọc, xanh trong bao quanh, cư dân sống hạnh phúc. Đó chính là thành cổ của Vĩnh Ninh Châu – Trấn Bách Thọ.
Chúng ta men theo phố cổ của thành cổ đi về phía Đông, dần dần sẽ nhìn thấy một ngọn núi nhô lên. Cả ngọn núi giống như một chòm sao Thương Long lao nhanh, ngoằn nghèo đến bên đường quốc lộ thì dừng lại. Người địa phương đó đặt cho ngọn núi này một cái tên: núi Đối Hà. Phía Tây Bắc núi xanh biếc như tranh, có một phong cảnh như động chân trời, đây chính là “núi Thọ Tự” trong truyền thuyết. Theo truyền thuyết này, nước suối trong lành, mát ngọt dưới chân núi này chính là nước giếng đan sa.
Tranh bách thọ trong trấn bách thọ này vô cùng nổi tiếng, không chỉ vì nó là tranh bách thọ sớm nhất, càng vì nội dung in khắc trên đó vô cùng phong phú. Có rất nhiều khắc đá đa chủng loại, có ký sự, truyền ký, minh chương, thư văn và đề danh, còn có lời văn cát lành, cách ngôn. Nổi tiếng có hai chữ “Ninh thọ” do nhà thư pháp nổi tiếng Triệu Vu Phủ đời Hữu Nguyên viết, còn có thơ văn của nguyên soái Du Đại Du triều Minh khi trấn áp khởi nghĩa của dân tộc Choang. Mà trong nhiều khắc đá này, nổi tiếng nhất là chữ “thọ” do tri huyện Sử Vị khắc vào năm Kỷ Sửu (năm 1229 Công Nguyên) Thiệu Định, Nam Tống, chữ cao 175 cm, rộng 145cm, treo ở vách đỉnh núi, ngòi bút bay lượn có lực, điêu khắc cực kỳ tinh xảo, có thể gọi là tác phẩm điêu khắc lớn đời Tống.
Không chỉ có vậy, trong tranh chữ thọ lớn, còn mốc quan trọng viết thêm 100 chữ thọ nhỏ, có ý “Trường thọ trên 100 tuổi”. Chữ thọ nhỏ có đầy đủ các thể chữ chính, thảo, lệ, triển, trăm chữ trăm lọa, mà bên cạnh mỗi chữ còn chú thích xuất xứ của thể chữ. Đúng là một khối chữ thọ lớn nhỏ. Ngước nhìn sẽ có được sự hứng thú tuyệt diệu vô cùng, không khỏi cất lời tán thưởng.
Ngoài ra, còn rất nhiều “tranh bách thọ” nổi tiếng khác, đặc biệt là “tranh bách thọ” đời Minh Thanh, càng vĩnh viễn không thể phai mờ. Trong hai đời Minh, Thanh, một bức “tranh bách thọ” do Chu Sa in dập đã có giá trị “10 đồng long dương, hoặc 5 thạch gạo trắng”. Đến năm Càn Long, tri châu Vĩnh Ninh là Viên Quang Vĩ chúc thọ thượng thư ân sư bộ lễ, từng dùng hai trăm đồng long dương thuê người làm “tranh bách thọ” phi kim. Năm Dân quốc, Tưởng Giới Thách đại thọ 50 tuổi, Hoàng Húc Sơ chủ tịch tỉnh Quảng Tây sai người làm “tranh bách thọ”, làm quà mừng thọ tặng Tưởng Giới Thạch. Nghe nói, sau này, bức “tranh bách thọ” tinh xảo này trở thành lễ vật cho chính phủ, trao tặng cho nữ hoàng Elizabeth nước Anh làm quà mừng thọ. Từ đó về sau, “tranh bách thọ” ở nước ngoài, đặc biệt là ở các nước Đông Nam Á, Nhật Bản và các nước Âu Mỹ cũng có ảnh hưởng rất lớn, thậm chí có nhiều người đã xem “tranh bách thọ” là bảo vật gia truyền.
Dấu hoa văn chữ thọ
Khi chúng ta xem các bộ phim cổ trang, thường nhìn thấy một số người già mặc quần áo có in chữ “thọ”, nhìn vừa đẹp vừa có khí chất. Không chỉ có vậy, cho dù nhìn vừa đẹp vừa có khí chất. Không chỉ có vậy, cho dù là xã hội hiện nay, chúng ta còn nhìn thấy một số cửa hàng có tên hiệu cũ vẫn bán quần áo như vậy. Kỳ thực, sở dĩ những bộ quần áo có mang “dấu chữ thọ” vĩnh viễn không thể phai mờ, đó là vì nó đại diện cho hy vọng và lời chúc trường thọ của loài người.
Người cổ đại Trung Quốc đều thích dùng hoa văn chữ thọ để làm đồ trang sức, có các hoa văn đa sắc đa dạng, mà dấu văn tự cũng là một loại trong đó. Dấu văn tự thường đều in trên đồ sứ hoặc thêu trên vải, dùng để biểu đạt lời chúc tốt đẹp của mọi người. Dấu văn tự dùng để trang trí đồ vật, đại thể có hai phương thức, một là viết văn tự một cách đan xen hứng thú, nhìn đẹp giống như hoa văn; hai là bố cục văn tự thành dạng hoa văn, chỉ là bộ phận tổ hợp để trang trí tranh.
Do Phật giáo sau này truyền vào nước ta, lúc mới bắt đầu, dân gian nước ta chịu ảnh hưởng sâu rộng của tư tưởng Đạo giáo, mọi người đều công nhận quan niệm “Trong ngũ phúc, thọ là quan trọng nhất”, cũng có quan điểm “Trong bách thiện, hiếu đưng đầu”. Hơn nữa Đạo giáo không chú trọng đến kiếp sau như Phật giáo mà dạy con người quý trọng mạng sống, chú trọng cuộc sống hiện tại. Dưới ảnh hưởng của tư tưởng như vậy, mọi người đều hy vọng bản thân có thể trường thọ, cũng từ đó dần kiếm tìm con đường trường thọ. Dưới sự chỉ dẫn của tư tưởng đó, “dấu chữ thọ” được ra đời.
“Dấu chữ thọ”, nhìn chữ có thể đoán được ý nghĩa, là dùng để cầu trường thọ. “Thọ” và “phúc” tương trợ tương hợp, thời kỳ Thương Chu có cách nói “trường thọ đứng đầu trong ngũ phúc”. Trong chữ khắc trên đồ đồng xuất hiện không ít các chữ như “kỳ”, “hiếu”, “khảo” có nghĩa như chữ “thọ”. Vì thế, thọ đại diện cho nghĩa cuộc sống lâu dài, sống lâu. “Trường thọ” chính là phúc phận lớn trong câu cửa miệng của mọi người. Sau khi các ký hiệu cát tường như “thọ” có thể cùng đặt ngang với “phúc”, đề tài vật trang trí cầu thọ, phúc “phúc thọ song toàn”, “ngũ phúc bổng thọ” xuất hiện ồ ạt …
Thế nòa là “hầu đầu thọ”?
Mọi người đều biết, trong nhiều tranh Thọ Tinh đều sẽ có một người già cầm một quả đào lớn. Đây là vì mọi người thấy khỉ thích ăn đào, mà đào lại tăng thọ. Theo sách cổ Bảo Phác Tử viết: “Con người như thế nào, con khỉ cũng vậy. Khỉ thọ 800 tuổi”. Vì thế, người xưa thường xem khỉ là hóa thân của loài người, vì vậy, “hầu thọ” kỳ thực chính là nhân thọ.
Tác phẩm Hầu đầu thọ của nhà thư pháp Lý Trung Nguyên còn được gọi là “Thái cực hầu thọ”, “hầu thọ”, nhận được sự yêu thích sâu rộng trong giới nghệ sĩ. Thêm vào đó, tác phẩm của ông có thể chữ đẹp, tình tiết hợp lý, ý nghĩa sâu sắc, nên được phong là “Thiên hạ đệ nhất họ”.
Nhìn một cách chi tiết, tác phẩm Hầu đầu thọ của Lý Trung Nguyên dùng hình thức viết chữ thảo viết chữ “thọ” liền một mạch, xét một cách chỉnh thể, hình thái giống như con khỉ, sống động như thật, tình cảm chân thành, một bầu không khí vui tươi. Trong cả bức “hầu thọ” còn có 8 hoa văn thái cực nối liền nhau, khung dấu mực thông nhau, chuyển động một vòng, hình thành phân chia âm dương của hoa văn thái cực, chỉ cần vẽ túy ý một vòng tròn trên đường phân chia S là có thể hình thành một hoa văn thái cực, vì thế, bức tranh này còn được gọi là “Thái cực hầu thọ”.
Lý tiên sinh dùng thế đi của nét bút chữ “thọ” cộng với thế đi mẫu của thái cực quyền, khiến cả bức tranh bao hàm cả 8 hoa văn thái cực, có nghĩa là “bát bát định càn khôn”, vừa chìm đắm trong sự thoải mái, lại thanh tú trong sự bình ổn.
Trong tranh tết có những hình tượng thọ tinh nào?
Hình tượng Thọ tinh trong tiểu thuyết Tây du ký triều Minh là một ông già tay cầm linh chi, đầu dài, tai to, thân ngắn. Thọ Tinh trong tranh “Cảnh thế thông ngôn” lại là một ông già râu trắng, tay cầm tượng gỗ, trán lồi lên. Những hình tượng này cũng dẫn đến hình tượng Thọ Tinh trong tranh tết đa phần là một ông già râu trắng có tráng rộng, tay phải cầm trượng gỗ đào, tay trái cầm một quả đào lớn, khuôn mặt cười lớn, khiến mọi người nhìn thấy đều cảm thấy vui vẻ.
