Quan niệm trọng tâm trong dưỡng sinh hằng ngày.
Dưỡng sinh, tức là một hoạt động y học thông qua tu dưỡng thân thể để đạt được mục đích kéo dài tuổi thọ. Tôn chỉ quan trọng của dưỡng sinh là cân bằng âm dương trong cơ thể. Âm dương trong cơ thể cân bàng, cơ thể con người mới khỏe mạnh, tinh lực dồi dao, tinh thần viên mãn; âm dương trong cơ thể mất cân bằng, cơ thể suy nhược, dễ mắc bệnh, dễ thoái hóa, rất khó trường thọ. Dưỡng sinh học cho rằng, đại đa số bệnh tật của con người đều bắt nguồn từ sự cân bằng của âm dương, từ đó dẫn đến thể hư. Vì thế, nếu muốn trường thọ, thì phải giữ âm dương trong cơ thể được cân bằng. Bất kể là thuốc bổ, ăn uống hay luyện tập yoga, thái cực quyền, đều là để cân bằng âm dương trong cơ thể. Nói đến âm dương cân bằng, nói đến dưỡng sinh, cần chú ý đến một khái niệm quan trọng, đó là sinh hoạt, ăn uống điều độ. Cân bằng, chính là không nhiều, không ít, không thiếu, không thừa, mỗi chi tiết trong sinh hoạt hằng ngày đều vừa phải, có chừng mực. Bất kể là âm dương cân bằng hay sinh hoạt điều độ, đều thể hiện tư tưởng thiên nhân hợp nhất của người xưa. Con người cũng như vạn vật tự nhiên, đều phải tuân thủ quy luật tự nhiên để tồn tại, làm việc khi mặt trời mọc và nghỉ ngơi khi mặt trời lặn. Dục vọng và tức giận là kẻ thù lớn nhất của dưỡng sinh. Trong quá trình dưỡng sinh phải hiểu được cách không chế dục vọng của bản thân, có thể tiết chế được việc ăn uống và quan hệ tình dục, còn phải hiểu cách điều khiển tính nóng nảy của mình, không được tức giận, không chỉ vì tức giận sẽ tổn hại đến gan, mà vì người dễ tức giận, thường không thể điều khiển được tâm tính của mình, không thể ngưng tụ tâm thần. Tâm thần không thể nào ngưng tụ dễ khiến tính khí bị tràn ra ngoài, con người sẽ trở nên trì trệ, không còn tinh thần, lâu dần sẽ khiến tinh thần không tốt, cũng ảnh hưởng tới sức khỏe của bản thân.
Dưỡng sinh phải được bắt đầu từ những chi tiết trong cuộc sống hằng ngày, ăn uống hợp lý, không kén ăn, không tham ăn, không giảm ăn, tuân thủ nguyên tắc ăn uống “sáng ăn ngon, trưa ăn no, tối ăn ít”. Được gọi là trưa ăn no, có nghĩa ăn no 8, 9 phần là tốt nhất. Rèn luyện thói quen sinh hoạt đặc biệt, đương nhiên, thói quen này phải phù hợp với quy luật vận chuyển chức năng của cơ thể, đúng như Hoàng đế nội kinh đã viết: “Trên biết thiên văn, dưới biết địa lý, ở giữa tường thiên sự, là có thể sống lâu”. Trong quá trình dưỡng sinh thuận ứng với tự nhiên, còn phải chú ý đến hình thần kiêm dưỡng, tức chú trọng điều dưỡng về mặt tinh thần, tâm lý, đúng như được gọi “hình thần kiêm dưỡng”, “thủ thần toàn hình”, “bảo hình toàn thần”. Cuối cùng còn phải chú ý nới lỏng động tĩnh, “trong động có tĩnh”, “làm việc điều độ, không được quá sức”.
Thế nào là bảo vệ âm dương thuận ứng bốn mùa?
