Mở đầu bài “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi viết:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.”
Hãy giải thích câu trên và chứng minh rằng tư tưởng nhân nghĩa thể hiện trong suốt bài “Bình Ngô đại cáo”.
BÀI LÀM
Cuộc đời Nguyễn Trãi là một tấm gương sáng ngời về khí tiết thanh cao và lòng yêu nước thương dân sâu sắc. Nguồn gốc sâu xa tạo nên tâm hồn lớn ấy là tư tưởng nhân nghĩa. Tư tưởng nhân nghĩa xuyên suốt toàn bộ tác phẩm của ông, từ lập trường chính nghĩa của cuộc kháng chiến đến lúc cuộc kháng chiến thắng lợi hoàn toàn, từ khi Lê Lợi dựngcần trúc ngọn cờ phấp phới đến khi bốn phương biển cả thanh bình. Mở đầu bài Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi viết:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Ta hãy tìm hiểu nội dung ý nghĩa câu trên, qua đó chứng minh rằng tư tưởng nhân nghĩa được thể hiện trong suốt bài Bình Ngô đại cáo.
Trong cuộc đời thường, nhân và nghĩa thể hiện đạo lí làm người, một tôn chỉ nhân sinh trong xã hội ta ngày xưa, là đạo lí của con người đối với con người, đạo lí của con người đối với cuộc đời:
Ở cho có đức có nhân,
Mới mong đời trị được ăn lộc trời. .
(Gia huấn ca)
Đạo lí nhân dân vẫn thường chê trách những kẻ “tham vàng bỏ ngãi” như câu ca dao Nam Trung Bộ:
Sợ anh ham chốn tiền tài,
Dứt đường nhân ngãi lâu dài bỏ em,
Trong Bình Ngô đại cáo, nhân nghĩa mang nội dung tư tưởng sâu rộng, tích cực hơn. “Nhân” thể hiện bằng hành động chăm lo đời sống người dân được an vui, “nghĩa” thể hiện qua hành động diệt trừ bạo ngược để an dân:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Nội dung câu trên có thể tóm tắt: xuất phát từ tư tưởng nhân nghĩa, ta nhằm mục đích yên dân: vì muốn yên dân nên phải ra tay hành động trừ bạo. Như vậy, thực hiện nhân nghĩa cốt nhằm mục đích duy nhất là đem lại cuộc sống hạnh phúc, an vui cho người dân. Cho nên vì thương dân (điếu) mà ta khởi binh đánh dẹp (phạt) đế diệt (trừ) lũ giặc hung bạo (bạo). So với tư tưởng nhân nghĩa trong văn chương bình dân cũng như văn chương bác học nước ta, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi trong Bình Ngô đại cáo có ý nghĩa sâu sắc: tất cả vì nhân dân, vì hạnh phúc ấm no, vì sự an cư lạc nghiệp của người dân. Tư tưởng nhân nghĩa này thể hiện trong suốt bài Bình Ngô đại cáo.
Thật vậy, Nguyễn Trãi dã tự hào giở lại từng trang lịch sử của dân tộc qua bài Cáo. Lịch sử đã từng ghi rằng những triều đại nhân nghĩa đều lấy việc yên dân làm gốc. Những kẻ tham bạo, hành động trái nhân nghĩa đều thất bại:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Vậy mà hiện nay:
Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây họa,
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh.
Chúng đã gây ra quá nhiều tội ác trên đất nước ta, làm cho cuộc sống của nhân dân vô cùng cơ cực. Đó là những cảnh cực nhọc, hiểm nguy khi giặc bóc lột sức dân, vơ vét tài sản quý:
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng,
Kẻ bị đem vào núi đãi cút tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.
Ngoài ra còn có những thuế ná, phu phen nặng nề:
Nặng nề những nỗi phu phen…
Nay xây nhà, mai đắp đít…
Nặng thì ê má sạch không đầm núi.