Kỳ thực, “phúc, lộc, thọ” mà mọi người thường nói đã xuất hiện từ rất lâu. Nhưng, trong 3 vị thần tiên này, duy nhất chỉ có “thọ” mới là vật trong cơ thể con người, là thứ thuộc về mình, đại diện cho nhu cầu cao nhất trong lý tưởng cuộc đời của người xưa, những cái khác đều là vật bên ngoài cơ thể mà mọi người truy cầu nhằm đáp ứng dục vọng của bản thân.
Trượng gỗ đào cầm trong tay Thọ Tinh, lúc mới ban đầu gọi là “Cưu trượng”. Vì phần đầu của trượng được khắc hình con chim gáy nên được đặt tên như vậy. Trong truyền thuyết, chim gáy là chim không bị nghẽn, tặng người già cây trượng có khắc chim gáy có ý chúc người già ăn uống an khang, mạnh khỏe trường thọ. Sau này lại nói gỗ đào có thể trừ bệnh khỏe mạnh, kéo dài tuổi thọ, vì thế mới dần đổi cây trượng thọ thành cây trượng gỗ đào vừa nhẹ vừa dễ cầm.
Vầng trán cao của Thọ Tinh cũng có liên quan mật thiết tới ý tượng trường thọ được tạo ra trong thuật dưỡng dinh cổ đại, ví dụ phần đầu cảu đan đỉnh hạc lồi lên cao. Đào chúc thọ càng không phải nói tới, truyền thuyết kể 3000 năm mới nở hoa, thêm 3000 năm nữa mới kết quả, là quả tiên trường thọ được đặc biết bày trên bàn đào của Vương Mẫu nương nương, sau khi ăn xong lập tức biến thành tiên, trường sinh bất lão. Vì thế, sự kết hợp trùng điệp của ý tượng trường thọ này, cuối cùng đã hình thành nên hình tượng Thọ Tinh ngày nay.
Mọi người đừng cho rằng Thọ Tinh đều là nam giới, kỳ thực, dân gian còn có một loại “tranh Ma Cô”, đây chính là Thọ Tinh nữ giới. Trong thần tiên truyện có ghi, Ma Cô và một vị tiên khác là Vương Phương Bình “chưa hề gặp mặt nhau, đã sống hơn 500 năm”. Đã nhìn thấy Đông Hải “ba lần thành ruộng dâu”. Từ đó có thể thấy tuổi thọ của bà cũng rất dài.
Nhưng, Ma Cô không phải là Thọ Tinh trên trời, mà là tự mình tu luyện thành tiên. Sỡ dĩ có tên Ma Cô là vì bà từng tặng Vương Mẫu nương nương rượu chúc thọ. Vì thế, dân gian mới có cách nói Thọ Tinh nữ này.
Để mời “phúc”, “lộc”, “thọ” vào nhà, gia đình giàu có đã khắc những hình tượng đại diện những ngụ ý này lên cửa: “Hạc tiên” đại diện trường thọ; “Huowu” cầu mong lộc vận; “Đào chúc thọ” ngụ ý trường thọ. Vào dịp tết, dân gian dán tranh tết, câu đối xuân lên cửa chính, cửa sổ cũng có ý nghĩa tương tự. Bất luận là giàu nghèo sang hèn, nguyện vọng có được cuộc sống tốt lành của mọi người đều như nhau.
Vật phẩm phong thủy mang lại tài vận và may mắn trong cuộc sống hằng ngày
Vật may mắn chiêu tài tiến bảo gồm những gì?
Trong dân gian, một số đồ vật do chứa đựng ý vị may mắn phú quý, gửi gắm mong ước và hy vọng của mọi người về cuộc sống tốt đẹp. Vì thế, những vật phẩm này đã trở thành vật may mắn chiêu tài tiến bảo.
Trong cuộc sống, vật may mắn như thế chủ yếu có hồ lô báu như ý chiêu tài nạp phúc, đỉnh báu tài phú có năng lượng chiêu tài mạnh mẽ, “tranh cửu ngư” có thể tự do phát huy năng lượng tài phú, “kim nguyên bảo” có thể liên tục thu hút của cải, “bồn tụ bảo” có thể tích lũy tài phú, tháp Văn Xương giúp con người vừa có của cải lại vừa có trí tuệ, gương Bát quái có thể trấn sát hóa hung, chiêu tài tụ phúc, bình báu 5 vị thần tài có thể làm tài lực thịnh vượng, cờ chiêu tài Liên Sư chiều tài, tăng thọ, nạp cát.
Tại sao nói ngọc như ý là tượng trưng phú quý?
Hình dánh của ngọc ngư ý giống móc câu cán dài, đầu móc dẹt như lá bối, phần đầu hình linh chi hoặc hình mây. Nếu sờ vào tạo cảm giác trơn bóng như đang sờ vào tơ lụa. Nó óng ánh trong suốt, có ánh sáng. Vào đời Thanh, nó là đồ chơi của Hoàng thượng, hậu phi trong hoàng cung.
Tìm cát tránh hung bắt nguồn từ bản năng của vật phẩm, hoạt động tâm lý khẩn cầu may mắn, hạnh phúc của vật phẩm, hoạt động tâm lý khẩn cầu may mắn, hạnh phúc của con người tương tự cũng bắt nguồn từ đây. Do vậy, mọi người bắt đầu có ý tạo ra các môi trường cát lợi và gửi gắm sự tốt đẹp này lên một số đồ vật. “Như ý” về mặt chữ là có ý phù hợp với ý nguyện của mình, ngụ ý làm việc gì haowjc muốn thứ gì đều được như ý. “Ngọc như ý” được cấu thành bởi chữ “ngọc” và “như ý”, kết hợp giữa phú quý và mỹ đức ấm nhuần của ngọc với ngụ ý may mắn của như ý. Vì thế thường được mọi người xem là tượng trưng may mắn phú quý, phúc khí an khang, tài vận phát triển liên tục.
Tại sao nói hồ lô báu là vật may mắn khai vận cần có trong gia đình?
Hồ lô đọc gần giống “phúc lộc”, từ xưa đến đều được coi là vật may mắn chiêu tài nạp phúc.
Dân gian Trung Quốc có câu “một hạt dưa trong phòng, trong nhà mới phát tài”. Mọi người tin rằng treo hồ lô trong nhà sẽ mang đến tài vận tốt cho mình, giúp cả nhà bình an mạnh khỏe. Lâu dần, hồ lô đã trở thành vật may mắn khai vận cần có trong các gia đình.
Liên quan đến hồ lô, còn có một cách nói thế này, bởi vì miệng nó nhỏ bụng to, có thể nuốt được tài khí của bốn phương mà không thất thoát. Do đó, nó còn tượng trưng kho tiền trán đầy, hạnh phúc tràn trề. Vậy là cách nói hồ lô tăng thêm tài vận, nạp tài trí phúc đã từng bước được chứng minh. Không chỉ có thế, đặc tính bụng phình to của hồ lô còn tượng trưng khoan dung, nhẫn nại. Vì thế nó thúc đẩy quan hệ hòa hợp giữa con người, mở rộng mối quan hệ cát lợi, vượng tài, vượng đinh. Tương tự, hồ lô cũng có công hiệu tương đương với trấn áp tiểu nhân, thu sát trừ ách, hóa giải rủi ro. Cho nên, mọi người cho rằng nếu bày hồ lô trong nhà còn có thể điều chỉnh khí uế sát, trừ bệnh thu sát, đón cát tránh tà.
Dân gian còn có cách nói thế này, nếu vợ chồng duyên bạc, có thể đặt một cái hồ lô đồng ở đầu giường, như vậy có thể tăng thêm ân ái vợ chồng, thắt chặt tình cảm vợ chồng. Ngoài ra, nghe nói nhà nào có người bệnh, hãy trwo ba cái hồ lô gỗ ở đầu giường hoặc trên tường, rất có lợi cho sức khỏe. Vì thế nhà có trẻ con hoặc người già càng muốn chọn dùng.
Tại sao cái đỉnh được xem là tượng trưng của cải?
Tạo hình cái đỉnh bắt nguồn từ thần khí đồng thau truyền thế. Nó là một trong những đồ đồng thau quan trọng, là đồ dùng để nấu và đựng thịt. Từ thời Hạ Thương Chu đến Tần Hán tới nay đã có hơn hai ngàn năm lịch sử. Đỉnh là trọng khí của đất nước, là tượng trưng quyền uy, tôn nghiêm và thành tín của quốc gia. Vì vậy, nó cũng được trao cho ý nghĩa “tôn quý”, “hiển hách”, “thịnh đại”, ví dụ các câu thành ngữ “nhất ngôn cửu đỉnh”, “đỉnh lực tương trợ”,”tiếng tăm lẫy lừng”. Từ đó, cái đỉnh cũng được trao cho ngụ ý tụ tài, nạp phúc, kế thừa.
Vào thời cổ đại, cái đỉnh vẫn là lễ khí để ban thưởng ghi công, quốc quân hoặc đại thần đời Chu đều đúc đỉnh trong các đại lễ trọng đại hoặc tiếp nhận ban thưởng để bày tỏ sự trang nghiêm và cung kính của mình. Đỉnh báu được lưu truyền mãi mãi, thể hiện được tinh túy tụ tài linh dị viên mãn. Thời xưa do nước hung nên vua Vũ đã đúc cửu đỉnh, dựng nên cơ nghiệp thiên cổ Hoa Hạ. Nay trăn nghiệp hưng vượng, đúc đỉnh có thể giữ vững mãi mãi gia nghiệp đang thịnh.
“Tranh cửu ngư” là gì?
