Những nét đặc sắc vềnghệ thuật trong bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương.
Gợi ý viết bài
Bài thơ Viếng lăng Bác là một bài ca mà nghệ thuật biểu đạt đã đạt tới mức điêu luyện. Điều này thể hiện trong thể thơ, nhịp điệu, ngôn ngữ và hình ảnh thơ.
Về thể thơ và nhịp điệu:
Bài thơ có bốn khổ, mỗi khổ gồm bốn dòng thơ. Các dòng thơ thay đổi từ bảy đến chín từ. Các dòng thơ mang âm điệu ấm áp, tâm tình. Nhịp thơ chậm, biến đổi theo cảm xúc trữ tình vừa tha thiết vừa trang nghiêm. Đặc biệt trong khổ thơ cuối, dòng cảm xúc được đẩy tới mức cao nhất, tuôn trào mạnh mẽ nhất: “Mai về miền Nam, thương trào nước mắt”. Câu thơ trên như lời nói bình thường, không mang yếu tốnghệ thuật. Giọng thơ chân chất rất Nam Bộ của tác giả, vừa bộc trực chân thành mà cũng rất tình cảm. Tác giả đã thay mặt cho đồng bào miền Nam này tỏ niềm thương tiếc vô hạn đối với Người.
Ước nguyện của tác giả ở phần cuối bài cho thấy niềm yêu thương, sự dâng hiến của tác giả đối với Bác. Điệp từ muốn làm được sử dụng nhiều lần đã thể hiện nỗi xót xa, ân hận vô bờ của tác giả:
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này. .
Ngôn ngữ và hình ảnh thơ:
Bài thơ giàu hình ảnh sáng tạo, kết hợp hình ảnh thực với hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng: hàng tre xanh xanh, mặt trời, vầng trăng, trời xanh… Ngôn ngữ chọn lọc và các hình ảnh kì vĩ, rộng lớn trên nối tiếp nhau xuất hiện khiến người đọc phải suy ngẫm. Suy ngẫm về cái bất diệt, cái vô cùng của vũ trụ đến cái bất diệt, cái vô cùng cao cả ở mỗi con người.
Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương.
Bài làm
Lâu nay, thơ văn trong nước và nước ngoài viết về Bác Hồ kính yêu của chúng ta rất nhiều. Các nhà thơ, nhà văn đều sáng tác với tâm huyết và tình cảm chân thành, trang trọng của mình đối với Bác. Trong số thơ văn ấy, phải nhắc đến bài “Viếng lăng Bác” đầy xúc động của nhà thơ Viễn Phương:
Con ở miền Nam ra thăm Lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão tố mưa sa đứng thẳng hàng
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lãng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
Bác nằm trong lăng giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng trong dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm bông hoa tỏa ngát đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Đọc ngay đoạn mở đầu, lòng em đã thấy bồi hồi trước không khí ấm áp gần gũi mà thiêng liêng thành kính của một hình ảnh vô cùng quen thuộc, đó là hàng tre.
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão tốmưa sa đứng thẳng hàng.
Bởi vì nói đến hàng tre bát ngát là nói đến quê hương và con người Việt Nam với biết bao là đức tính cao quý và trong sáng. Nói đến hàng tre là chúng ta nghĩ ngay đến ngôi nhà thân yêu, tuổi thơ trìu mến, lời ru của mẹ dịu dàng, ấm áp, tiếng võng đưa kẽo kẹt trưa hè dưới bóng tre làng một nắng hai sương, cần cù, bền bỉ. Hình ảnh hàng tre xanh xanh bát ngát là khúc nhạc dạo đầu đềnhà thơ đưa chúng ta đến bao suy tưởng mênh mông hơn:
Bác nằm trong lăng giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng trong dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi…
Vầng trăng, trời xanh… Những hình ảnh kì vĩ, rộng lớn nối tiếp xuất hiện làm em không khỏi xúc động. Em chợt hiểu rằng nhà thơ phải kính yêu Bác đến mức nào mới sử dụng dược nhuần nhuyễn hài hòa các hình ảnh ấy, đặc biệt là hình ảnh ẩn dụ tài tình trong hai câu thơ:
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.