Người xưa viết: “Âm dương bốn mùa, vạn vật cũng có đầu có cuối, sinh tử cũng có gốc rể. Trái với quy luật thì tạo ra họa hại, thuận theo quy luật thì không xảy ra trắc trở”. Từ đó có thể thấy, người xưa thuận ứng bốn mùa, bảo dưỡng âm dương được xem là nội dung quan trọng để dưỡng sinh được trường thọ. Lão Tử viết: “Nhân pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo pháp tự nhiên”. Đoạn này đã giải thích căn nguyên về âm dương trong cơ thể. Âm dương trong cơ thể bắt nguồn từ âm dương của đất trời. Từ âm khí của đất trời, âm khí của con người cũng nảy sinh, dương khí của đất trời đi lên, dương khí của con người cũng lên theo. Vì thết, quan niệm cơ bản của bảo dưỡng âm dương chính là thuận ứng tự nhiên, thuận ứng bốn mùa, dựa vào sự thay dổi của bốn mùa để điều chỉnh hoạt động hằng ngày. Thậm chí là ăn uống sinh hoạt một cách thích hợp, đạt được mục đích điều dưỡng cơ thể, cân bằng âm dương.
Thuận ứng bốn mùa, điều dưỡng âm dương là đạo dưỡng sinh bốn mùa mà chúng ta thường nói. Vạn vật tự nhiên tuân thủ trạng thái cuộc sống sinh vào mùa xuân, phát triển vào mùa hè, thu lại vào mùa thu, cất giấu vào mùa đông. Con người là một phần của giới tự nhiên, muốn được trường thọ, cũng nên thuân thủ quy luật này. Trong 3 tháng mùa xuân, vạn vật đổi mới, khi dương trỗi dậy, mùa này nên chú ý “ngủ sớm dậy sớm”, đi bộ trong sân; cắt tóc ngắn để có chí hướng, nên sinh mà kỵ sát, tặng mà không cướp đoạt, ban thưởng mà không trừng phạt, đây là ứng với khí xuan, là việc làm đầu tiên trong dưỡng sinh. Ngược lại sẽ tổn hại đến gan”. Trong 3 tháng hè, vạn vật tốt tươi, khí am dương giao nhau. Lúc này nên chú ý “ngủ sớm dậy sớm, không được chán ghét, để thần chí không tức giận, để hào hoa biến thành thanh tú, khí được tiết ra, yêu thương thể hiện bên ngoài”. Trong 3 tháng mùa thu, vạn vật thu lại. Lúc này, điều quan trọng khi trong dưỡng sinh là tu tàng âm tinh. Vì thế việc quan trọng khi dưỡng sinh vào mùa thu là “ngủ sớm dậy sớm, mọi thứ đều phục hồi. Để thần chí yeeun tĩnh. Thu lượm thần khí, để khí thu bình lặng. Thần chí không nằm bên ngoài, khí phổi sạch. Thuận ứng khí thu, là đạo của dưỡng thu. Trái lại sẽ tổn thương đến phổi”. Trong 3 tháng mùa đông, vạn vật ẩn tàng, âm thịnh dương suy, lúc này dưỡng sinh nên chú ý “ngủ sớm dậy muôn, phải chờ ánh nắng mặt trời. Để thần chí được ẩn tàng, nếu có tự ý, nếu có hữu đắc, tránh lạnh sẽ ấm, không thể nào tiết qua dai, khiến khí bị cướp đoạt”.
Điểm mấu chốt của dưỡng sinh bốn mùa chính là hành đạo dưỡng sinh theo quy luật tự nhiên. Chỉ cần thuận ứng tự nhiên, mới có thể trường thọ.
Tại sao nói “dưỡng sinh trước hết nên dưỡng tâm”?
Có người viết: “Dưỡng sinh trước tiên phải dưỡng tâm, tâm yên thì trường thọ”. “Dưỡng tâm” ở đây không phải là bảo dưỡng tim, mà là bảo dưỡng tinh thần, giữu cho tâm an và tinh thần thoải mái, sách Hoàng đế nội kinh cho rằng “dưỡng tâm” có thể “điềm hư vô”, giành được tâm cảnh bình an yên tĩnh, lạc quan vui vẻ, tập trung tinh thần. Đông y cho rằng, giữ cho tâm cảnh bình an là có thể giúp ngũ tạng thuần hậu, khí huyết điều hòa, âm bình dương mật, như vậy mới có thể mạnh khỏe, trường thọ. Vì thế, trong dưỡng sinh học của Đông y, tâm cảnh bình an là nền tảng của mạnh khỏe trường thọ.