Tranh cửu ngư là quốc họa ngụ ý may mắn như ý, “cửu (số 9)” có nghĩa là “lâu dài như trời đất” trong tiếng Hán, “ngư cá” trong dân gian ngụ ý vui vẻ may mắn, vạn sự như ý. Trung Quốc từ xưa đã có truyền thuyết “cá chép vượt long môn”, bởi vì chữ “ngư” đọc gần giống với “dư” trong tiếng Hán, nên từ xưa đến nay nó đã được xem là vật chiêu tài may mắn. Mọi người đa phần dùng cá chép để chúc phúc hàng năm dư dả, mọi việc đều khỏe mạnh yên ổn. “Tranh cửu ngư” là chỉ có 9 con cá chép hoặc cá vàng đáng yêu đang đùa vui dưới nước trong bức tranh, ngụ ý may mắn như ý lâu dài.
Nghe nói, cá màu đỏ có công hiệu vượng vận. Do đó, trong các tranh ảnh trang trí trong nhà có treo một bức tranh cửu ngư vừa giúp bản thân vui vẻ, vừa có ý may mắn chúc phúc rất tốt. Tranh cửu ngư đa phần được treo trong phòng khách, hoặc thêu ở bình phong, hoặc in trên các đồ đựng gốm sứ.
Năm 2004, họa sĩ Trung Quốc Tống Thủ Hữu từng chăm chú vẽ một bức “tranh cửu ngư” tặng cho anh hùng vũ trụ Dương Lợi Vĩ và đề 12 chữ “lợi trí cửu thiên lãm nguyệt, vĩ nghiệp đại địa xuân huy”.
“Kim nguyên bảo” đặt thế nào mới có thể chiêu tài?
Dân gian cho rằng, “kim nguyên bảo” dùng một cặp mới có tác dụng sinh tài vượng tài, cách bày đặt “kim nguyên bảo” thường cso hai loại sau:
– Đăt một cặp “kim nguyên bảo” ở bậu cửa sổ hoặc trên của sổ lớn nhất trong nhà, mỗi bên một chiếc có thể thu nạp đầy đủ tài khí ở ngoài cửa sổ, hơn nữa của sổ càng lớn thì tài khí càng vượng.
– Đặt một cặp “kim nguyên bảo” ở góc chéo của cửa chính bước vào phòng. Chỗ này là tài vị, có thể ẩn gió tụ khí, đặt một cặp “kim nguyên bảo” có thể tăng cường vận khí chiêu tài tiến bảo, có tác dụng vượng tài.
Ngoài ra, “kim nguyên bảo” cũng là món quà rất hay để tặng bạn bè người thân, đặc biệt là quá tặng ý nghĩa nhất để tặng cho bạn bè thân khi họ thăng quan tiến chức. Khi bạn bè thân thiết thăng quan, có nhà mới, tặng một cặp “kim nguyên bảo” có thể mang lại điềm may mắn, chủ nhân chắc chắn sẽ rất vui.
Truyền thuyết của bồn tụ bảo là gì?
Tương truyền những năm Hồng Vũ đời Minh thôn Thẩm Gia có một tài chủ tên là Thẩm Vạn Tam. Nhà ông ta có chính khoảng đất, thue hơn mười người làm. Có một năm đại hạn, không thu được hạt thóc nào, Thẩm Vạn Tam liền lệnh cho người đi làm trong nhà đi cắt cỏ, không ngờ, trời khô hạn như thế, đám người làm ngày nào cũng cắt được một bó cỏ to xanh tươi mơ mởn. Thẩm Vạn Tam cảm thấy kỳ lạ, liền lén theo sau những người cắt cỏ, xem họ tới đâu cắt cỏ. Kết quả phát hiện hóa ra họ cắt cỏ trên núi Ngưu Đản ở phía Bắc thôn.
Thẩm Vạn Tam vô cùng tinh nhanh, ông nhanh chống nhớ ra ngọn núi này gới núi Phượng Hoàng ở phía Tây Nam, là nơi Phượng hoàng hạ cánh có nhiều vật báu. Trong này chắc chắn có điều kỳ quặc. Vậy là, ngày hôm sau, ông liền sai người đào chây báu ở đây, nhưng đào cả ngày cuối cùng chỉ đào được chiếc chậu sắt. Thẩm Vạn Tam cực kỳ thất vọng, lòng nghĩ chậu sắt có tác dụng gì chứ? Bèn tiện tay vứt nó sang một bên, sau đó, một người làm nhặt nó về để đựng thức ăn cho lợn. Không ngờ, lợn ăn xong lớn nhanh như thổi, người làm lập tức kể chuyện này cho Thẩm Vạn Tam.
Thẩm Vạn Tam vội vàng tới xem. Sau khi giết lợn, ông liền dùng cái chậu này để rửa tay rửa mặt. Một lần, khi vợ của Thẩm Vạn Tam rửa mặt, không cẩn thận đã đánh rơi một chiếc nhẫn vào trong chậu, kết quả càng mò càng thấy nhiều, loáng cái đã mò được một nắm nhẫn. Thẩm Vạn Tam tiện tay vứt mấy đồng tiền đồng trong tay vào trong đó, chớp mắt, chậu lại biến ra một chậu lớn đầy tiền đồng. Từ đây, tin Thẩm Vạn Tam có “bồn tụ bảo” đã được truyền đi.
Sau khi Thẩm Vạn Tam có được vật báu, nhờ tài lực mà chậu báu mang lại, ông đã xây 72 cái giếng cho dân chúng trong thôn, lát đường dựng cầu tạo phúc cho dân chúng, nên được dân chúng ca ngợi. Có một năm, Trường Giang vỡ đê, triều đình có người suy đoán nhất định ở một vùng nào đó xuất hiện bảo bối, bởi vì truyền thuyết cứ xuất hiện bảo bối là Trường Giang sẽ vỡ đê. Hoàng đế vì muốn giành được bảo bối đã lập cáo thị “ai có thể chặn được Trường Giang khỏi vỡ đê, sẽ được ban cao quan bổng lộc hậu hĩnh”. Thẩm Vạn Tam biết tin liền xé cáo thị, mang bồn tụ bảo đến yết kiến hoàng đế, đồng thời bàn bạc điều kiện. Kết quả, sau khi Thẩm Vạn Tam dùng bồn tụ bảo chặn được vỡ đê nhưng không đạt được cao quan bổng lộc. Không chỉ như thế, Thẩm Vạn Tam còn bị giam giữ ở triều định, bị vu cáo có được báu vật không dâng lên vua, tội đáng chết vạn lần, chu di cửu tộc.
Sau khi Thẩm gia bị diệt môn, về sau mọi người tới sống ở đây để không quên ơn nghĩa của Thẩm Vạn Tam đã đổi tên thôn này là thôn Thẩm Tinh. Còn “bồn tụ bảo” sau khi chặn đứng Trường Giang vỡ đê, cuối cùng biến thành đất.
Tháp văn xương xuất hiện như thế nào?
Tháp Văn Xương còn gọi là tháp Văn Phong, hoặc tháp Văn Bút. Tác dụng của Văn Xương, như tên gọi của nó chính là thịnh vượng tri thức. Văn Xương vốn là tên chòm sao, cũng chính là “Văn Khúc tinh” mà chúng ta quen thuộc. Ở thời cổ đại, nó được coi là chòm sao chủ trì văn vận công danh, về sau đã trở thành Văn Xương đế quân được tôn sùng trong dân gian hoặc Đạo giáo, là vị thần cai quản công danh, lợi lộc của người đời. Theo cổ nhân, có thể đạt được công danh, có nghĩa là tài lộc vào không ngừng, do đó tháp Vân xương đã trở thành vật may mắn để mọi người khẩn cầu đạt được công danh lợi lộc, cũng chính là pháp khí thường dùng nhất trong dân gian, bày trong nhà sẽ có lợi cho học hành, công danh và sự nghiệp.
Cổ nhân cực kỳ coi trọng Văn Xương, mọi người chỉ cần để ý một chút sẽ nhận ra, ở Trung Quốc có rất nhiều thành phố đều nhìn thấy tháp Văn Xương, thông thường tháp Văn Xương gồm 7 tầng hoặc 9 tầng, lớn nhất cũng chỉ có mười ba tầng, số tầng càng nhiều, độ cao càng lớn, uy lực thúc văn thúc quý cũng lớn theo. Hơn nữa, thành phố có tháp Văn Xương thường lưu lại dấu chân của văn nhân mạc khách. Cho nên, dân gian cho rằng, đặt tháp Văn Xương ở vị trí Văn Xương trong nhà trong một thời gian dài sẽ có thể làm cho đầu óc người trong nhà phát triển, tư duy nhạy bén. Đặc biệt rất có lợi cho người làm chức quan văn.
Gương bát quái mang đến điềm may ra sao?
Gương bát quái là gương được cổ nhân thiết kế theo Tiên thiên Bát quái huyền cơ tướng số, có tác dụng chiêu tài nap phúc và hóa sát đuổi tà. Nó không chỉ làm cho con người dưỡng khí an thần, còn có thể hóa giải sát khí như độc sát, Ngũ hoàng đại sát, đại tiêm giác sát.
Gương Bát quái nhìn từ hình dạng có thể phân làm 2 loại là gương phẳng và gương lồi. Cổ nhân cho rằng gương phẳng Bát quái chỉ được đặt ở ngoài nhà, kị đặt ở trong nhà chiếu vào người, tác dụng của nó là che chắn hình dạng kiến trúc không tốt ở bên ngoài nhà như: Tòa nhà cao tầng hoặc góc tường hình mũi nhọn, bất luận hình sát gì cũng đều hóa giải. Khi treo gương Bát quái phẳng trong nhà phải chú ý, không được treo quá nhiều, chỉ treo một cái ở một phương vị là được, hơn nữa cả nhà không được vượt quá 3 cái.
