TLV là môn học thể hiện chu trình đó. TLV còn rèn luyện học sinh tư duy ngôn ngữ, cảm thụ văn học và cuộc sống, rèn luyện đạo đức làm người và nhân sinh quan. Thế nên có câu: “Văn là người”. Vì thế, để học tốt môn TLV. Học sinh cần phải rèn luyện cho mình các kĩ năng sau:
I. KĨ NĂNG SỬ DỤNG TỪ NGỮ
Hiểu đúng, chính xác nghĩa của từ. Biết vận dụng nghĩa của từ trong văn cảnh thích hợp. Các em được làm quen với từ ngữ theo từng chủ điểm của tuần học. Các em cần học thuộc, ghi nhớ nghĩa của từ, biết sử dụng từ ngữ trong văn cảnh phù hợp. Tập nói từ ngữ đúng, xác đáng, tránh thói quen nói lóng vô bổ. Khi nói từ nào, các em cần cân nhắc trong suy nghĩ: nói có đúng không, từ nói là loại từ gì: danh từ, động từ hay tính từ. Đó là thói quen không có gì khó nhọc nhưng giúp các em rất nhiều trong việc viết câu văn đúng, viết hay khi làm TLV. Một từ có thể có nhiều ý nghĩa.Ngược lại, một ý nghĩa có thể diễn đạt bằng nhiều từ tùy theo trường hợp sử dụng. Ngoài những kiến thức do các thầy cô giáo giảng giải ở lớp, các em nên tự tìm hiểu ở từ điển Tiếng Việt. Hiểu đúng nghĩa của từ các em sẽ viết văn đúng và cho dù có gặp một người phát âm sai, viết sai các em vẫn hiểu đúng, viết đúng chính tả. Vậy cùng lúc với việc khắc sâu nghĩa của từ, các em thực hiện được tốt kĩ năng thứ 2: kĩ năng viết đúng chính tả.
Học và ghi nhớ các từ láy và từ ghép:
– Sử dụng từ láy để miêu tả hình ảnh, màu sắc, âm thanh, mùi vị, hương thơm…
– Sử dụng từ ghép để viết văn mạch lạc, ngắn gọn.
Ví dụ:“Nhà cửa thật gọn gàng, đẹp mắt.” được viết hay hơn là: “Nhà cửa thật gọn, đẹp.”
II. KĨ NĂNG VIẾT ĐÚNG CHÍNH TẢ
Viết đúng chính tả trước hết cần phát âm đúng giọng chuẩn phổ thông. Tuy nhiên, theo vùng miền, giọng phát âm của chúng ta có hạn chế khi nói hoặc đọc bài. Vì thế, việc hiểu nghĩa của từ trong câu văn giúp chúng ta rất nhiều trong việc viết chính tả đúng. Các em có thể tự mình rèn luyện bằng phương pháp sau:
1. Đọc nhiều bài văn, truyện, sách và ghi nhớ cách viết Tiếng Việt.
2. Luôn luôn ghi nhớ: tiếng gồm phụ âm + vần + thanh, có tiếng không có
phụ âm đầu. Khi viết tiếng, viết từ cần liên hệ nghĩa của từ để viết đúng.
Ví dụ:
* Muốn: ý muốn, điều yêu cầu
Viết: m + uôn + thanh sắc.
* Muống: rau muống
Viết: m +uông + thanh sắc
3. Dành thời gian tự rèn luyện: tập chép một bài văn, đọc một bài báo. Nếu quá yếu chính tả, các em cần phải tập đọc nhiều hơn nữa và phụ huynh cần giúp các em bằng cách đọc cho các em viết. Đọc nhiều sách báo thay vì chỉ xem TV, các em cũng biết được nhiều chuyện và dần dần sẽ viết đúng chính tả, đọc nhanh, giỏi.
III. KĨ NĂNG VIẾT CÂU ĐÚNG VÀ HAY
1. Nắm vững cấu trúc câu gồm hai thành phần: chủ ngữ và vị ngữ. Câu nếu thiếu một trong hai thành phần này không thể là câu.
2. Sử dụng các kiểu câu đúng:
Dùng câu kể “Ai làm gì?” để mô tả hành động, việc làm của đối tượng đang tả,đang kể.
Dùng câu kể “Ai thế nào?” để miêu tả hình ảnh, sắc thái, tính chất, trạng thái… của đối tượng được tả.
Dùng câu kể “Ai là gì?” để giải thích, liệt kê,giới thiệu, so sánh, nhân hoá nhằm mô tả đối tượng đang tả.
* Sử dụng tốt các kiểu câu: câu hỏi, câu cầu khiến, câu cảm
Có thể sử dụng câu hỏi cho mục đích giới thiệu, khẳng định, nêu yêu cầu chứ không phải chỉ dùng để viết câu hỏi của nhân vật trong truyện. Sử dụng câu hỏi để làm tiêu đề cho phần mở đầu, giới thiệu hay viết mở bài gián tiếp, kết bài mở rộng.
– Sử dụng câu cảm để nêu cảm xúc nhằm làm nổi bật hình ảnh, tố chất của sự vật đang tả. .
– Sử dụng câu cầu khiến để nhân hoá cho sự vật (nói với sự vật, vật như nói với người).
3. Sử dụng tốt các thành phần phụ của câu:
Để tả rõ nơi chốn, thời gian, mục đích, lý do liên quan đến đối tượng, sự vật được tả, các em nên sử dụng tốt thành phần trạng ngữ. Sử dụng thành phần trạng ngữ của câu giúp các em mô tả sự vật ngắn gọn hơn, sinh động và súc tích hơn.
IV. KĨ NĂNG NẮM VỮNG KIỂUBÀI TẬP LÀM VĂN
Ở lớp 4, các em chỉ học các kiểu bài TLV được nêu trong sách này (được soạn thảo theo chương). Các em cần nắm vững yêu cầu của kiểu bài TLV mình đang thực hiện (xem cụ thể từng chương). Bài văn nào cũng phải thể hiện đủ bố cục cơ bản là: mở bài, thân bài. kết bài.
V. KĨ NĂNG PHÂN TÍCH ĐỀ VĂN VÀ LẬP DÀN Ý
1. Phân tích đề văn:
Thực hiện bất cứ một bài TLVnào các em cũng cần phân tích đề văn trước tiên. Phân tích đề văn gồm các bước:
Bước 1:Đọc kĩ đề, nắm kiểu bài.
Dùng bút chì gạch dưới các mệnh lệnh của đề là các từ: “tả, kể, viết đoạn văn, ghi lại, viết tiếp…” để biết việc thực hiện là gì, làm gì, văn thuộc kiểu bài nào.
Bước 2:Tìm hiểu giới hạn của đề văn.