Trang tử nói, người tu dưỡng “bình an, khiến u buồn không thể xảy ra, tà khí không thể xâm nhập”; Quân Tử nói “con người có thể an tĩnh, da căng, mắt tinh, tai thính, gân cốt chắc”; Tuân Tử cũng nói “có đức sẽ vui, vui vẻ có thể sống lâu”. Được gọi “đại đức ắt sẽ đại thọ” cũng vì đức có thể dưỡng tâm, dưỡng tâm để trường thọ. Đại y đời Đường – Tôn Tử Mạo nói: “Đức hạnh không tốt, dù có được uống kim đan, không thể nào kéo dài tuổi thọ”, “đạo đức đầy đủ, không cầu thiện mà có phúc, không cầu thọ mà có thể sống lâu, đây là tôn chỉ lớn trong đạo dưỡng sinh”. Người có đức dưỡng tâm sẽ trường thọ, người nhân từ cũng có thể trường thọ. Nếu một người nhân ái vô biên, quản đại bác ái, vậy thì tâm giới phòng khoáng, bình an, rất ít co ác cảm xúc xấu như u buồn, lo nghĩ, tức giận. Người có sự ấm ức, tâm cảnh bình an của một nội tâm như vậy sao không thể trường thọ được chứ? Vì thế mới có cách nói “Người nhân đức sẽ trường thọ”.
Kỳ thực, sống trên đời, con người rất khó tránh khỏi va chạm, muốn lúc nào cũng giữ được tâm thái bình an, yên tĩnh quả thật rất khó. Nhưng chúng ta có thể thông qua các phương thức như học tập, giải trí, nói chuyện để loại bỏ cảm xúc không tốt như buồn bực, phẫn nộ trong nội tâm, hoặc thông qua các hoạt động nghệ thuật như đọc sách, nghe nhạc, trồng hoa, đi câu để hun đúc tình cảm, nâng cao tu dưỡng, đạt được tam thái bình an tốt hơn để dưỡng tâm dưỡng thọ.
Người già phải chú ý đến những thói quen ăn uống nào?
Đông y có cách nói “thuốc bổ không bằng thực bổ”, dưỡng sinh ăn uống là một nội dung quan trọng trong dưỡng sinh của Đông y, cũng là một phương pháp quan trọng để giữ cơ thể khở mạnh, đạt được trường thọ. Dưỡng sinh chú trọng âm dương cân bằng, ăn uống đương nhiên cũng chú trọng kết hợp hài hòa, ăn uống điều độ, đúng giờ đúng lượng. Đặc biệt là người già, càng phải chú ý hơn đến vấn đề ăn uống. Chỉ cần ăn uống cân bằng, mới có thể bảo dưỡng được cơ thể khỏe mạnh, trường thọ.
Thông thường về ăn uống, người già phải chú ý mấy điểm dưới đây:
1. không được ăn quá nhiều thịt, đặc biệt là thịt mở. Trong các loại thịt có khá nhiều chất béo, bản thân chất béo không dễ tiêu hóa, chức năng cơ thể của người già đã bị suy thoái, vì thế ăn quá nhiều chất béo sẽ mang lại nhiều gánh nặng cho cơ quan tiêu hóa. Quan trọng hơn là chất béo dễ gây ra chứng cholestrol trong máu cao và chứng mỡ máu cao, bất lợi cho phòng và chữa các bệnh về tim mạch, đường máu.
2. Người già không được ăn quá nhiều đồ tinh như mì gạo, gạo tẻ, phải ăn nhiều đồ thô, vì trong đồ thô có rất nhiều chất xơ, có thể phòng vấn đề táo bón ở người già.
3. Chức năng hấp thụ tiêu hóa của tràng vị người già kém, không được ăn nhiều thức ăn cứng hoặc nấu chưa nhừ, như vậy dễ khiến tiêu hóa không tốt hoặc mắc các bệnh về đường tiêu hóa.
4. Người già không được ăn cơm quá nhanh, răng người già đã rụng, chức năng tràng vị cũng không tốt, nếu ăn quá nhanh, nhai không kỹ, sẽ tăng thêm gánh nặng tiêu hóa cho tràng vị. Còn dễ gây ra tai nạn ngoài ý muốn như đầu xương bị mắc trong hong.
5. Người già ăn cơm, tốt nhất là ăn no khoảng 8 phần, nếu ăn quá no, vừa tăng thêm gánh nặng hấp thụ, tiêu hóa của tràng vị, vừa dễ gây ra hoặc khiến bệnh đường máu, bệnh tim nặng hơn, xảy ra đột tử.
6. Nếu người già uống nhiều rượu trong thời gian dài, sẽ khiến cơ tim thay đổi, mất đi khả năng đàn hồi thông thường, tăng thêm gánh nặng cho tim. Đồng thời còn dễ xảy ra xơ cừng gan. Vì thế, người già có thể uống rượu, nhưng nhất định chỉ uống ít.