Khác với gương phẳng, gương lồi Bát quát chủ yếu có tác dụng phản xạ, truyền thuyết dân gian cho rằng nếu phát hiện ngoài cửa sổ có dụng cụ hóa sát khác đối diện với ngôi nhà, đặt gương lồi Bát quái có thể phản xạ pháp khí của đối phương, đưa trở về trong nhà của đối phương, không làm tổn thương đến chủ nhân của ngôi nhà.
Gương Bát quái chủ yếu dùng trong các trường hợp sau: Cửa chính và cửa sổ trong nhà đối diện vói các góc cạnh, con đường, giếng trời, cột dây điện, dòng nước bẩn, máy biến áp, ống khói, kiến trúc cao tầng; cửa phòng trong nhà đối diện thẳng với nhà vệ sinh, nhà bếp. Cách làm của mọi người thường là treo gương Bát quái ở bên trên cửa để chuyển đổi trường khí, hóa giải sát khí, loại bỏ ảnh hưởng của địa thế bất lợi đối với bản thân; Treo ở trong phòng hoặc trên bàn, cho rằng như thế có thể điều tiết được từ trường và trường khí trong nhà, có lợi cho sức khỏe con người, tâm trạng yên ổn, loại bỏ ảnh hưởng của địa thế bất lợi đối với bản thâ; Treo ở trong phòng hoặc đặt trên bàn, cho rằng như thế có thể điều tiết được từ trường và trường khí trong nhà, có lợi cho sức khỏe con người, tâm trạng yêu ổn, loại bỏ được bệnh tật mạn tính.
Bình báu 5 vị thần tài bày như thế nào mới có thể chiêu tài?
5 vị thần tài là thần tài được các đại giáo phái trong Tạng truyền Phật giáo tôn thờ. Bình báu đón mời 5 vị thần tài là một vật hộ thần chuyên để cứu tài. Quá trình chế tác bình báu vô cùng phức tạp, công nghệ chế tác cũng khá đặc biết. Nó phải được Phật chọn giờ may mắn và chuẩn bị sẵn các vật phẩn cần đựng trong bình báu mới có thể đựng tàng. Hơn nữa, phải tiến hành đựng tàng theo nghi chấp của Bảo bình kinh trong quy tắc lễ pháp Phật giáo, được các vị Lạt Ma niệm kinh khai quang mà thành. Do đó, nó có lực gia trì rất mạnh.
Bình báu 5 vị thần tài có thể đặt ở 5 vị trí là Đông, Tây, Nam, Bắc và chính giữa trong phòng, hơn nữa có thể phối hợp với Ngũ hành. Phía Đông thuộc Môc, chủ màu xanh lục; Phía Tây thuộc Kim, chủ màu trắng; Phía Nam thuộc Hỏa, chủ màu đỏ; Phía Bắc thuộc Thủy, chủ màu đen; Chính giữa thuộc Thổ, chủ màu vàng, Phương vị đối ứng để bày bình báu 5 vị thần tài là: Lục thần tài thuộc Mộc, đặt ở phía Đông; Bạch thần tài thuộc Kim, đặt ở phía Tây; Hỏa thần tài thuộc Hỏa, đặt ở phía Nam; Hoàng thần tài thuộc Thổ, đặt ở chính giữa.
Dân gian cho rằng, cúng thờ bình báu 5 vị thần tài theo phương vị tương ứng chỉ riêng về bố cục đã hình thành một trường khí chiêu tài, cực kỳ có hiệu quả vượng tài.
Cờ chiêu tài cát lợi là gì?
Phiên kỳ là tên gọi chung của các loại cờ quạt, thường do đầu cờ hình tam giác, thân cờ hình chữ nhật, tay cờ đặt ở hai bên thân cờ và chân cờ ở dưới thân cờ cấu thành. Thân cờ của cờ chiêu tài cát lợi là cung tên. Cung tên trong Phật giáo là pháp khí cầm tay của thần Bản tôn và hộ pháp. Nó có thể cầu chiêu tài vận, tu trường thọ pháp, thu được may mắn.
Thân mũi tên của cờ chiêu tài làm bằng đồng, bên ngoài mạ vàng, đầu mũi tên sử dụng bạc nguyên chất rèn thủ công, phía dưới cacsnh mũi tên trong vòng sắt, chỉnh thể đại diện cho vàng bạc đồng sắt. Trên cán mũi tên có khảm 7 vòng đồng, cánh mũi tên treo gương đồng, đá tùng nhĩ, song ngư cát tường, lông dê, mã não, súc sắc xà cừ.
Gương đồng để xua đuổi tất cả tà ma trở ngại; Đá tùng nhĩ đại diện cho phụ nữ; Song ngư cát tường tượng trưng may mắn dư dả; Loog dê đại diện cho của cải; Mã não tượng trưng vật thất bảo; Xà cừ là vật may mắn; Súc sắc đại diện cho trẻ con. Điểm khác biệt với cờ chiêu tài khác là, trong cờ chiêu tài Liên sư còn chứa ba sợi tóc Liên sư của Phật Xá Lợi và Phục Tạng, có tác dụng cầu chiêu tài vận, trấn trạch, xua đuổi tà ma trở ngại và húy duyên, tăng thêm trường thọ và may mắn. Nghe nói, ở Tây Tạng, cờ chiêu tài là bảo vật mà gia đình nào cũng phải có, họ sẽ truyền lại chúng từ đời này qua đời khác.
Những con thú may mắn nào có thể mang lại của cải?
Ở Trung Quốc, những con thú may mắn bề ngoài hung mãnh thường được xem là động vật để chiêu tài nạp phú. Dân gian cho rằng con thú may mắn có thể chiêu tài nạp phú chủ yếu có rồng chiêu tài tìm cát tránh hung, sinh vượng khí, kỳ lân chiêu tài hóa sát, thánh vật long quy vượng tài vượng vận, thánh thú tỳ hưu cai quản tìa khố, cóc vàng hút tài vượng tài, sư tử đá trần trạch nạp cát, lợn chiêu tài, mèo chiêu tài, sư tử đá trấn trạch nạp cát, lợn chiêu tài, mèo chiêu tài, thỏ phong thủy và voi đồng vừa có thể chiêu tài lại vừa hóa sát.
Rồng chiêu tài đặt như thế nào có thể vượng tài vận?
Long thần và phượng thần, kỳ lân, quy thần thời xưa được gọi là tứ linh thú. Ở Trung Quốc, rồng có sự biến hóa thần tính độc đáo, vì thế đứng đầu trong tứ linh thú. Dân gian cho rằng, rồng có thể sinh vượng khí, chế sát. Do đó, mọi người thường thích bày con vật may mắn như rồng trong nhà để chiêu nạp tài phú. Do vậy, vật trang trí rồng trong nhà phù hợp với cách bài trí ra sao?
– Rồng là động vật thích nước, nên gặp nước sẽ đặc biệt dũng mãnh, bở thế, đặt rồng ở nơi gần nước trong nhà như bên cạnh bể cá, máy uống nước …
– Khi bày vật trang trí rồng, đầu rồng nên quay về phía biển hoặc sông. Nếu biển hoặc sông cách nhà quá xa, có thể đặt một đôi rồng đá màu đen hoặc màu xám ở cửa sổ hoặc trên lan can lộ thiên, để đầu rồng hướng về phía biển hoặc sông, sẽ có tác dụng sinh vượng như song long ra biển. Nếu trước nhà là vũng nước bẩn thì không nên bày vật trang trí rồng, nếu không sẽ khiển cả nhà sinh bệnh. Nếu gần đó không có nước, hãy đặt rồng ở phương Bắc. Bởi vì phương Bắc thuộc thủy, phù hợp với rồng thích nước.
– Vật trang trí rồng không nên đặt đối diện với phòng ngủ, đặc biệt phải tránh giường ngủ và phòng ngủ của trẻ con. Bởi vì rồng trang nghiêm uy mãnh, không hợp đặt ở những nơi này.
– Màu sắc của vật trang trí rồng nếu có thể phối hợp với nhu cầu Ngũ hành của cá nhân là tốt nhất, như: Ngũ hành thiếu Thủy, hãy đặt rồng đá màu đen hoặc xăm; Thiếu Mộc, hãy bày rồng màu xanh hoặc rồng ngọc bích; Thiếu Kim, hãy đặt rồng kim loại; Thiếu Hỏa, có thể bày rồng màu đỏ hoặc rồng đá thọ Sơn; Thiếu Thổ, hãy đặt rồng màu vàng hoặc rồng đá.
– Số lượng vật trang trí rồng bày trong nhà nên là 1 con, 2 con hoặc 9 con. Tuy nhiên cần chú ý, nếu trong nhà có tranh 9 con rồng, vậy thì ở chính giữa nên có một con rồng làm nhân vật chính, nếu không sẽ xuất hiện cục diện hỗn loạn quần long không chủ, như thế sẽ dễ gây thị phi, làm cho nhà cửa không yên ổn.
Kỳ Lân đặt thế nào mới chiêu tài?
Kỳ Lân là một loại thú hiền trong truyền thuyết cổ đại, phần đầu của nó giống rồng, dài và có 2 sừng, thân giống thân hươu, mọc đầy kì giáp, lông đuôi như râu cuộn, thần thai sinh động, được gọi là vua thánh thú. Tương truyên kỳ Lân thích giúp người, đặc biệt thích giúp đỡ người tốt, luôn quan tâm và bảo vệ những người hiểu đạo tích thiện. Vì vậy dân gian cho rằng sẽ có tác dụng chiêu tài thêm đinh hóa sát.
Kỳ Lân có thể mang đế rất nhiều may mắn cho con người, vậy đặt kỳ lân thế nào, có kiêng kị gì?