Tìm hiểu giới hạn của đề văn để làm bài đúng trọng tâm, tránh viết lan man lạc đề hoặc dài dòng không cần thiết.
Ví dụ:
a) Đề bài: “Hãy tả chiếc cặp sách em đang dùng do bố mua nhân dịp vào năm học mới”.
– Mệnh lệnh đề: tả (Văn miêu tả).
– Đối tượng tả: chiếc cặp sách.(Đồ vật)
Giới hạn đề: em đang dùng (còn mới vì do bố mua nhân dịp năm học mới)
b) Đề bài: Hãy tả chiếc cặp sách em đang dùng.
Mệnh lệnh đồ: tả (Văn miêu tả).
– Đối tượng tả: chiếc cặp sách (đồ vật).
Giới hạn đồ: em đang dùng (có thể là cặp mới, có thể là cặp cũ, được tặng, em tự mua hay em được thưởng… không nhất định do ai mua. Vì thế em có thể tự chọn để hình thành ý: Em chọn tả cặp cũ hay mới tùy ý, em có chiếc cặp từ lúc nào, do ai cho).
* Bước phân tích đề rất quan trọng vì nó chỉ đạo xuyên suốt quá trình làm văn. Khi lập dàn bài cần bám sát giới hạn đề đã được phân tích.
2. Lập dàn ý
Các em càn lập dàn ý chi tiết vào nháp trước khi làm bài. Dàn ý kiểu bài văn nào cũng có ba phần: mở bài,thân bài, kết bài. Trong tập sách này, kiểu bài văn nào cũng được hướng dẫn lập dàn bài chi tiết hoặc cơ bản. Các em xem cách lập dàn bài theo từng kiểu bài và lập dàn bài cho đề văn cụ thể mình đang làm. Các em dựa trên dàn bài cơ bản và cần bám sát giới hạn đề. Dàn bài chi tiết dựa trên kĩ năng không thể thiếu được khi làm TLV: kĩ năng quan sát và tìm ý.
VI. KĨ NĂNG QUAN SÁT VÀ TÌM Ý
– Nắm vững nội dung truyện kể (cốt truyện) (văn kể chuyện).
Hiểu mục đích viết thư (văn viết thư)
Quan sát và tìm ý (văn miêu tả)
Trả lời thông tin đúng, viết câu ngắn gọn,tóm lược (văn nhật dụng)
Các kĩ năng chuyên biệt này sẽ được lưu ýnhắc như trong từng thể loại TLVnhưng quan trọng nhất trong các kĩ năng này là kĩ năng quan sát và tìm ý.
Trong bấtkì kiểu bài văn nào, học sinh cũng cần rèn luyện cho mình kĩ năng quan sát các sự vật xung quanh, các tình huống xảy ra trongcuộc sống của các em. Các em có thể có một cuốn sổ tay để ghi chép những điều quan sát được, dù chỉ tình cờ. Các em sắp xếp các điều quan sát một cách có hệ thống và ghi nhớ. Các em ghi chú ngắn gọn để làm tư liệu phòng khi gặp đề văn miêu tả vật đó thì đỡ mất công tìm kiếm hình ảnh,tài liệu. Cách quan sát là: nhìn từ xa đến gần, nghe tiếng động, mũi ngửi mùi thơm (quan sát hoa), quan sát hình dáng sự vật từ bao quát đến chi tiết. Để diễn tả điều quan sát được, các em tự đặt các câu hỏi nhỏ và vận dụng từ ngữ diễn đạt để trả lời.
Ví dụ: Quan sát quả cam sành: qua màu‘xanh, vỏ dày. Đặt câu hỏi: Quả to cỡ nào? Màu xanh thế nào?
Ý diễn dạt:
“Quả cam tròn bằng cái chén cơm, da xanh thẳm, vỏ dày đặc trưng của giống cam sành.”
Rèn luyện nhiều lần như thế, các em sẽ hình thành thói quen quan sát và nhận định tinh tế giúp rất nhiều cho việc học văn, làm văn của các em. Trong cuộc sống trưởng thành mai sau,chắc chắn các em đủ khả năng làm việc tốt trong ngành nghề mình chọn và được đào tạo. Đó cũng chính là mục đích giáo dục của môn Văn trong trường Tiểu học.
VII. KĨ NĂNG SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP SO SÁNH, NHÂN HÓA, DÙNG ĐIỆP TỪ
1) Phương pháp so sánh, nhân hóa:
Các em đã học phương pháp so sánh, phương pháp nhân hoá từ lớp 1, 2, 3.
Các em cần biết vận dụng để viết văn. Các em tập cho mình thói quen so sánh khi quan sát rồi nhân hoá đối tượng quan sát lên.
Vídụ: Quan sát chiếc cặp sách:
+ Ước lượng, so sánh: “cái cặp to bằng 3 quyển sách giáo khoa ghép lại.”
+ So sánh và nhân hoá chiếc cặp: “Như một người anh cả đùm bọc cho đàn em. Chiếc cặp dựng vào lòng mình tất cả dụng cụ học tập của em.”
2) Dùng điệp ngữ:
Lặp lại từ một cách có mục đích để nâng cao hình ảnh hoặc cảm xúc muốn diễn đạt.
Ví dụ:
Tròn lên, tròn lên… da dần căng lên. Những quả chuối trở nên bụ bẫm, nải chuối cũng lớn thêm (tả cây chuối có buồng).
– Rối rít,rối rít… chú Bê-tô nhún chân, vẫy đuôi lia lịa, chỉ chực phóng lên liếm mặt em mỗi khi em đi học về. (tả chú chó nhà em nuôi).
Bồi hồi,bồi hồi. Em nghe trong lòng dâng lên cảm giác lưu luyến mái trường khi hoa phượng nở đỏ rực xen lẫn vòm lá xanh biếc. (Nêu cảm xúc của em trong bài ta cây phượng trong sân trường.)
VIII. KĨ NĂNG TRÌNH BÀY BÀI VIẾT MẠCH LẠC
Nội dung trình bày: học sinh trình bày bài viết có thứ tự theo dàn ý chi tiết. Đọc và sửa câu cho đúng. Ngắt câu và sử dụng dấu chấm câu đúng cho từng kiểu câu.
Hình thức: Rèn luyện chữ viết rõ ràng, đẹp. Trình bày bài theo đúng quy định do thầy, cô giáo dã hướng dẫn.