7. Nếu người già hấp thu quá nhiều muối natri, dễ dẫn đến huyết áp cao, trúng gió, bệnh tim và hư nhược thận, vì thế, người già không được ăn các thức ăn quá mặn.
8. Nếu người già ăn quá nhiều đồ ngọt, dễ dẫn đến chứng béo phì, bệnh tiểu đường, rụng tóc, bất lợi cho sức khỏe thể xác và tinh thần, vì thế, người già tốt nhất nên kiêng đồ ngọt.
9. Thời gian ăn 3 bữa của người già nên sớm không nên muộn, như vậy có thể tăng thêm thời gian tiêu hóa cho tràng vị, có lợi cho sức khỏe.
10. Người già nên ăn uống đồ ấm, không nên ăn đồ nóng, đồ ăn quá nóng dễ tổn hại đến khoang miệng, thực quản và dạ dày, ăn đồ nóng trong thời gian dài thậm chí có thể dẫn đến ung thư dạ dày, ung thư thự quản.
Mỗi người trường thọ đều có tuổi già khá dài, hơn nữa giai đoạn tuổi già là giai đoạn cơ thể dễ xảy ra bệnh tật nhất, vì thế, muốn được trường thọ, phải tăng cường phòng bệnh trong giai đoạn tuổi già. Thuốc bổ không bằng thực bổ, dưỡng sinh ăn uống chính là phương thức dưỡng thọ tốt nhất.
“Sinh hoạt điều độ” có ý nghĩa như thế nào đối với dưỡng sinh?
Sách Hoàng đế nội kinh có viết: “Người thượng cổ đã biết, ăn uống, sinh hoạt điều độ, không làm việc quá sức, vừa có sức khỏe vừa có tinh thần, sống lâu đến 100 tuổi mới qua đời, sinh hoạt vô độ, sống đến 50 tuổi là đã già yếu”. Từ đó có thể thấy, trong dưỡng sinh học, một trong những nguyên nhân giúp con người trường thọ chính là “sinh hoạt điều độ”. Được gọi là sinh hoạt điều độ, chủ yếu là chỉ sắp xếp thời gian hợp lý mang tính quy luật các chi tiết trong cuộc sống hàng ngày và trong làm việc, nghỉ ngơi. Nhìn nhận một số kinh nghiệm trường thọ từ xưa đến nay, về cơ bản, người trường thọ đều có một chế độ làm việc nghỉ ngơi phù hợp với quy luật sinh lý và thói quen làm việc nghỉ ngơi tốt, vì thế sinh hoạt có ảnh hưởng cực kỳ quan trọng đối với trường thọ.
Sách Hoàng đế nội kinh – Tố vấn có viết: “Dương khí, thể hiện ra ngoài vào buổi sáng, vào buổi trưa dương khí hưng thịnh nhất, khi mặt trời lặn về hướng Tây, dương khí đã hư, cửa khí đóng lại. Khi chiều xuống, thì thu lại, không ảnh hưởng tới gân cốt, không thấy xương mù, ngược với 3 thời điểm này, hình dáng nhợt nhạt”. Dưỡng sinh Đông y chú trọng thiên nhân hợp nhất, con người là một phần trong tự nhiên, quy luật sinh lý của con người giống với quy luật thay đổi của giới tự nhiên. Dương khí trong cơ thể cũng thay đổi theo dương khí của giới tự nhiên, biểu hiện 4 hình thức khác nhau là sinh, trưởng, thu, tàng: khi trời sáng, dương khí trong cơ thể bắt đầu hoạt bát trên cơ thể, buổi trưa có dương khí hưng vượng nhất, khi ánh mặt trời lặn xuống hướng Tây dương khí bắt đầu thù vào trong, lỗ chân lông khép lại, sau khi mặt trời lặn, dương khí tiềm tàng trong cơ thể. Dựa vào quy luật sinh lý này, mọi người làm việc lúc mặt trời mọc và nghỉ hơi lúc mặt trời lặn, sinh hoạt điều độ, kết hợp giữa lao động và nghỉ ngơi, để giữ âm dương cân bằng trong cơ thể. Đây là chế độ làm việc, nghỉ ngơi phù hợp với quy luật sinh lý, chắc chắn có ý nghĩa đối với việc kéo dài tuổi thọ của con người.
Thế nào là dưỡng sinh Tịnh cốc (nhịn ăn)?