– Kỳ Lân nên đặt ở cửa chính, đầu hướng ra ngoài, tư thế mạnh mẽ, vừa chặn sát, vừa vượng nhà, chủ tài vận.
– Giống như tháp Văn Xương, Kỳ Lân cũng phù hợp đặt ở vị trí Văn Xương trong nhà hoặc phòng sách, thông thường, đặt một cặp kỳ lân trên bàn làm viêc, để đầu nó quay ra ngoài, đuôi hướng về phía mình, có thể cường vượng tài vận.
– Kỳ Lân ở phương Dịch mã (cách tra: lấy niên can hoặc nhật chi làm chủ, xem trong 4 cột Địa chi nào là Mã tinh), là cách thúc đẩy thăng quan tiến chức mạnh nhất.
– Kỳ Lân đặt ở phòng ngủ, là vật may mắn cầu được quý tử.
– Theo cách bài trí ở thời xưa, Kỳ Lân đặt ở phòng khách, ở phương vị Bạch hổ trong nhà (đứng ở chính giữa nhà, đối diện với cửa nhà, phía sau là huyền Vũ, phía trước là hướng, là Chu tước, bên trái là Thanh long, bên phải là Bạch hổ) đặt một cặp Kỳ Lân, có thể hóa giải tính hung của phương Bạch hổ, bảo vệ người trong nhà bình an.
Long Quy chiêu tài rốt cuộc là thứ gì?
Tương truyền, khi Đại Oa trị thủy, một số động vật thần kì lần lượt hạ phàm giúp Đại Oa một tay, hóa ưu giải nạn cho dân chúng, trong đó cống hiến lớn nhất chính là “long quy”. Long quy là con trưởng trong 9 đứa con của rồng. Nó vô cùng mạnh mẽ, đặc biệt có thể chờ vật nặng và dời non lấn bể, giúp đỡ Đại Oa gánh những ngọn núi chặn dòng chảy của sông.
Lại nghe nói, lưng rồng của “long quy” ẩn giấu bí mật quan trọng, bởi vì nó cõng “Hà đồ, Lạc thư” chỉ ra số mệnh của trời đất. Vòng ngoài trên lưng rồng tức vòng đầu tiên có 24 vảy, tượng trưng 24 khí tiết; vòng thứ hai có 10 vây, tượng trưng 10 thiên can; một hàng ở giữa có 5 vây, tượng trưng Ngũ hành; bụng có 12 vảy tượng trưng 12 Địa chi. Tất cả những điều tượng trưng này đã cấu thành một bộ Kinh dịch, phản ánh tinh túy của văn hóa cổ Trung Quốc/
Long quy sở dĩ có tác dụng chiêu tài kháng sát, là vì lưng của “long quy” vô cùng cứng chắc, vừa có thể bảo vệ khối thịt trong người, vừa ngăn chặn được sát khí bên ngoài. Hơn nữa, long quy cũng vì tính cách không nôn nóng vội vàng, nhịn nhục gánh nặng nên được mọi người xem thần vật may mắn ban phúc.
Long quy đã có nhiều điểm kỳ diệu như thế, vậy thì nên đặt long quy ở trong nhà như thế nào?
Mọi người cho rằng, nếu muốn dùng “long quy” để tránh tà hóa sát, gặp hung hóa cát. Vậy dùng vật trang trí long quy điêu khắc bằng đá ánh đen là tốt. Bởi vì màu đen có thể thu hút sát khí, vô cùng có hiệu quả với việc khắc chế những khí không tốt từ bên ngoài tới.
Nếu muốn coi “long quy” là vật may mắn cầu phúc, cầu nguyện, vậy chọn dùng các loại đá quý thủy tinh như: Thủy tinh trắng, thủy tinh tím, bột tinh, ngọc vàng, pha lê.
Còn về phương vị đặt “long quy”, nhớ phải để phần đầu đối diện với mình hoặc hướng vào trong nhà, như thế mới có tác dụng vượng tài.
Hung thú Tỳ Hưu sao có thể chiêu tài?
ở Tỳ hưu là con thú may mắn trong truyền thuyết, là con thứ chín trong 9 đứa con của rồng. Nó có thể đạp mây cưỡi gió, hiệu lệnh lôi đình, giáng mưa ban nắng phương Nam, một số người gọi nó là “quái thú” hoặc “tứ bất tượng”. Đây là vì hình dáng của nó rất có cá tính: Đầu rồng, thân ngựa, chân có vảy, lông màu trắng, trong như sư tử mà còn biết bay.
Tỳ hưu có phân đực và cái, giống đực gọi là “tỳ”, giống cái gọi là “hưu”. Tỳ hưu còn gọi là thiên lộc, tránh tà. 2 cái tên này từ đâu mà có? Tương truyền, vào thời xưa những con thú may mắn này có phân 1 sừng và 2 sừng, 1 sừng gọi là “thiên lộc”, 2 sừng gọi là “tránh tà”. Cuốn Hán thư – Tây vực truyện ghi lại: “Nước Alexandria có đào bạt, sư tử, tê giác”. Mạnh Khang chú thích:”Đào hạt là một loại phù bạt, giống con hươu đuôi dài. Nếu 1 sừng gọi là thiên lộc, 2 sừng gọi là tránh tà”.
Tỳ hưu có uy lực tránh tà chặn sát, trấn khi xấu. Vì thế thời xưa cũng dùng Tỳ hưu để chỉ chiến sĩ dũng mãnh. Trong kinh dịch Mất Nhai Đình – kế không thành – chém Mã Tốc Gia Cát Lượng từng có một câu hát “các vị kì chủ thống tỳ hưu”, “tỳ hưu” ý chỉ quân mạnh.
Nghe nói thức ăn chính của tỳ hưu là vàng bạch châu báu, vì thế toàn thân toát lên bảo khí, nhìn cực kỳ có dáng vẻ so với các thú may mắn khác như cóc ba chân, vì thế rất được Ngọc Hoàng đại đế và Long vương sủng ái. Tuy nhiên, ăn nhiều đồ ngon cũng sẽ đau bụng đi ngoài. Một hôm, tỳ hưu không chịu được khó chịu bèn đi đại tiện. Kết quả, chọc giận Ngọc Hoàng đại đế, giơ tay đánh một cái vào mông tỳ hưu. Bởi vì ra tay quá mạnh, làm tịt cả lỗ đít. Từ đó, vàng bạc châu báu, chỉ có vào mà không ra được.
Sau khi điển cố này được truyền đi, tỳ hưu liền được coi là con thú may mắn chiêu tài tiến bảo. Từ đó về sau, thói quen của mọi người đen chế phẩm ngọc tỳ hưu cũng ra đời từ đây.
Cóc ba chân không dễ tìm
Cóc ba chân được gọi là “thiềm”, nghe nói trên cung trăng có con cóc ba chân. Vì thế người đời sau gọi cung trăng là “thiềm cung”. Từ xưa đến nay mọi người thường dùng câu “hái quế thiêm cung” để ví với thi đậu tiến sĩ. Mọi người luôn xem cóc là con vật tượng trưng phú quý. Truyền thuyết kể rằng, miệng nó có thể nhả ra tiền vàng, là con vật vượng tài.
Nghe nói, đệ tử của Lã Đông Tân là Lưu Hải có công lực thâm hậu, thích chu du bốn biển, giáng yêu trừ ma, hành hiệp trượng nghĩa, tạo phúc cho người đời. Một hôm, chàng vận hết pháp lực cuối cùng đã thu phục được con yêu tinh kim thiền lâu nay làm hại bách tính. Trong quá trình chu du với Lưu Hải, yêu tinh thiềm không cẩn thận bị thương, bị chặt đứt mất một chân, cho nên sau này chỉ còn lại ba chân.
Về sau, kim thiền bị bắt ngoan ngoãn thuần phục dưới trướng Lưu Hải. Mong lấy công chuộc tội, kim thiền sử dụng tài ba của mình, liên tục nuốt vào vàng bạc tài bảo, giúp Lưu Hải phát tán tiền tài, giúp đỡ người nghèo, tạo phúc cho dân chúng. Mọi người vì thế ca ngợi con kim thiền ba chân này là cóc chiêu tài. Đây chính là truyền thuyết “Lưu Hải trêu kim thiềm, từng bước câu tiền vàng” được lưu truyền trong dân gian sau này.
Tạo hình của kim thiền rất nhiều, thường là cóc ba chân ngồi trên nguyên bảo vàng, người nó béo tròn, lưng cõng Bắc đẩu thất tinh và xâu tiền. Miệng ngậm hai xâu tiền đồng, đầu đội thái cực lưỡng nghi, toàn thân phú quý sung túc. Vì vậy, kim thiền cũng có ngụ ý đẹp “nhả châu báu phát tài, tiền bạc vào như nước”. Do đó, dân gian Trung Quốc có một câu tục ngữ “người được kim thiềm ắt đại phúc”.
Dân gian đa phần đặt kim thiềm ở trong nhà hoặc trong cửa hàng, cho rằng như thế có thể giúp chủ nhà hoặc chủ cửa hàng tài vận hanh thông, đại phú đại quý.
Sư tử đá trấn trạch nạp cát thế nào?
Ở cửa của nhiều cơ quan chính phủ, quán rượu, nhà máy, cửa hàng lớn, biệt thử hoặc nhà ở, chúng ta đều có thể nhiều con sư tử đá thành đôi thành cặp. Bởi vì người Trung quốc xưa nay đều coi sư tử là con vật may mắn, sư tử đá đặt ở cửa chính, có tác dụng tránh tà nạp cát. Ở một số cổng thôn, lập sư tử đá và “Thái Sơn thạch cảm đương” có tác dụng tương tự như nhau – trấn nhà tránh tà, cản trở những thứ không may mắn và bảo vệ bình an cho thôn.