Như vậy còn đâu đời sống an sinh hạnh phúc như kia, những nếp nghề truyền thống cũng không tồn tại được: tan tác cả nghề canh cửi. Qua thật tội ác của giặc Minh đã làm cho: Bại nhân nghĩa nát cả đất trời
Nếu nhân nghĩa không chỉ là nhân tâm mà còn là thiên lí, thì quá thật nhân nghĩa đã bị bọn cuồng Minh làm bại hoại tổn thương. Cho nên:
Lẽ nào trời đất dung tha.
Ai bảo thần nhân chịu được?
Ta giữ đại nghĩa chí nhân, chính nghĩa tất thắng, chí nhân tất thành:
Đem đại nghĩa đề thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Cho nên sau bao năm nếm mật nằm gai, khắc phục gian nan, nghĩa quân phản công với khí thế sĩ khí đã hăng, quân thanh càng mạnh, còn giặc thì nghe hơi mà mất vía, nín thở cầu thoát thân.
Đợt tiến công càng tỏ rõ thế tất thắng của nghĩa quân:
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Nổi gió to trút sạch lá khô,
Thông tổ kiến phá toang đê vỡ.
Trái lại, bọn giặc đã hành động trái nhân nghĩa nên hoàn toàn bại vong: chủ tướng thất thế, cụt đầu tướng lãnh tử vong, tự vẫn, lê gối tạ tội, trói tay xin hàng, quân lính khiếp vía mà vã mật, xéo lên nhau đểchạy thoát thân, cởi giáp ra hàng, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng.
Như vậy, sau mười năm nằm gai nếm mật, ta đã hoàn toàn chiến thắng. Tư tưởng nhân nghĩa được thể hiện qua lòng nhân đạo đưa đến chủ trương hòa bình, như lời của Bình Định Vương Lê Lợi:
“Phục thù báo oán, đó là thường tình của người ta. Không thích giết người, đó là bản tâm của kẻ nhân giả. Và người ta đã hàng mà lại giết, thì không gì không lành hơn nữa. Để hả mối giận một sớm mà mang tiếng giết người, thì sao bằng để sống ức vạn người mà hết mối chiến tranh cho hậu thể, khiến sử xanh ghi chép, nghìn thuở lưu thơm, như thế chẳng là lớn sao?”
(Lam Sơn thực lục)
Cho nên, ta theo đức hiếu sinh của trời:”Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh”.
Hơn nữa, cũng là nguyện vọng hòa bình của nhân dân hai nước. Bọn vua quan nhà Minh đãbắt dân lành vào lính, xua quân sang đất Việt, quân lính đó là “những kẻ vô tội (…) đã bị các người (tướng lãnh) lừa dối” (Quân trung từ mệnh tập). Cho nên cuộc kháng chiến chống quân Minh đặt trên cơ sở tư tưởng nhân nghĩa để trừ bạo nhưng đồng thời cũng – lựa trên cơ sở nhân nghĩa để chấm dứt chiến tranh, đạt mục đích hòa bình. Đó chính là tài năng, đức độ của nhà quân sư nhìn xa, trông rộng, dập tắt chiến tranh, ngưng cuộc binh đao mới là “võ” (chữ võ gồm chữ chí là ngưng lại, ghép với chữ qua là cây giáo) Cho nên khi kết thúc hoàn toàn cuộc chiến, Nguyễn Trãi đã tự hào:
Chẳng những mưu kế kì diệu,
Cũng là chưa thấy xưa nay.
Bình Ngôlại cáo là một ”thiên cổ hùng văn”, tổng kết cá một cuộc kháng chiến thẫn thánh vô cùng gian lao nhưng tuyệt vời anh dũng của dân tộc ta suốt mười năm dài. Tác phẩm toát lên tư tưởng chỉ đạo làm nền gốc của mọi chủ trương, chiến thuật, ngoại giao, chính trị tài tình, đưa đến thắng lợi vinh quang, xây dựng nền hòa bình bền vững. Đó chính là tư tưởng nhân nghĩa.
Leave a Reply