Tịnh cốc (nhịn ăn), còn gọi là “khước cốc”, “đoạn cốc”, “tuyệt cốc” “hưu lương”, “Tuyệt lạp”, nghĩa của nó tức là không ăn ngũ cốc mà ăn khí, tiếp thu năng lượng tâm, thông qua phương thức năng lượng tâm, ngủ tư nhiên để người tịnh cốc (nhịn ăn) không ăn những vẫn không có cảm giác đói, sau đó thả lỏng thể xác và tinh thần ở trạng thái tịch cố, điều tiết cơ lý, thanh trừ chất thải và chất độc trong cơ thể, bổ sung chính khí cho cơ thể, đạt được mục đích dưỡng sinh, khai trí. Kỳ thực, Tịnh cốc (nhịn ăn) là một phương pháp tu tiên của các đạo gia trước đây, nhiều chỗ huyền diệu khiến người khác khó bề tưởng tượng được. Ngày nay, mặc dù chúng ta không biết rốt cuộc Tịnh cốc (nhịn ăn) có khiến đạo nhân thời xưa tu tiên thành công hay không, nhưng có một điểm có thể khẳng định được, đó là Tịnh cốc (nhịn ăn) quả thật là một đạo dưỡng sinh.
Dưỡng sinh Tịnh cốc (nhịn ăn) vốn là dị thuật của môn đạo, quá khác xa so với đạo dưỡng sinh mà chúng ta thường gặp trong hiện thực, ví thế rất ít người biết, thậm chí có người cho rằng “đoạn cốc” là một loại tuyệt thực, có hại cho cơ thể, không những không đạt được hiệu quả dưỡng sinh, ngược lại còn khiến cơ thể càng ngày càng hư nhược.
Đối với người nước ngoài mà nói, dưỡng sinh Tịnh cốc (nhịn ăn) quả thực có đôi chút hoang đường, kỳ thực không phải vậy. y học hiện đại nghiên cứu chứng minh, cơ thể thoái hóa và bệnh tật, chủ yếu là vì thức ăn ứ đọng, lên men trong đại tràng, tạo ra độc tố và các vật chất có hại, khiến chức năng cơ thể dần suy yếu, dẫn đến cơ thể bị lão hóa. Mà dưỡng sinh tịnh cốc (nhịn ăn) lại dùng phương pháp đặc biệt trong trạng thái không ăn để giành được năng lượng, đồng thời giảm nhẹ gánh nặng của phủ tạng, để tràng vị được nghỉ ngơi đầy đủ, thanh trừ táo bón và độc tố, đạt hiệu quả dưỡng sinh thải độc, điều lý chức năng của cơ thể.
Đông y cho rằng con người tương thông với tự nhiên, vì thế trong điều kiện nào đó con người có thể thông qua hấp thụ tự nhiên để giành được năng lượng. Trong trạng thái tịnh cốc (nhịn ăn), cơ thể thả lỏng, tế bào cơ thể nằm ở trạng thái “thiếu thức ăn hút khí”, khiến cơ thể tương đồng với khí tự nhiên, gia tăng sự trao đổi năng lượng giữa tế bào và vật ngoại giới, giúp cơ thể có thể hấp thu đủ chân khí của tự nhiên. Đồng thời thông qua năng lượng thuần khiết trong giới tự nhiên để điều tiết chức năng cơ thể, làm chậm quá trình lão hóa, giúp con người mạnh khỏe, trường thọ. Vì thế, dưỡng sinh tịnh cốc (nhịn ăn) không phải là thông quan nhịn đói để thải độc dưỡng sinh, mà là một mô hình dưỡng sinh khoa học trong trạng thái nhị đói nào đó, thông quan tĩnh tâm, thần tụ để hấp thụ năng lượng tự nhiên, điều tiết chức năng cơ thể.
Có những phương pháp dưỡng sinh thường gặp nào?