Trong dân gian, sư tử đá ngoài trấn tà trừ sát ra, còn có thể tăng cường quan uy hoặc dương khí của chủ nhà. Nó có thể dùng ở những nơi tương xung với đường, mở cửa thấy cột đèn hoặc đối diện cửa sổ là cây đại thủ. Nếu trong nhà có người Ngũ hành thiếu thủy, đặt sư tử đồng sẽ tốt hơn, bởi vì Kim có thể sinh Thủy, sẽ vượng tài. Ngoài ra, đặt một cặp sư tử đá ở cửa sổ có thể hóa giải được xung khắc bất lợi ở cửa sổ, hơn nữa có ý sinh quyền. Một số nghành nghề đặc biệt như luật sư, diễn viên phải kiếm sống bằng cái mồn, có thể đặt một cặp sư tử đá trong văn phòng, giúp cho sinh tài.
Tuy nhiên, việc bài trí sư tử đá cũng không thể tùy tiện mà làm, dân gian có những yêu cầu nhât định trong việc này.
– Bởi vì sư tử là từ phương Tây truyền vào Trung Quốc. Phía Tây Bắc là phương vị quen thuộc của sư tử, bởi thế sư tử nên đặt ở phương vị này. Hơn nữa sư tử thuộc quẻ Càn, ở phía Tây Bắc, Ngũ hành thuộc kim nên phải đặt sư tử (đặc biệt là sư tử đồng hoặc sư tử vàng) ở phương vị này mới có hiệu quả vượng tài.
– Khi bày sư tử tốt nhất chọn một cặp, một đực, một cái, phối hợp thành đôi. Khi bày phải chú ý, một cặp sư tử thông thường là nhìn thẳng vào nhau. Nếu có một con bị vỡ nát hoặc hư hại thì phải lập tức đổi một cặp sư tử mới, cấm giữ một con còn lại ở nguyên vị trí.
– Đầu sư tử nhất định phải đặt mặt hướng ra ngoài phòng, do mặt quay ra bên ngoài mới có thể ngăn cản tà ma và sát khí bên ngoài xâm nhập. Nếu đầu sư tử quay vào trong phòng, không những không thể trị tà, còn có thể làm bản thân mình bị hại.
Thỏ phong thủy có thể chiêu tài
Dân gian cho rằng, thỏ là linh thú tương đối may mắn. Mọi người có thể mượn sư linh động của nó để hóa giải một số khí xấu. Cho nên dùng thỏ phong thủy để hóa sát chế hung là vô cùng hiệu quả.
Trước khi bày thỏ phong thủy, chúng ta phải tìm hiểu một chút về chất liệu và màu sát của thỏ phong thủy.
Khi lựa chọn thỏ phong thủy, tốt nhất dùng gỗ, tiếp đến có thể là gốm sứ, giả dụ là vàng hoặc ngọc có thể sẽ làm giảm sự linh động hóa khí hung thành may mắn. Còn về màu sắc, màu trắng là tốt nhất, đương nhiên, nếu kèm theo chút hồng càng có lợi. Nhưng trong nhà nếu có người tuổi Dậu không nên bày thỏ.
Dân gian cho rằng thỏ phong thủy phù hợp nhất khi đặt ở phía Đông, hoặc phía Đông Nam, nghiêm cấm đặt nó ở phía Tây. Nếu trong nhà không có không gian phương vị phù hợp để bày có thể đặt ó ở bên phía tay trái hướng ra của chính là được. Phương vị này có ích lợi tương đương trong cải thiện quan hệ giữa con người.
Ngoài ra, thỏ phong thủy nghe nói có công hiệu vượng vận Đào hoa. Đặt thỏ phong thủy ở phía chính Đông của phòng ngủm hai bên mỗi bên một con. Trong một trăm ngày sẽ có thể thôi thúc tình yêu mong muốn trong lòng. Điều cần chú ý là, thỏ phong thủy tuyệt đối hông được đặt ở phía Tây. Nếu không sẽ gây ra những rắc rối không đáng có.
Tại sao có người dùng voi đồng để chiêu tài?
Vì thủy là tài voi giỏi hút nước. Do đó, trong nhà đặt một con voi đồng có thể chiêu nạp tất cả đại tài, tiểu tài. Hơn nữa, voi trong tiếng Hàn đọc tương tự chữ “may mắn” nên voi đồng đã trở thành tượng trưng may mắn. “Voi” có thể mang đến điềm may cho nhân gian, tượng trưng thiên hạ thái bình, con người vốn mong muốn hòa bình, tốt đẹp và hạnh phúc nên bắt đầu dùng voi đồng để chiêu tài.
Voi đồng mặc dù to lớn vạm vỡ, nhưng tính cách lại ôn hòa, nhẹ nhành, nó vừa có thể hút nước, vừa vượng khí, báo hiệu điềm lành. Đặt nó ở trong nhà có thể tăng cường sức mạnh của phương tọa. Chúng ta đều biết, thông thường các tòa nhà thường thích sau dựa vào núi, phía trước có nước xanh bao quanh. Voi đồng có hình dáng đồ sộ như núi, đặt ở phòng khách trong nhà, văn phòng hoặc phòng sách, vừa hay phát huy được tác dụng tăng cường sức mạnh của chỗ ngồi. Mặt khác, vui còn là động vật quần cư có tổ chức và kỉ luật, bởi vậy, mọi người cho rằng người lãnh đạo đặt voi đồng trong phòng có thể ổn định quan hệ xã hội, nâng cao địa vị lãnh đạo, tạo ra môi trường hài hòa ổn định, hút tài khí bốn phương tám hướng về phía mình.
Châu báu thiên tài phải chú trọng những gì?
Dân gian cho rằng châu báu chiêu tài chủ yếu gồm thủy tinh lục u linh, ấn hồng bích, thủy tinh vàng, đá kim sa, thủy tinh tím, thủy tinh trắng, trà tinh, tinh thể ti tan, tủy hồng ngọc, tử đàn, mã não đỏ …
Trong đố thủy tinh lục u linh có thể mang đến may mắn, ấn hồng bích tự do phát huy được năng lượng của cái trong cơ thể, thủy tinh vàng nhanh chóng thúc vượng thiên tài, đá kim sa có thể mang tới của cải và cơ hội may mắn, thủy tinh tím thiên nhiên giúp người “vì tôn quý nên được tài”, thủy tinh trắng thiên nhiên có năng lượng mạnh mẽ tránh tà chặn sát, trà tinh thiên nhiên giúp an thần, bảo vệ cả nhà bình an, người đeo tinh thể titan phú quý may mắn, chính thiên tài vận đều tốt, tủy hồng ngọc có sức mạnh chiêu tài hộ thân thần kỳ, tử đàn vừa tránh được tà, lại trị bệnh, là châu báu quý hiếm, còn mã não đỏ lại có công hiệu thúc đẩy giàu sang, hạnh phúc và trường thọ.
Truyền thuyết thủy tinh có thể mang lại phú quý.
Thủy tinh tại sao có thể đem đến phú quý? Điều này phải bắt đầu từ một truyền thuyết cổ xưa.
Rất nhiều năm trước, dưới chân núi Ngưu Sơn, Đông Hải có một ông lão trồng dưa hấu. Một năm hạn hán lớn, trên núi Ngưu Sơn đâu đâu cũng đều nứt nẻ, ông lão để bảo vệ cho ruộng dưa hấu mình vất cả chăm sóc, bắt đầu ra sức gánh nước tưới dưa. Cuối cùng giữ lại được một quả dưa hấu. Quả dưa này thật thật kỳ, càng lớn càng to, cuối cùng to như cái mâm.
Quả dưa hấu này đã thu hút sự chú ý của một vị tài chủ. Ông ta tìm đến ông lão trồng dưa nói muốn mua quả dưa này. Trong lúc ông lão trồng dưa đang suy nghĩ, bổng vang ra tiếng khẩn cầu của con trâu: “Ông lão ơi! Ta là thần núi của Ngao Sơn, mau cứu ta”. Ông lão vô cùng kinh ngạc, sau đó bừng tỉnh, hóa ra có một con trâu thần trốn trong quả dưa này, chả trách quả dưa to như thế! Trâu thần vẫn đang khẩn cầu, ông lão hoảng hốt hỏi: “Sao ngươi lại ở trong quả dưa?”.
Trâu thần đáp: “Trời nóng quá, ta khát nước quá nên vào trong này uống nước dưa, cuối cùng không ra được”.
“Thế ta cứu ngươi thế nào?”. Ông lão không biết làm thế nào.
Trâu thần trả lời: “Ông đừng đồng ý tài chủ trước, nhất định đừng bán quả dưa này cho ông ta. Nếu không ông ta sẽ tiến cống quả dưa này vào triều đình. Ngao Sơn sẽ không còn vật báu nữa! Ông mau bổ quả dưa ra, thả ta đi”.
Đang nói thì tài chủ đã bắt đầu gọi gia đinh tới cướp dưa. Ông lão mưu trí lập tức vung rìu bổ quả dưa, chỉ nghe thấy tiếng “ầm ầm”, một tia chớp sáng lóe lên bầu trời, nhìn lại thì thấy một con trâu thần sáng lấp lấp chui ra từ đó.
Trâu thần đang định chạy trốn, nhưng đã bị tài chủ sai người bao vây. Trâu thần chạy bên này phá bên kia, cũng không thể nào xông ra khỏi vòng vây. Ông lão nóng ruột, ra sức dùng lưng rìu đập vào mông con trâu luôn miệng hét:”Mau chạy đi!. Chỉ nghe thấy một tiếng “ôi”, trâu thần hùng hổ lao về phía tài chủ, đam lộn nhào cả người cả ngựa, rồi chạy thẳng về núi Ngao Sơn. Sau đó chỉ còn là mọt tia sáng vàng lấp lánh xuyên vào trong núi.