KĨ NĂNG ĐỂ HỌC TỐT PHÂN MÔN TLV
1. Sử dụng từ ngữ đúng và hay
2. Viết đúng.
3. Viết câu đúng, viết câu hay.
4. Nắm vững kiểu bài Tập làm văn.
5. Phân tích để văn và lập dàn ý.
6. Quan sát và tìm ý.
7. Sử dụng phương pháp so sánh, nhân hóa, dùng diệp từ.
8. Trình bày bài viết mạch lạc.
VĂN KỂ CHUYỆN
CHƯƠNG I.TÌM HIỂU CẤU TRÚC VĂN KỂ CHUYỆN
CÁC TIẾT LUYỆN TẬP
TÌM HIỂU CẤU TRÚC VĂN KỂ CHUYỆN
Các khái niệm:
I. Truyện kể là gì?
Truyện kể là văn bản ghi lại sự việc xảy ra, có các nhân vật và tình tiết diễn biến theo trình tự thời gian tạo nên sự việc đó. Nội dung truyện kể chính là chuỗi sự việc xảy ra trong truyện và có ýnghĩa nhất định.
II.Chuyện kể là gì?
Chuyện kể là nội dung sự việc xảy ra trong thực tế hoặc trong truyện kể.
III. Văn kể chuyện là gì?
Văn kể chuyện là bài viết nhằm tái hiện lại sự việc xảy ra trong truyện kể để người đọc biết nội dung câu chuyện được đề cập đến của truyện kể. Nghĩa là: kể lại truyện bằng lời văn của người kể.
IV. Cốt truyện:
Cốt truyện là một chuỗi sự việc làm nòng cốt cho diễn biến của chuyện bằng lời văn của người kể.Cốt truyện chính là nội dung truyện kể.
V. Cấu trúc văn kể chuyện:
Văn kể chuyện gồm có ba phần:
– Mở đầu câu chuyện.
– Diễn biến câu chuyện.
– Kết thúc câu chuyện.
TLV nhằm rèn luyện cho học sinh cách diễn đạt nội dung truyện kể (hoặc một câu chuyện đã biết) bằng lời văn, cách nói của chính mình, tránh chép lại nguyên văn truyện đọc nhưng vẫn đảm bảo đúng nội dung truyện, đảm bảo đúng diễn biến các tình tiết xảy ra trong truyện.
DÀN BÀI CƠ BẢN VĂN KỂ CHUYỆN
1. Mở đầu:
Thời gian, địa điểm, hoàn cảnh xảy ra câu chuyện, thường được bắt đầu bằng các từ như: Thuở xưa,ngày nọ, ở hôm nay, ngày xửa ngày xưa, hồi đó… Giới thiệu nhân vật chính của truyện.
2. Diễn biến:
– Các tình tiết diễn ra trong truyện cần phải được kể theo trình tự thời gian, việc gì diễn ra trước thì kể trước,việc gì diễn ra sau thì kể sau.
Khi kể các tình tiết diễn biến truyện cần kết hợp tả ngoại hình nhân vật, tả không gian, cảnh vật lúc diễn ra các tình tiết.
– Các hành động của nhân vật tạo nên các tình tiết diễn biến. Học sinh kể lần lượt các tình tiết này cho đến khi câu chuyện tiến đến hồi kết thúc. Diễn biến truyện đưa đến kết quảcủa truyện.
3. Kết thúc:
– Nêu kết quả việc làm của các nhân vật trong truyện.
– Nêu ý nghĩa của truyện kể.
– Rút ra bài học cho bản thân.
CÁC TIẾT LUYỆN TẬP
NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN
(Tiết 2-Tuần 1)
Mục tiêu:
• Nắm được nhân vật trong truyện kể là gì?
• Nhận xét được tính cách nhân vật trong truyện qua suy nghĩ, hành
động, cư xử của nhân vật.
• Phát triển, xây dựng tính cách nhân vật theo tình huống cho sẵn.
I. Nhân vật trong truyện:
a) Nhân vật là người:
– Nàng tiên ốc,bà lão (trong truyện “Nàng Tiên Ốc ”).
b) Nhân vật là con vật, là vật, cây cối… được nhân hoá như người:
– Lá, hoa, chim sẻ (truyện “Chiếc lá”).
– Chú Mèo, cô Chổi Rơm, bà Bếp, bác Nồi Đồng (truyện “Cái Tết của Mèo con”).
– Thần Giao Long (con rồng) – Tức bà lão ăn xin (truyện “Sự tích hồ Ba Bể ”).
II.Tính cách nhân vật:
a) Nhân vật trong truyện đi đứng, hoạt động song song diễn biến câu chuyện. Tính cách của nhân vật bộc lộ qua suy nghĩ, lời nói, cư xử của nhân vật.
Ví dụ: Truyện “Ba anh em ” (SGK Tiếng Việt 4, trang 19).
Nhân vật | Hành động | Tính cách |
|
Ni-ki-ta | Vội chạy ra ngõ hòa vào đám trẻ đang nô đùa. | Ham chơi. |
|
| Thấy vụn bánh mì trên bàn,liếc | Láu lỉnh, ham chơi |
|
Gô-sa | nhìn bà rồi phủi nhanh xuống đất chạy theo anh. | và lười nhưng biết che giấu. |
|
Chi-ôm-ca | Giúp bà lau bàn. Nhặt mấu vụn bánh mì cho chim ăn. | Chăm chỉ, biết giúp bà, có tính nhân hậu. |
b) Bài tập xâv dựng tính cách nhân vật theo tình-huống cho sẵn.
Cho tình huống sau: Một bạn nhỏ mải vui đùa, chạy nhảy, lỡ làm ngã một em bé. Em bé khóc.
Em hãy hình dung sự việc và kể tiếp câu chuyện theo một trong hai hướng sau:
– Bạn nhỏ biết quan tâm đến người khác.
– Bạn nhỏ không biết quan tâm đến người khác.
Yêu cầu bài:
• Học sinh viết ngắn gọn, diễn đạt được tính cách nhân vật, không dài dòng thành câu chuyện kể trọn vẹn.
• Tình huống cho sẵn có thể xảy ra ở bất cứ đâu: trong trường học, công viên, nơi côngcộng… Học sinh được chọn nơi chốn và phát triển tính cách nhân vật tùy ý phù hợp theo đề bài.
• Biết viết câu hội thoại.
BÀI LÀM 1
(Bạn nhỏ biết quan tâm đến người khác)
Đoạn văn mẫu.
Đoạn 1
Giờ ra chơi hôm qua chúng em chơi trò đuổi bắt. Long chạy nhanh quá va mạnh vào một em học sinh lớp một. Cả hai đều ngã lăn kềnh ra sân. Em bé òa lên khóc. Long lồm cồm ngồi dậy, vội vàng đỡ em bé đứng dậy, xuýt xoa:
– Em đau không? Anh xin lỗi nhé!
Vừa nói, Long vừa phủi bụi cát bám vào áo quần em bé. Long đưa tay xoa hai đầu gối của em bé:
– Em đau nhiều không? Anh dẫn em đến phòng Y tế xoa dầu nhé!