Cái nhói tim của tác giả là nỗi đau của biết bao con người Việt Nam trước sự ra đi của Bác. Ướcnguyện gặp Bác của tác giả giờ không thể thực hiện được. Bác mãi mãi ra đi đểlại trong lòng người con miền Nam niềm thương tiếc khôn nguôi. Đứng trước lăng mà lòng con bồi hồi, xúc động, xen lẫn nỗi đau mất mát. Sự chân tình, mộc mạc của người miền Nam đã thể hiện rất rõ trong từng lời thơ.
Đứng trước hình bóng Bác, nhà thơ như không muốn quay đi. Thực tế là con phải về, mai về. Ởmiền Nam xa xôi rồi con sẽ rất nhớ Bác. Chínhvì thế mà tác giả muốn hóa thân thành những hình tượng gắn liền với nơi Bác đang ngon giấc, để ru cho Bác ngủ giấc ngủ ngàn thu:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng
Bác Muốn làm bông hoa tỏa ngát đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Ước nguyện của nhà thơ cũng là ước nguyện của mọi người dân Việt Nam, của cả dân tộc Việt Nam. Thương Bác, nhớ Bác nên lòng con không muốn rời. Đó là một tình cảm thiêng liêng mà mỗi người dân Việt Nam dành cho Bác.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh hàng tre, kết thúc bài thơ cũng có hình ảnh cây tre. Phải chăng cây tre tượng trưng cho sức sống bền bỉ của dân tộc Việt Nam, cho cuộc đời đầy gian truân nhưng thật vĩ đại của Bác? Nếu ở khổ thơ đầu, từ hình ảnh thực của rặng tre bên lăng Bác nhà thơ đẩy lên hình ảnh tượng trưng cho cả dân tộc kiên cường bất khuất đứng quanh Người, thể hiện rõ ý chí và nguyện vọng của Người, thì ở câu thơ cuối, vận động của ý thơ lại theo chiều ngược lại. Từ sự mong muốn trong tâm tưởng luôn đượcở bên cạnh Bác, nhà thơ đi đến những hình ảnh cụ thể, thể hiện ý đó, nào con chim hót quanh lăng Bác, nào đóa hoa tỏa hương đâu đâyvà cuối cùng là làm cây tre trung hiếu chốn này.
Bài thơ Viếng lăng Bác thật giàu tình cảm vì sự chân thành, tha thiết và sâu lắng của tác giả. Bài thơ tưởng kết thúc trong sự xa cách về không gian đâu ngờ lại tạo nên sự gần gũi trong tình cảm và ý chí. Người bước chân ra đi nhưng lòng ở lại. Như thế cuộc ra thăm lăng Bác của những con người miền Nam đâu có kết thúc.
Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của tác giả Viễn Phương.
Gợi ý viết bài
Bài thơ bắt đầu bằng câu thơ tự sự:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác,
Con và Bác, cách xưng hô ngọt ngào, thân thương, rất Nam Bộ. Nhà thơ đã cố tình thay đi một từ, ở tựa đề bài thơ là “viếng”, ởcâu này là “thăm” mong giảm nhẹ nỗi đau mà không che được nỗi bùi ngùi của cảnh tử biệt sinh li. Tình thơ gần gũi mà trắc trở, lời thơ giản dị pha chút ngậm ngùi. Câu thơ thứ hai miêu tả không gian của lăng Bác, hình ảnh hàng tre là hình ảnh đầu tiên nhà thơ bắt gặp:
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát.