Đông y học bác uyên thâm, dưỡng sinh học cũng như vậy. Trọng tâm của dưỡng sinh học là thuận ứng bốn mùa, cân bằng âm dương, nguyên tắc cơ bản của nó là tiết chế, tiết chế dục vọng, cân bằng tâm cảnh. Mục đích của nó chỉ có một, đó là đạt được trường thọ. Đương nhiên, mặc dù mục đích chỉ có một, nhưng phương pháp lại có rất nhiều, chỉ cần bạn tìm thấy một phương pháp dưỡng sinh phù hợp với bản thân, đồng thời kiên trì với nó, tin rằng nhất định có thể trường thọ. Dưới đây đơn giản giới thiệu mấy đạo dưỡng sinh thường gặp:
Loại 1: điều thần dưỡng sinh, tức thông qua tinh thần điều dưỡng, có đủ tinh thần và thể xác, cơ thể khỏe mạnh, kéo dài tuổi thọ. Đây không phải là phương pháp chuyên nghiệp có ý nghĩa nghiêm ngặt, nhưng lại không thể xem nhẹ tác dụng mạnh khỏe, trường thọ. Tiến hành tinh thần điều dưỡng phải chú ý giữ tâm thái lạc quan, chỉ có thanh tâm quả dục mới có thể tâm thái bình an, huyết mạch lưu thông, mặc dù có kinh hoàng sợ hãi nhưng cũng không phải là họa.
Loại 2: Thổ nạp dưỡng sinh, cũng chính là khí công mà chúng ta nói ngày nay. Khi thổ nạp dưỡng sinh vừa phải giữ cho tâm thái bình an, còn phải chú ý dẫn khí để khí hành toàn thân, thông đạt kinh lạc, đạt dưỡng khí dưỡng thần, kinh mạch lưu thông, cơ thể khỏe mạnh.
Loại 3: đạo dẫn dưỡng sinh, còn gọi là luyện hình dưỡng sinh, là một phương thức dưỡng sinh dùng động tác hình thể là chính. Loại thuật dưỡng sinh này có ngũ cầm hô, bát đoạn cẩm, dịch cân kinh, thái cực quyền và mát xa.
Loại 4: thực nhĩ dưỡng sinh, tức thông qua điều tiết chất lượng, số lượng thức ăn, quy luật ăn uống, và tránh các thức ăn có hại để đạt được mục đích bảo dưỡng cơ thể.
Đương nhiên, ngoài các phương pháp dưỡng sinh thường gặp kể trên, luyện tập yoga, chữa bệnh bằng hương thơm cũng là phương thức dưỡng sinh khá được mọi người tiếp nhận. Nhưng, bất kể là lựa chọn loại phương thức dưỡng sinh nào, đều không thể lơ là một chữ “độ”, hông được tham “nhanh”. Bất kể lựa chọn phương thức dưỡng sinh nào, đều phải kết hợp giữa lao động và nghỉ ngơi, động tác có chừng mực, tích lũy dần dần, hiệu quả dưỡng sinh sẽ dần hiện rõ ra.
Vì sao dưỡng sinh trong Đông y lại đặc biệt chú trọng bảo dưỡng tỳ vị?
Sách Tố vấn – Linh lan mật điển luận viết: “Tì vị, cơ quan lương thực, ngũ vị chỗ này”. Trong tỳ vị luận nhà y học nổi tiếng Lý Đông Hằng đời Kim Nguyên đã từng chỉ ra: “Nội thương tỳ vị, là nơi sinh ra bách bệnh”. Đông y chú trọng đến quan niệm chỉnh thể, nói đến tỳ không thể không nhắc đến vị, nói đến vị không thể không nhắc đến tỳ, thường tỳ vị phải đi cùng nhau. Mà tỳ vị trong Đông y cũng không đơn thuần chỉ hai cơ quan tỳ, vị, mà chỉ cả hệ thống tiêu hóa. Sau khi con người sinh ra, tất cả hoạt động sinh mạng đều dựa vào vật chất dinh dưỡng do tỳ vị hấp thụ. Cho dù tiên thiên không đủ, cũng có thể thông qua hậu thiên để điều dưỡng bồi bổ. Vì thế, chỉ cần tỳ vị mạnh khỏe, ăn uống điều độ, tương tự có thể kéo dài tuổi thọ.
Trong Đông y học, tỳ là gốc của hậu thiên, khí huyết là nguồn của sinh hoát. Sau khi thức ăn đi vào dạ dày, do dạ dày tiến hành nghiền nhuyễn, tiêu hóa sơ bộ thức ăn, để nó nhuần nhuyễn, sau đó từ tỳ tiến hành tiêu hóa, hấp thu, hóa sinh thành vật chất dinh dưỡng tinh vi, để cơ thể hấp thu. Đúng là tỳ vị vận hành bình thường, mới có thể bảo đảm sự hấp thu năng lượng cho cơ thể, mới có thể duy trì được sư vận chuyển của các chức năng trong cơ thể.
Leave a Reply