Được dỗ dành, em bé nín khóc và theo Long xuống phòng Y tế. Chúng em đều thở phào nhẹ nhõm khi cô y tá khám xong và khẳng định em bé không bị chấn thương. Bạn Long dễ thương ấy chứ, dù bạn ấy có lỗi nhưng là người có trách nhiệm.
Đoạn 2:
Chuyện xảy ra ở ngay hẻm nhà em vào chủ nhật vừa rồi. Mải chơi đùa, bạn Dũng va mạnh vào bé Anh đang chơi trên thềm nhà. Bé Anh ngã đau quá khóc ầm lên. Vội vàng, Dũng đỡ bé đứng dậy, phủi bụi và xoa nắn tay chân bé Anh:
– Nín đi bé! anh lỡ mà. Anh xin lỗi bé nhé! Để anh xoa dầu cho em nha.
Bé Anh thút thít rồi nín hắn,ngoan ngoãn chờ Dũng chạy vào nhà lấy dầu ra xoa lên chồ đau.
Đoạn 3
“Chạy đâu cho thoát. Ta là Nguyễn Siêu đây!”. Cả xóm chưa biết cậu nào làm Nguyễn Siêu thì nghe giọng một em bé khóc òa lên. Thì ra “Nguyễn Siêu” rượt bắt địch đã làm ngã đau một em bé đang tha thẩn chơi ở trước nhà. “Nguyễn Siêu’’ (là bạn Huân ở sát nhà em) vội vàng quăng cây kiếm nhựa, đỡ ngay em bé dậy: “Anh xin lỗi. Anh chạy nhanh quá làm em té rồi!”. Huân xoa nhè nhẹ hai chân bé,còn nựng vào mẹbé: Anh xin mà, lỡ mà. Nín đi cưng!”. Chà. “Nguyễn Siêu” dỗ em cũng giỏi, em bé nín khóc đưa tay chùi má. Huân dắt em bé vào nhà, lượm cây kiếm nhựa, vẫy tay chào em bé rồi chạy biến về nhà mình.
BÀI LÀM 2
(Bạn nhỏ không biết quan tâm đến người khác)
Đoạn văn mẫu:
Đoạn 1:
Giờ chơi sáng nay, khi chơi “cá sấu lên bờ”. Hùng xô vào một em học sinh lớp một. Em bé ngã phịch xuống đất, òa khóc. Chúng em chưa kịp xử trí gì thì Hùng sừng sộ:
– Ai cho đi vào chỗ này? Không thấy người ta đang chơi à!
Em bé càng khóc dữ. Học sinh các lớp khác đang chơi cũng dừng lại, tò mò nhìn chúng em. Em bảo Hùng:
– Bạn sai rồi. Dỗ em ấy nín di rồi mình chơi tiếp.
Vùng vằng, cau có. Hùng bảo:
– Bạn đi mà dỗnó. Tớ không chơi nữa!
Thương em bé ngã đau. Thực sự thấy có lỗi thay cho bạn và cũng sợ cô giáo phạt, em vội dỗ dành em bé nín khóc. Các bạn cũng phụ phủi quần áo cho bé. Hùng tệ thật, giờ chơi vui vì thế chẳng còn vui nữa.
Đoạn 2
Lũ trẻ cả xóm đang tụ tập chơi trong hẻm, đột nhiên mọi người nghe thấy tiếng xeđạp ngã rầm rồi giọng con nhà bác Thư khóc ầm lên. Thì ra Lâm mải chạy chơi trốn tìm xô vào em bé đang tập xe ba bánh. Cái ngã đau làm em bé khóc dữ. Thay vì đỡ em bé dậy. Lâm quát:
– Chỗ người ta chơi, sao tập xe ở đây?
Cảnh tượng một em bé ngã kềnh dưới đất đang khóc và một cậu bé mười tuổi nói năng khiếm nhã thật chướng mắt. Biết Lâm sai nên mấy bạn cùng chơi thay Lâm dỗ em bé. Còn Lâm thì lỉnh nhanh về nhà. Điều Bác Hồ dạy: “Khiêm tốn – Thật thà – Dũng cảm”, bạn ấy quên mất rồi.
Đoạn 3:
Công viên thoáng rộng là thế mà ồn ã cả lên vì đông trẻ con vui đùa. Cặp đấu kiếm ở góc kia loay hoay chống đỡ thế nào không biết, ngã uỳnh vào đám em bé đang “xây nhà” dưới đất. Một em khóc váng lên vì bị “đấu sĩ’ đè. “Đấu sĩ” lồm cồm bò dậy, sừng sộ:
– Không biết đây là võ đài của chúng tao à? Sao đem nhà cửa xây ở đây? Ai cho?
Nhìn công trình xây dựng bị đổ, em bé càng khóc dữ, tức tưởi:
– Em chơi ở đây hoài mà. Sao anh lại giành chỗ? Còn làm đau em nữa. “Đấu sĩ”thứ hai vội dồ dành, xin lỗi em bé rồi kéo bạn ra xa. “Dấu sĩ’ mộtcằn nhằn bạn,quăng cây kiếm nhựa rồi ngồi phịch xuống đất. Trận đấu kiếm phải dừng. “Đấu sĩ” một cư xử như vậy là sai. Chúng ta phải xin lỗi khi có lỗi. Phải không các bạn?
KỂ LẠI HÀNH ĐỘNG CỦA NHÂN VẬT
(Tiết 1 – Tuần 2)
Mục tiêu:
Học sinh biết chọn hành động tiêu biểu của nhân vật khi nhận xét và kể lại câu chuyện theo thứ tự.
I. Hành động của nhân vật:
Hành động của cậu bé trong truyện “Bùi văn bị điểm không” (SGK Tiếng Việt 4, tập 1, Trang 20).
Hànhđộng | Nộitâm thể hiện | |
– Không.Ta không viết gì hết. Nộp giấy trắng. | – Khôngbiết hình dáng bố đọc báo như thế nào vì cậu bé mồ côi bố từ lúc chào đời. | |
Làm thinh. | – Thật thà. buồn, không biết nói sao về việc mình bị mồ côi bố. | |
– Cúi đầu. Khóc lặng lẽ (hai hàng | – Tủi thân, buồn, không muốn tả ba | |
nước mắt chảy dài trên má). | của bạn. | |
| – Trung thực với chính bản thân và | |
| khi làm bài. | |
II. Thứ tự hành động của nhân vật
Khi kể lại hành động của nhân vật thì hành động nào xảy ra trước, các em kể trước; hành động nào xảy ra sau, các em kể sau.
III. Luyện tập
Chim Sẻ và Chim Chích là đôi bạn thân nhưng tính tình khác nhau. Chích xởi lới. hay giúp bạn. Còn sẻ thì đôi khi bụng dạ hẹp hòi.