Ông lão dụi dụi mắt, bừng tỉnh nhìn kỹ ruộng dưa của mình, chỉ thấy trong đó đầy ánh sáng lấp lánh nhảy múa. Ông tìm một cái xẻng sắt đào, đào ra được một số viên đá long lanh. Hóa ra đây là “vật báu” mà trâu thần nói. Ông lão trồng dưa hiểu ra, lập tức vái lạy về phía trâu thần biến mất. Sau đó, nhặt những viên đá mà cả đời mình chưa bao giờ thấy lên, đây chính là đá thủy tinh.
Truyền thuyết là một sự thể hiện tự nhiên của lòng tin cổ xưa. Mọi người tin rằng cần cù lao động luôn mang lại may mắn. Đá thủy tinh chính là một phần báo đáp cho những người chăm chỉ lao động cày cấy.
Ấn hồng bích chiêu tài.
Ấn bích trong khoáng vật học thuộc đá điện khí liti và đá điện khí magie. Cổ nhân cho rằng nó có thể tránh tà, nên gọi là ấn bích. Ấn bích màu sắc tươi sáng, trong đó tốt nhất là ấn xanh lam, ấn hồng bích, ấn bích dưa hấu hai màu. Nó được gọi là “tiên tử cầu bòng lạc xuống nhân gian”. Trong đó, ấn hồng bích là ấn bích lấy những màu đỏ như đỏ sẫm, hồng, đỏ hồng, đỏ đào làm sắc điệu chính, cũng là loại có giá trị cao nhất trong ấn bích. Màu đỏ khả năng là liên quan tới lượng nhỏ mangan, liti và xedi.
Xuất xử của ấn bích phân bố vô cùng rộng, trong đó nơi sản sinh ra ấn bích ưu việt nhất là vùng Altay Tân Cương, Trung Quốc. Khu vực này không chỉ cho ra đời ấn bích lóng lánh trong suốt, màu sắc đa dạng, còn tập trung nhiều vật báu. Ấn bích không chỉ có màu sắc rối rắm, xinh đẹp tinh xảo, hơn nữa có công hiệu rộng rãi. Ấn bích gặp kích thích lạnh, nóng hoặc áp lực đều sẽ tự động xung điện, thích hợp nhất với sự điều chỉnh của hệ thống thần kinh, ứng dụng nó vào cơ thể người, có thể thông suốt kinh lạc trong cơ thể, làm huyết quản giãn nở, thúc đẩy tuần hoàn khí huyết toàn thân, thúc đẩy tế bào trao đổi chất. Ngoài ra, nó còn có thể phân giải vật chất có hại trong huyết quản, thanh trừ trở ngại trong huyết quản, thông suốt hiệu quả huyết quản.
Ấn hồng bích vừa có thể mang lại cho con người năng lượng tự do mạnh mẽ, vừa nâng cao năng lực xử lý công việc và lòng tự tin, hơn nữa giúp tỏa ra ma lực cá nhân và mạnh mẽ thêm khí chất lãnh đạo, vì vậy nói một cách tổng thể, đeo ấn hồng bích có thể đạt được nhân duyên tốt hơn. Có nhân duyên tốt, có nghĩa là có mối quan hệ rộng mở, như thế tiền bạc cũng sẽ chảy vào.
Ngoài ra, ấn hồng bích tặng cho người khác giới còn có tác dụng bày tỏ tình yêu, nó có thể hấp dẫn tình yêu, tình bạn, dấy lên lòng từ bi, đồng cảm của con người, giúp loại bỏ ngăn cách và mâu thuẫn giữa đôi bên, xua đuổi cô độc, kiêu ngạo, lạnh nhạt trong lòng người, để con người dễ dàng chung sống với nhau.
Đối với phụ nữ , ấn hồng bích vẫn là diệu phẩm tuyệt nhất để dưỡng da.
Truyền thuyết của thủy tinh vàng kì thạch thiên tài.
Con cháu Trung Hoa từ xưa đến nay đều tự hào vì tóc đen, da vàng. Màu vàng luôn được người Việt coi là màu của tôn quý, bởi vì màu vàng cũng có độ sáng cao nhât tất cả các màu, là tượng trưng quanh vinh, của cải, địa vị, huy hoàng và vinh dự. Do đó, thủy tinh vàng cũng được mọi người ca ngợi nhờ khí chất cao quý ôn hòa trong sáng màu vàng mà nó tỏa ra.
Trong Kinh dịch nói, thủy tinh vàng là quẻ đầu tiên của quẻ quẻ Càn. Càn là trời, tượng trưng sự nghiệp và của cải, nhìn từ phong thủy học, ánh sáng màu vàng mà thủy tinh vàng chiết xạ ra có thể chiêu quý nhân, vượng khí, có hiệu quả sinh của cải dồi dào tiền bạc không cạn. Vì thế công hiệu của thủy tinh vàng ở Trung Quốc đa phần là vượng tài, đặc biệt là vượng thiên tài.
Thực ra, ở Hy Lạp, liên quan đến thủy tinh vàng còn có một truyền thuyết thần thoại xưa như thế này, nghe nói ở vùng Colchis bên bờ Bắc Hải cách Hy Lạp rất xa, có lông dê châu báu quý hiếm, nhưng nó lại bị một con rồng hung dữ trong rừng thánh canh giữ. Anh hùng Jason để cứu thế giới, phải lấy được lông dê vàng mà con rồng ác canh giữ. Tuy nhiên rồng ác tham tiền tàn bạo, được chiếm thần Ares đã trao cho nó sức mạnh cực lớn, gần như không ai có thể lại gần nó. Jason không đánh lại được nó, đành cầu cứu thần hậu Hera. Hera liền ban một viên thủy tinh vàng trên núi Olympus cho Jason, ánh sáng vàng mà thủy tinh vàng phát ra rất chói mắt, chói đến nỗi đủ để làm bị thương hai mắt con rồng ác. Cứ như thế, Jason dựa vào viên thủy tinh vàng để di chuyển sự chú ý của con rồng ác. Sau đó thoải mái lấy được lông dê vàng đáng tiền nhất, cứu lấy thế giới.
Về sau, con trai của Jason là Plutos được thủy tinh vàng phù hộ, đã trở thành thần của cải, còn thủy tinh vàng trở thành đá thần của Thessaly. Câu chuyện truyền thuyết lưu truyền dân gian ngàn năm này muốn nói với mọi người – ai có được thủy tinh vàng, người đó sẽ nhận được lời chúc phúc của thần của cải Plutos, từ đó tiền bạc vào không ngừng. Cho nên, thủy tinh vàng đã trở thành viên đá của cải thúc vượng thiên tài.
Vì thủy tinh vàng chủ thiên tài, nên đối với “dân cổ phiếu” và “người mê xổ số”, nó là lợi khí không thể thiếu được. Với những người vượng thiên tài, có thể đặt thủy tinh vàng ở vài vị trí trong nhà, nếu bạn là một người “mê xổ số”, đeo một chuỗi vòng tay thủy tinh vàng là vô cùng phù hợp với bạn.
Tủy hồng ngọc chiêu tài
Tủy hồng ngọc bắt nguồn từ “huyêt nhục” trong tiếng La Tinh. Bởi vì màu sắc của viên đá này đỏ tươi như máu thịt. Nó có xuất xứ từ cao nguyên Thanh Tạng. Khi thiên thạch va đạp vào khu mỏ do chịu nhiệt độ và áp lực cao nên sinh ra nó, là đá chị em với đá hồng bảo, tương tự như mã não, nhưng có dạng bán trong suốt. Màu đỏ trong đó là do tạp chất vật oxy hóa sắt gây ra, độ cứng khá lớn, gõ nhẹ sẽ phát âm thanh du dương, lanh lảnh.
Ánh sáng đỏ màu đỏ thẫm trong tủy hồng ngọc đại diện cho cao quý vô thượng, rất được mọi người yêu thích. Vậy nên mọi người mài giũa nó thành châu ngọc, hình tròn lồi và các hình dạng khác trở thành một trong những vật cầm nắm tốt nhất cho Phật tu hành. Khoa học vật lý nghiên cứu đã phát hiện ra, kết cấu tổ hợp xếp theo thứ tự nguyên tử của túy hồng ngọc và tần suất chấn động có thể sẽ tăng cường từ trường của cơ thể và thúc đẩy tuần hoàn máu trong tim, hoạt hóa tổ chức tế bào, thúc đẩy sự trao đổi vật chất, có tác dụng quan trọng đối với việc chăm sóc cải thiện thể chất yếu ớt. Nghe nói, lợi ích của tủy hồng ngọc với cơ thể người cao hơn gấp mười lần so với các loại đá quý thông thường.
Trong Tạng truyền Phật giáo, tủy hồng học cùng với vàng, bạc, trân châu, san hô, hổ phách, xà cừ cùng được gọi là “thất bảo phương Tây”. Nó là kết tinh của trí tuệ tiền nhân, là tượng trưng quyền lực quý tộc. Tín đồ Mật tông cho rằng đeo tủy hồng ngọc lâu có thể nâng cao chức năng tính linh của cơ thể, gia trị có thể khiến người và đá thông linh, may mắn phù hộ, càng có sức mạnh to lớn và thần kỳ hơn.
Trong dân gian, những người mà Ngũ hành mệnh cách cơ thể thiếu hỏa đặc biệt thích đeo tủy hồng ngọc. Vì tủy hồng ngọc có Ngũ hành thuộc Hỏa, có thể bù đắp năng lượng thông tin sinh mạng cho cơ thể, đeo tủy hồng ngọc vào năm bản mệnh sẽ có tác dụng thần kì trong việc hóa giải sát khí.