Cứ như thế, tứ thơ tuôn trào và trôi đi trong một cảm xúc kì lạ, vừa rất thực như bước chân nhích dần của dòng người ngày ngày vào thăm lăng Bác, vừa bồng bềnh như trong mơ, như trong nỗi thương nhớ khôn nguôi. Nó làm cho bài thơ có một không khí và giọng điệu rất lạ, không giống bất kì một bài thơ nào khác viết về Bác. Đó là ấn tượng về nỗi đau và nỗi nhớ Bác khôn nguôi của những người con miền Nam bao năm chịu mọi thử thách của chiến tranh để thực hiện nguyện vọng tha thiết của người: “Nam Bộ là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lí ấy không bao giờ thay đổi”.
Khổ thơ thứ hai cũng bao trùm không khí vừa thực vừa ảo. Thực là hình ảnh mặt trời đi qua trên lăng, là ngày ngày dòng người vào lăngviếng Bác. Song ảo là hình ảnh mặt trời trong lăng rất đỏ. Ví Bác với “Mặt trời cách mạng” làm cho lũ dơi đế quốc bay chập choạng dưới chân người vào lúc đêm tàn, như TốHữu đã viết. Song nhận ra lúc người nằm trong lăng vẫn là một vầng trăng sáng dịu hiền để sóng đôi và trường tồn cùng với mặt trời của thiên nhiên là sáng tạo riêng của Viễn Phương. Cũng vậy, nhà thơ đã đẩy hình ảnh rất thực về đoàn người viếng Bác thành hình ảnh rất mộng (dòng người đi trong thương nhớ), thành hình ảnh bất ngờ, độc đáo (kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân).
Ởkhổ thơ thứ ba, bằng tình cảm, tác giả dường như thấy Bác vẫn còn ở cùng ta: Bác nằm trong giấc ngủ bình yên, giữa một vầng trăng sáng dịu hiền. Nhưng lí trí nhắc đến sự thật của cảnh chia li âm dương đôi ngả. Sự hòa trộn giữa tình cảm và lí trí tạo nên một hình ảnh tượng trưng nói tới sự mất mát và nỗi thương nhớ một cách độc đáo:
Vẫn biết trời xanh Là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Trong ba khổ thơ trên, thực tại và mong ước, lí trí và tình cảm đan xen nhau tạo nên một loạt hình ảnh như thực, như mơ, diễn tả cảm xúc chân thành của tác giả đối với Bác kính yêu.
Đến khổ thơ cuối cùng, nhà thơ trở về với thực tại:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Thương Bác đấy nhưng không xa rời sự nghiệp Người để lại cho lớp lớp con cháu. Ý chí ấy làm lời thơ trở nên mạnh mẽ, dứt khoát. Điệp ngữ “muốn làm” mở đầu ba câu thơ liên tiếp như lớp sóng dồi trong lòng nhà thơ, khẳng định chí hướng thuỷ chung với cách mạng, khẳng định sự gắn bó của miền Nam với Bác. Ởđây chúng ta gặp lại hình ảnh cây tre, vốn đã được nói đến trong khổ thơ đầu của bài thơ. Hình ảnh tạo nên cấu trúc vừa trùng lặp lại vừa phát triển của ý thơ. Nếu ở khổ thơ đầu, từ hình ảnh thực của rặng tre bên lăng Bác, nhà thơ đẩy lên thành hình ảnh tượng trưng cho cả dân tộc kiên cường bất khuất đứng quanh người, thể hiện rõ ý chí và nguyện vọng của Người, thì ở câu thơ cuốisự vận động của ý thơ lại theo chiều ngược lại. Từ sự mong muốn trong tâm tưởng luôn được ở bên cạnh Bác, nhà thơ đi đến những hình ảnh cụ thể, thể hiện ý đó, nào “con chim hót quanh lăng Bác”, nào “đóa hoa tỏa hương đâu đây” và cuối cùng là “cây tre trung hiếu chốn này”.
Bài thơ tưởng kết thúc trong sự xa cách về không gian đâu ngờ lại tạo nên sự gần gũi trong tình cảm và ý chí. Người bước chân ra đi nhưng lòng ở lại. Như thế cuộc ra thăm lăng Bác của những người con miền Nam đâu có kết thúc.
Leave a Reply