Dưới dây là một số hành động của hai nhân vật ấy trong câu chuyện “Bài học quý”. Em hãy điền tên nhân vật (Chích hoặc sẻ) vào trước hành động thích hợp và sắp xếp các hành động ấy thành một câu chuyện:
1) Một hôm, … được bà gửi cho một hộp hạt kê.
2) Thế là hằng ngày … nằm trongtổ ăn hạt kê một mình.
3) ……..kiếm mồi, tìm được những hạt kê ngon lành ấy.
4) Khi ăn hết. ……. bèn quăng chiếc hộp đi.
5) … không muốn chia cho … cùng ăn.
6) … bèn gói cẩn thận những hạt kê còn sót lại vào một chiếc lá, rồi đi tìm người bạn thân của mình.
7) Gió đưa những hạt kê còn sót trong hộp bay xa.
8) ……vui vẻ đưa cho ……một nửa.
9) … ngượng nghịu nhận quà của … và tự nhủ “ đã cho mình một bài học quý về tình bạn”.
• Thứ tự các hành động trên được sắp xếp như sau:
1) Một hôm. Sẻ được bàgửi cho một hộp hạt kê.
5) Sẻkhông muốn chia cho Chích cùng ăn.
2) Thế là hằng ngày Sẻnằm trong tổ ăn hạt kê một mình.
4) Khi ăn hết. Sẻbèn quăng chiếc hộp đi.
7) Gió đưa những hạt kê còn sót lại bay xa.
3) Chích đi kiếm mồi. Tìm được những hạt kê ngon lành ấy.
6) Chích bèn gói cẩn thận những hạt kê còn sót lại vào một chiếc lá rồi đi tìm người bạn thân của mình.
8) Chích vui vẻ đưa cho Sẻmột nửa.
9) Sẻ ngượng nghịu nhận quà của Chích và tự nhủ: “Chích đã cho mình một bài học quý về tình bạn.”
TẢ NGOẠI HÌNH NHÂN VẬT TRONG BÀI VĂN KỂ CHUYỆN
(Tiết 2-Tuần 2)
Mục tiêu:
· Học sinh biết nhận xét tính cách hoặc thân phận của nhân vật qua ngoại hình của nhân vật trong truyện kể.
· Biết tả ngoại hình nhân vật khi làm văn kể chuyện.
I. Ngoạihình nhân vật là gì?
Những đặc điểm bên ngoài nhân vật như: áo quần, bộ tóc, khuôn mặt, vóc dáng là hình ảnh ngoại hình nhân vật. Những đặc điểm ngoại hình tiêu biểu nói lên tính cách của nhân vật và làm câu chuyện thêm sinh động, hấp dẫn.
II. Luyện tập:
(Bài tập 1 – SGK Tiếng Việt 4. tập 1, Trang 24)
1. Đoạn văn sau miêu tả ngoại hình của một chú bé liên lạc cho bộ đội trong kháng chiến, tác giả đã chú ýmiêu tả những chi tiết nào? Các chi tiết ấy nói lên điều gì về chú bé?
Chi tiết ngoại hình | Tính cách, thân phận thể hiện quangoại hình |
| |
Gầy,tóc búi ngắn. | Gọn gàng. |
Mặc một chiếc áo cánh nâutúi áo trỗ xuống tận đùi. Quần ngắn để lộbắp chân luôn động đậy. | Cậu bé có gia cảnh cơ hàn, nghèokhổ, mặc quần áo không vừa vócdáng mình. |
Tuổi nhỏ hiếu động nhanh nhẹn. | |
Mắt sángvà xếch. | Thông minh, gan dạ. |
2. Tả ngoại hình nhân vật trong bài văn kể chuyện.
Đề bài:Kể lại câu chuyện “Nàng tiên Ốc” kết hợp tả ngoại hình của các nhân vật.
Yêu cầu bài:
· Kể lại truyện “Nàng tiên Ốc”.
· Tả ngoại hình nhân vật khi kể lại truyện.
BÀI LÀM
Ngày xưa có một bà lão hiền lành, nghèo khổ, sống một mình không có con cháu để nương tựa. Bà đã già da nhăn nheo, người gây còm lưng đã còng, quần áo vá chằng vá đụp. Ngày ngày bà lặn lội ở ngoài đồng, mò cua bắt ốc để sinh nhai.
Một hôm, khi mò tay dưới bùn, bà bắt được một con ốc xinh xinh. Con ốc có vỏ màu xanh ánh bạc, sáng lấp lánh dưới ánh mặt trời. Nhiều người thấy con ốc đẹp muốn mua nhưng bà lão tự nhiên thấy thương ốc nên không bán. Bà đem con ốc thả vào chum nước ở hiên nhà. Hôm sau, bà lại tiếp tục ra đồng để mò cua bắt ốc. Chiều tối, bà về nhà thì cảnh nhà thật lạ: sân nhà sạch bóng, cỏ đã được bàn tay ai nhổ sạch cả rồi, lợn trong chuồng đã ăn no, ngủ kĩ. Trong nhà, cơm nước được dọn sẵn tinh tươm. Thấy chuyện lạ, bà tìm xem ai đã giúp mình. Mờ sáng, bà cắp rổ ra đồng, nhưng đi được nửa đường bà lẻn về núp ở bụi cây sát nhà, im lặng rình xem. Sân nhà yên ắng chẳng động tĩnh gì nhưng đột nhiên có một người con gái bước ra từ chum nước, nàng có khuôn mặt trái xoan, làm da trắng hồng, môi mọng tươi như son. Mái tóc nàng đen nhánh quấn quanh đầu. Nàng mặc một cái áo xanh óng ánh như màu vỏ ốc. Nàng tiên áo xanh ấy đi lại, dọn dẹp nấu cơm, cho lợn ăn nhẹ nhàng và nhanh thoăn thoắt. Bà lão ngây người ra nhìn nàng. Ánh mặt trời chiếu lên áo nàng lấp lánh màu vỏ ốc làm bà sực tỉnh. Bà rón rén đến cái chum nước đập vỡ vỏ ốc xanh, không cho nàng tiên chui vào nữa. Bà lão cầm tay nàng tiên, tha thiết nói:
– Bà già chẳng có ai nương tựa. Con hãy làm con gái ta nhé!
Từ đó, hai mẹ con sống bên nhau yêu thương đùm bọc, không rời nhau nửa bước.
KỂ LẠI LỜI NÓI, Ý NGHĨ CỦA NHÂN VẬT
(Tiết 1 – Tuần 3)
Mục tiêu:
• Học sinh nhận xét được ý nghĩ và lời nói của nhân vật nói lên tính cách nhân vật và ý nghĩa câu chuyện.
• Học sinh kể lại câu chuyện bằng lời dẫn trực tiếp hoặc bằng lời dẫn gián tiếp.