Thủy tinh tím và thủy tinh trắng có những công dụng gì?
Thủy tinh tím được coi là “đá phong thủy”, “đá năng lượng”, năng lượng của nó cực cao, tương đương với những vùng giữa hai lông mày, có thể nâng cao trí nhớ, phát triển trí tuệ, có ích cho suy nghĩ, đối với người đi làm phải động não nhiều, thủy tinh tím là lợi khí đá quý thủy tinh không thể thiếu. Dân gian cho rằng thủy tinh tím có thể làm cho con người “vì quý mà được tài”, người đeo thườn xuyên có thể mượn nó thường gặp quý nhân, nâng cao trực giác và năng lực tiềm ý thức.
So với vẻ xinh đẹp cao quý của thủy tinh tím, thủy tinh trắng trong suốt không tì vết, có thể trợ khí, dưỡng thần, khẩn cần chính tài. Thủy tinh trắng là một trong bảy báu vật của Phật giáo, còn gọi là “Ma ni bảo châu”, tần suất chấn động của nó vô cùng cao, nâng cao tính linh. Người thường xuyên thấy mệt mỏi đeo thủy tinh trắng giúp tinh thần được thư thái và thoải mái, giúp giảm áp lực, cơ thể được khỏe mạnh, ngoài ra, thủy tinh trắng còn có làm sạch năng lượng âm tính xung quanh, để con người ở trong trạng thái sống tích cực.
Thủy tinh trắng có thể giúp đầu óc con người tỉnh táo, có lợi cho tăng cường trí nhớ và khả năng lý giải của con người, nhưng nên tránh đặt ở gần giường ngủ, nếu không sẽ có khuynh hướng mất ngủ. Do thủy tinh trắng sinh ra sự biến đổi liên tục và ổn định dưới ánh sáng, do đó đặt một số thủy tinh trắng nhỏ ở xung quanh hoặc trên các sản phẩm điện khí như máy tính, ti vi, lò vi sóng, có thể giảm bớt bức xạ mà những đồ điện khi này mang đến, bảo vệ cơ thể không bị nhiễu bởi quá nhiều sóng điện từ.
Nhân sĩ trong nghề cho rằng, tượng phật hoặc vạn vật chế thành từ thủy tinh trắng có tính cực mạnh mẽ và năng lực độ trì thần phật như luyện khí, tránh tà, trấn trạch, cũng phật, bói toán, có thể thanh trừ năng lượng âm tính một cách hiệu quả, vì thế mọi người cũng thường dùng thủy tinh trắng làm dây đeo ở ngực, dùng làm “phù hộ thân” và “phù bình an”.
Tinh thể titan chiêu tài là thứ gì?
Tinh thể titan thuộc một loại pha lê trong thủy tinh dạng gói bọc, nó là tinh thể bốn phía, tinh thể có dạng cột hoặc dạng kim bốn phía hoàn hảo, màu sắc đỏ sẫm đỏ nâu hoặc vàng khô. Đáy tinh chính của tinh thể titan là thủy tinh trắng hoặc trà tinh, qua chiếu xạ của ánh sáng mặt trời, tinh thể titan có thể phát ra ánh sáng chói mắt, nhờ thế rất được mọi người yêu thích. Bởi vì sản lượng của tinh thể titan cực ít, phẩm tướng lại tốt, nên có người hình dung nó là thủy tinh nằm ở đầu nhọn của kim tự tháp, gọi nó là nhất trong các loại thủy tinh cũng không hề quá chút nào.
Tinh thể titan có năng lượng mạnh mẽ, thường tượng trưng may mắn, phú quý, như thần phật phổ trì, nó chủ chính tài, thiên tài, nhân duyên, mạnh khỏe và có công hiệu tránh tà, phòng tiểu nhân. Tinh thể titan được một chiếc tinh thể titan tương đối hoàn hảo., không có mấy vạn tệ không mua nổi, vì vậy tinh thể titan thượng hả cũng luôn là đồ chi bảo mà người đời theo đuổi!
Đối với những người bạn thường xuyên phải quyết sách hoặc làm sự nghiệp, hãy chọn đeo tinh thể titan, mọi người cho rằng năng lượng mạnh mẽ của tinh thể titan có thể mang đến sức mạnh cho người đeo, giúp người đeo đưa ra quyết định chính xác và sáng suốt, dấy lên lòng can đảm, khí phách và cách thức của họ.
Độ mẫn cảm của tinh thể titan đối với của cải là vô cùng cao, do đó chúng ta thường có thể nhìn thấy một số doanh nhân đeo tinh thể titan, hy vọng thông qua nó để nâng cao vượng khí, chiêu quý nhân, gặp hung hóa cát.
Tuy nhiên điều cần chú ý là, không phải ai đeo tinh thể titan đều có hiệu quả “tích cực tuyệt đối”, vởi vì năng lượng của tinh thể titan tương đối mạnh, một số người sau khi đeo có thể sẽ xuất hiện các triệu chứng như đau đầu chóng mặt, buồn nôn, bởi vậy cách tốt nhất là diễn tiến tuần tự, đợi sau khi cơ thể chịu đựng được mới đeo thì sẽ tốt hơn.
Tại sao nói mã não đỏ có thể thúc đẩy sung túc, hạnh phúc và trường thọ?
Mã não đỏ là khoáng sản Sio2 thường gặp nhất, rất nhiều tính chất tương đồng với thạch anh, màu sắc của nó tương sáng, khi nhìn thấu vào nó sẽ có đường vân thiên nhiên rõ ràng. Mã não đỏ vào thời cổ đại được coi là ngọc đỏ, là một trong các loại đá quý có công hiệu chữa bệnh tốt nhất.
Mã não đỏ màu đỏ tươi có thể cải thiện nội phân tiết, tăng cường tuần hoàn máu, sau khi đeo nó, làn da sẽ trở nên trắng muốt nõn nã hơn. Mã não đỏ màu đỏ quýt có tác dụng với tràng vị và trực trang của con người, hoạt hóa nội tạng, phòng bí đại tiện, giúp thải độc, có tác dụng làm suy giảm với bệnh gan, giãn tĩnh mạch. Ngoài ra, đeo mã não đỏ trong thời gian dài còn có thể tiêu trừ tinh thần căng thẳng và áp lực, giúp cân bằng năng lượng, duy trì hòa hợp cơ thể và tâm linh.
Từ xưa đến nay, mã não được coi là “mắt thứ ba” trong đá quý, tượng trung tình yêu hữu hảo, cũng đại diện cho hy vọng. Vì thế mã não đỏ được cho là đá quý tăng cường tinh yêu, trung thành và dũng khí, từ đó có thể thức đẩy sung túc, hạnh phúc và trường thọ.
Tử đàn tại sao được xem là tượng trưng của cải và thân phận?
Tử đàn là một trong những loại gỗ quý giá nhất trên thế giới, được người đời tôn là “vua trong các loại gỗ”. Tử đàn tại sao lại quý báu như thế? Nguyên nhân nằm ở chỗ tài nguyên cực thiếu, chu kỳ sinh trưởng dài, một trăm năm mới dài thêm 3 cm, tám chín trăn năm, thậm chí nghìn năm mới trưởng thành, hơn nữa nó có đặc trưng hiếm thấy là thân rỗng, thân không thẳng, xù xì. Đường kính gỗ tử đàn lớn nhất khoảng 20cm, trên đời có rất ít cây hoàn chỉnh vượt quá 20cm mà không rỗng.
Xuất xử của tử đàn chủ yếu ở Ấn Độ, ở các vùng như Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông của Trung Quốc cũng có sản xuất, nhưng số lượng không nhiều. Tử đàn chủ yếu phân hai loại lá nhỏ và lá lớn, tử đàn lá lớn có vân khá thô ráp, màu tím nâu, vân ống mạch thô thẳng, sau khi đánh ráp có vân ống mạch mắt cọ rõ tệt, tử đàn lá nhỏ đa phần có màu đỏ quýt, lâu thì có màu tím sẫm, vân ống mạch cực mỏng.
Ở Ấn Độ, truyền thuyết liên quan đến tử đàn rất nhiều, vì thế tử đàn cũng được bao trùm một tầng hơi thở thần bí. Tử đàn có tình linh, nên thường được dùng chế tác thần phật. Ruột gỗ tử đàn vừa bổ có màu đỏ quýt, để lâu sẽ chuyển sang màu đỏ tím và đen tím, cũng có cái màu sừng tê giác. Tử đàn có kết cấu tinh mịn, vân đan xen, dạng sợi xoắn và sợi thẳng, mật độ trong gỗ đàn lớn nhất, chất gỗ chắc chắn, cho vào nước là chìm ngay. Mọi người dựa vào đây để tìm cách kiểm tra tử đàn thật giả. Phương pháp đầu tiên là cho nó vào nước, quan sát nó có chìm xuống hay không, nếu vào nước chìm luôn là tử đàn thật; phương pháp thứ hai là quan sát nó có vạch ra dấu vết trên tờ giấy trắng không, nếu có thể dùng viết chữ như bút máy là tử đàn thật.
Tiếng Phạn của tử đàn có nghĩa là bố thí, vì chất gỗ có mùi rất thơm, màu sắc rực rỡ và có thể tránh tà, còn chữa được bệnh, do đó còn gọi là thánh đàn. Gỗ đàn trên thế giới cũng chỉ có mấy loại đàn hương, tử đàn, hồng đàn, thẩm đàn, lục đàn, hắc đàn, hơn nữa số lượng cực kỳ có hạn, cho nên rất quý hiếm, mọi người thường coi là tượng trưng của cải và thân phận.
Leave a Reply