I. Lời nói, ý nghĩ của nhân vật:
Trong bài văn kể chuyện, để làm nổi bật tính cách nhân và nêu ý nghĩa của truyện kể thông qua cốt truyện, các em cũng cần kể lại lời nói, ý nghĩ của nhân vật. Có thể kể lại lời nói, ý nghĩ của nhân vật bằng lời dẫn gián tiếp hoặc trực tiếp. Đôi khi phải thay đổi ngôi xưng hô trong câu hội thoại để chuyển lời trực tiếp sang lời nói gián tiếp hay ngược lại.
II. Luyện tập:
l.Tìm lời dẫn trực tiếp và lời dẫn gián tiếp trong đoạn văn sau:
Ba cậu bé rủ nhau vào rừng. Vì mải chơi nên các cậu về nhà khá muộn. Ba cậu bàn nhau xem nên nói thế nào cho bố mẹ khỏi mắng. Cậu bé thứ nhất định nói dối là bị chó sói đuổi.
Cậu thứ hai bảo:
– Còn tớ, tớ sẽ nói là đang đi thì gặp ông ngoại.
– Theo tớ, tốt nhất là chúng mình nhận lỗi với bố mẹ! – Cậu thứ ba bàn.
(Tiếng Việt 2 – 1988)
Lời dẫn gián tiếp | Lời dẫn trực tiếp
|
– Cậu bé thứ nhất định nói dối là bị chó sói đuổi. | – Còn tớ, tớ sẽ nói là đang đi thì gặp ông ngoại. – Theo tớ, tốt nhất là chúng mình nhận lỗi với bố mẹ.
|
2. Chuyển lời dẫn gián tiếp trong đoạn văn sau thành lời dẫn trực tiếp:
Vua nhìn thấy những miếng trầu têm rất khéo bèn hỏi bà hàng nước trầu đó ai têm. Bà lão bảo chính tay bà têm. Vua gặng hỏi mãi, bà lão đành nói thật là con gái bà têm.
Truyện Tấm Cám.
• Chuyển lại là:
Vua nhìn thấy những miếng trầu têm rất khéo bèn hỏi bà hàng nước:
– Bà lão hãy cho ta biết trầu này do ai têm vậy?
Bà lão cung kính thưa:
– Muôn tâu bệ hạ, trầu này chính do tay già têm đấy ạ!
Nghi ngờ, vua gặng hỏi mãi, bà lão sụp xuống tâu lên:
– Tâu bệ hạ, xin ngài tha tội chogià. Trầu này do chính tay con gái già
têm ạ!
3. Chuyển lời dẫn trực tiếp trong đoạn văn sau thành lời dẫn gián tiếp:
Bác thợ hỏi Hoè:
– Cháu có thích làm thợ xây không?
Hòe đáp:
– Cháu thích lắm!
(Tiếng Việt 2 – 1988)
• Chuyển lại là:
Bác thợ hỏi Hoè là Hoè có thích làm thợ xây không. Hoè đáp ngay là Hoè rất thích nghề thợ xây.
BÀI VĂN LUYỆN TẬP
Kể lại lời nói, ý nghĩ của nhân vật.
Đề bài:Em hãy kể lại câu chuyện “Người ăn xin ” bằng lời văn của mình.
BÀI LÀM
Lúc ấy, Tuốc-ghê-nhép – nhà văn nổi tiếng người Nga, còn là một cậu bé, đang đi trên phố.Một người ăn xin già lọm khọm đứng ngay trước mặt cậu.
Đôi mắt ông lão đỏ đọc và giàn giụa nước mắt. Đôi môi tái nhợt, áo quần tả tơi thảm hại… Chao ôi! Cảnh nghèo đói, cơ hàn đã biến con người già nua kia thành xấu xí. Đau khổ biết nhường nào! Tuốc-ghê-nhép nhói lòng nghĩ.
Ông già chìa trước mặt cậu bé Tuốc-ghê-nhép bàn tay sưng húp, bẩn thỉu. Ông rên rỉ cầu xin cứu giúp. Giọng ông hổn hển, van lơn chẳng ra hơi.
Cậu bé Tuốc-ghê-nhép lục tìm hết túi nọ, túi kia nhưng chẳng có gì. Cậu chẳng có tài sản gì dù chỉ một chiếc khăn tay.
Người ăn xin vẫn đợi cậu, tay vẫn chìa ra. Vô cùng thương xót, cậu bé Tuốc-ghê-nhép nắm chặt bàn tay run rẩy, sưng húp kia, chân thành nói:
– Ông đừng giận cháu, cháu không có gì để cho ông cả.
Ông lão ăn xin nhìn cậu bé Tuốc-ghê-nhép chằm chằm bằng đôi mắt ướt đẫm. Đột nhiên đôi môi tái nhợt của ông lão nở nụ cười và bàn tay ông lão từ từ xiết chặt bàn tay cậu bé Tuốc-ghê-nhép. Ông già ăn xin nói bằng giọng khản đặc:
– Cháu ơi, cảm ơn cháu! Như vậy là cháu đã cho lão rồi.
Vỡ òa trong trái tim thơ ngây của cậu bé Tuốc-ghê-nhép một cảmxúc mãnh liệt: cậu hiểu rằng cả cậu nữa, cậu cũng vừa nhận được chút gì của ông lão.
CỐT TRUYỆN
(Tiết 1 – Tuần 4)
Mục tiêu:
• Học sinh nắm được cốt truyện là chuỗi sự việc làm nòng cốt cho diễn biến của truyện.
• Học sinh biết cấu trúc của truyện (còn gọi là kết cấu nội dung truyện).
• Học sinh biết sắp xếp các sự việc cho sẵn thành một cốt truyện và kể lại truyện dựa trên cốt truyện đó.
• Học sinh nắm được tác dụng của từng phần của cốt truyện.
I. Cốt truyện là gì?
Cốt truyện là chuỗi sự việc làm nòng cốt cho diễn biến của truyện.
Cốt truyện thường có ba phần:
• Mở đầu.
• Diễn biến.
• Kết thúc.
Tác dụng của từng phần:
Mở đầu:
– Giới thiệu thời gian, địa điểm câu chuyện xảy ra.
– Giới thiệu nhân vật trung tâm của truyện kể hoặc có thể cùng lúc giới thiệu tất cả nhân vật của truyện.
Diễn biến:
– Nêu các tình huống xảy ra trong truyện theo trình tự thời gian.
Kết thúc:
– Nêu kết quả của các diễn biến trên và ý nghĩa của truyện kể.
II. Nắm các sự việc chính để xây dựng cốt truyện (hoặc sự việc chính của một truyện kể):
Sự việc chính trong truyện “Dế Mèn bênh vực kẻ yếu”:
1) Dế Mèn gặp chị Nhà Trò đang than khóc một mình.
2) Chị Nhà Trò kể cho Dế Mèn nghe hoàn cảnh bi cực, bị bọn Nhện hiếp đáp của mình.
3) Dế Mèn ra tay cứu giúp Nhà Trò: đưa Nhà Trò đi gặp bọn Nhện.
4) Bọn Nhện giăng tơ trên đường về tổ Nhà Trò để bắt Nhà Trò ăn thịt. Dế mèn đòi gặp Nhện chúa.
5) Dế Mèn ra oai và thuyết phục bọn Nhện phải bỏ ý định đòi nợ, hiếp đáp Nhà Trò.
6) Bọn Nhện sợ hãi, dẹp dây tơ đã chăng. Nhà Trò thoát nạn.
III. Luyện tập
Bài tập 1:
Truyện cổ tích “Cây Khế” bao gồm các sự việc chính sau đây:
a) Chim chở người em bay ra đảo lấy vàng, nhờ thế người em trở nên giàu có.
b) Cha mẹ chết, người anh chia gia tài, người em chỉ được cây khế.
c) Người anh biết chuyện, đổi gia tài của mình lấy cây khế, người em bằng lòng.
d) Cây khế có quả, chim đến ăn, người em phàn nàn và chim hẹn trả ơn bằng vàng.
e) Chim lại đến ăn, mọi chuyện diễn ra như cũ, nhưng người anh may túi quá to và lấy quá nhiều vàng.
f) Người anh bị rơi xuống biến và chết.
• Cốt truyện cây khế:
1) Cha mẹ chết, người anh chia gia tài. Người em chỉ được cây khế.
2) Cây khế có quả, chim đến ăn, người em phàn nàn và chim hẹn trả ơn bằng vàng.
3) Chim chở người em bay ra đảo lấy vàng, nhờ thế người em trở nên giàu có.
4) Người anh biết chuyện, đổi gia tài của mình lấy cây khế, người em bằng lòng.
5) Chim lại đến ăn, mọi chuyện diễn ra như cũ, nhưng người anh may túi quá to và lấy quá nhiều vàng.
6) Người anh bị rơi xuống biển và chết.
Bài tập 2.Dựa vào cốt truyện trên, kể lại truyện “Cây Khế”.
BÀI LÀM
Ngày xưa, có hai anh em nhà kia, cha mẹ mất sớm để lại cho chút ít của cải. Khi chia gia tài, người anh chỉ chia cho em trai mỗi một cây khế còn mình thì giữ tất cả ruộng vườn, nhà cửa. Người em ra sức chăm bón cây khế.
Đến mùa khế chín, một con chim to, đuôi dài, lông sặc sỡ, từ đâu bay đến, ăn hết khế chín. Người em than vãn:
– Ta chỉ có một cây khế bán trái, đổi lấy chút gạo nuôi thân, sao chim nỡ ăn hết khế của ta vậy? Ta lấy gì mà sinh sống đây?
Lạ thay, chim cất tiếng nói với người em:
– Ăn khế trả vàng, may túi ba gang, mang đi mà đựng.
Nói xong chim bay đi. Người em y theo lời chim dặn, may một cái túi ba gang chờ chim đến. Hôm sau, chim bay đến, đậu trên mặt đất, sà cánh, hạ thấp cổ xuống ra hiệu cho người em ngồi lên lưng. Người em leo lên lưng chim. Chim vụt bay đi, mang người em băng qua núi cao, đồng rộng, biển sâu. Cuối cùng chim đáp xuống một hòn đảo vắng. Trên đảo, đất đá toàn bằng vàng. Vàng bạc, trân châu chất đống. Người em lấy số vàng đủ túi ba gang. Chim lại chở người em trở về túp lều có cây khế rồi bay đi mất. Nhờ số vàng đó, người em trở nên giàu có. Người anh hay chuyện bèn đem đổi tất cả nhà cửa, ruộng vườn của mình cho người em để đổi lấy cây khế. Người em bằng lòng. Thế là người anh ngày ngày chăm sóc cây khế, chờ chim đến. Đen mùa khế chín, chim lại đến ăn. Người anh cũng phàn nàn, rên rỉ với chim. Chim cũng hẹn với người anh là chim ăn khế sẽ đền trả bằng vàng. Người anh rắp tâm may một cái túi chín gang để đựng được nhiều vàng. Hôm sau, chim y hẹn đến chở người anh ra đảo vàng. Người anh bèn chặt vàng đầy túi chín gang, còn bỏ thêm ngọc ngà châu báu vào áo quần rồi cũng leo lên lưng chim để chim chở về đất liền. Chim bay qua biển rộng mấy lần chao cánh vì
người anh mang vàng quá nặng. Sức chim mỗi lúc một yếu dần, nghiêng hẳn không giữ được người anh trên lưng. Thế là người anh lăn tòm xuống biển cùng túi vàng nặng. Thật đáng đời kẻ tham lam.
LUYỆN TẬP XÂY DỰNG CỐT TRUYỆN
(Tiết 2 -Tuần 4)
Mục tiêu:
• Học sinh xây dựng được cốt truyện với nhân vật và tình huống cho sẵn.
• Học sinh kể lại câu chuyện do chính các em xây dựng cốt truyện một các mạch lạc, sinh động, hấp dẫn.
Luyện tập xây dựng cốt truyện:
Đề bài:Hãy tưởng tượng và kể lại vắn tắt một câu chuyện có ba nhân vật: bà mẹ ốm, người con bằng tuổi em và một bà tiên.
Gợi ý:
1) Có thể xây dựng cốt truyện với ba nhân vật đề bài cho thành câu chuyện về lòng hiếu thảo.
2) Có thể xây dựng cốt truyện với ba nhân vật đề bài cho thành câu chuyện về trung thực, tự trọng.
3) Có thể xây dựng cốt truyện với ba nhân vật đề bài cho thành câu chuyện về chủ để tính kiên trì, nhẫn nại, quả cảm.
4) Có thể xây dựng cốt truyện với ba nhân vật đề bài cho thành câu chuyện có chủ đề bao hàm cả ba chủ đề trên: hiếu thảo, trung thực, kiên trì, nhẫn nại, quả cam.
Chú ý:
• Viết vắn tắt,không dài dòng.
• Các em xây dựng cốt truyện với ba nhân vật đề cho thành câu chuyện mang chủ đề nào cũng cần kết thúc truyện kể theo hướng bà tiên giúp đỡ người con chăm sóc mẹ khỏi bệnh.
BÀI LÀM 1
(Chủ đề về lòng hiếu thảo)
Xưa, có hai mẹ con nghèo khổ kia sống ở một làng nọ. Bà mẹ lam lũ cấy thuê gặt mướn nuôi con. Người con là một cô bé lên mười, chăm học, cơm nước giặt giũ đỡ đần cho mẹ. Vì gắng sức lao động, bà mẹ ốm nặng. Cô bé hết lòng chăm sóc mẹ sớm hôm không quản một việc gì. Cô bé còn ra đồng phụ người lớn đem mạ để kiếm ít tiền vì cô còn bé quá, chưa cấy được. Người mẹ ngày một bệnh nặng. Nhà có chút tiền dành dụm cũng không đủ thuốc thang. Đi phụ đếm mạ về, cô bé tất tả lo cho mẹ ăn cháo, uống thuốc.
Xong việc, cô lựa lưng vào chân giường lòng thầm cầu nguyện Trời, Phật giúp mẹ khỏi bệnh. Bỗng một bà tiên hiện ra nơi ngưỡng cửa. Bà đến bên giường bệnh, vuốt tóc cô bé rồi đưa cho cô một gói thuốc bột. Bà tiên dặn:
– Hòa thuốc này với nước sôi để nguội rồi cho mẹ uống ngay. Ta thương con là một đứa con hiếu thảo nên đến giúp con đó.
Cô bé lạy tạ bà tiên, ngẩng đầu lên thì bà đã biến mất. Cô vội vàng hòa thuốc cho mẹ uống. Kì diệu thay, mẹ cô ngồi ngay dậy, người khỏe khoắn như chẳng có bệnh gì. Cô bé thuật lại cho mẹ biết chuyện bà tiên đến giúp đỡ ra sao. Hai mẹ con quỳ xuống tạ ơn bà tiên. Hai mẹ con lại sống hạnh phúc như xưa.
BÀI LÀM 2
(Chủ đề về tính trung thực)
Ở một thị trấn nhỏ có hai mẹ con cậu bé kia sống trong một cái nhà gỗ ọp ẹp. Bà mẹ làm thuê để kiếm tiền nuôi con. Cậu bé học lớp bốn chăm ngoan, hiền hậu. Công việc nặng nhọc khiến bà mẹ ngày một gầy ốm rồi ngã bệnh. Cậu bé hết lòng chăm sóc mẹ và thay mẹ đi làm ở chỗ mẹ cậu đã làm. Vì cậu sức yếu nên cậu chỉ được chút tiền lương. Mẹ cậu bệnh ngày một nặng. Cậu bé gom góp số tiền ít ỏi, ra phố mua cho mẹ thang thuốc tốt hơn. Cậu đi nhanh trên con đường vắng thì thấy một túi xách bị đánh rơi. Có lẽ cái túi rơi nặngnên miệng túi toác ra để lộ những xấp tiền dày cộm. Cậu ngẩng phẳt đầu lên nhìn về phía trước chỉ thấy một bà lão chống gậy đang đi chầm chậm.Số tiền này không phải là ít – cậu nghĩ thầm – rồi ôm lấy cái túi, chạy tất tả theo bà cụ:
– Bà ơi! Bà đánh rơi túi xách này.
Bà lão dừng ngay lại, đưa mắt nhìn cậu có ý hỏi. Cậu bé thở hổn hển:
– Thưa bà, cái túi xách này là của bà, phải không ạ?
Bà lão cười hiền hậu:
– Quả con là đứa trò thật thà, hiếu thảo. Ta là tiên, chờ con ở đây để thử lòng con đó.
Bà lão đưa cho cậu một gói nhỏ dặn:
– Con hòa thuốc này cho mẹ uống. Chỗ tiền này ta cho con mang về giúp mẹ mở một cửa hàng nhỏ. Con về ngay đi.
Dứt lời. Bà lão biến mất. Cậu quỳ xuống lạy tạ bà tiên rồi chạy như bay về nhà.
Mẹ cậu khỏi bệnh và nhờ số tiền của bà tiên giúp, mở một tiệm tạp hóa, không phải làm thuê gánh mướn nữa. Hai mẹ con sống lương thiện, hạnh phúc bên nhau.
BÀI LÀM 3
(Chủ đề về lòng quả cảm)
Ở một làng chài ven biển, có một cậu bé đang chăm sóc mẹ bị ốm nặng. Đã đủ thứ thuốc thang mà mấy tháng ròng trôi qua, mẹ cậu vẫn chưa đỡ bệnh.
Có người mách cậu rằng trên hòn đảo xa kia có loại táo đỏ có thể cứu sống mẹ cậu. Không phân vân, cậu bé lên đường tìm loại táo đó. Cậu đi nhờ bằng thuyền lớn rồi cập bờ bằng thúng câu, vượt qua bao sóng to, gió dữ, đến hòn đảo chẳng có một bóng người, chỉ thấy mênh mông san hô ven bờ như ngăn người bước đến. Cậu cố sức đặt bàn chân lên lối đi hẹp, men đến chỗ san hô đo đỏ. Lối đi lởm chởm đá nhọn chọc thủng giày làm chân cậu rướm máu. Đây rồi! Cây táo đỏ đây. Cậu đưa tay toan ngắt lấy táo thì gốc táo tự dưng chĩa ra muôn nghìn gai nhọn đâm vào tay cậu đau điếng, rồi một bà tiên áo đỏ hiện ra. Cả cười:
– Người muốn lấy vị thuốc quý này phải tự cắt tay mình để máu chảy vào gốc mới được cho táo đỏ. Con có dám làm điều đó không?
Không chút ngần ngại, cậu bé rút con dao nhíp bên mình, ấn sâu vào lòng bàn tay. Máu chảy từ tay cậu tưới lên gốc táo. Lạ lùng sao. Gai của táo rụng đi và nhánh táo tự rơi vào tay cậu. Vết cắt tay cũng tự lành ngay. Bà tiên chỉ tay ra biển:
– Táo đỏ chỉ dành cho người con nào dũng cảm và hiếu thảo. Con đúng là một người con như vậy. Bây giờ con hãy trở về nhà nhanh lên!
Một chiếc, thuyền có cánh buồm đỏ thắm đã đậu sát chân bờ chờ cậu. Cậu bé lạy tạ bà tiên, thuyền đưa cậu thoáng chốc về đến nhà. Mẹ cậu ăn táo, bà hồi phục nhanh chóng. Cậu bé sung sướng sà vào lòng mẹ. Mẹ cậu ôm lấy cậu. Bây giờ không có gì có thể chia cắt hai mẹ con cậu nữa.
BÀI LÀM 4
(Chủ đề bao quát cả tính hiếu thảo, kiên trì, quả cảm)
Ở cái làng chài cheo leo bên vách núi có một mái nhà tranh. Trong nhà người mẹ vót nan đan giỏ để đổi gạo nuôi con. Cậu con lên mười tuổi, học giỏi và chăm làm.
Một chiều dầm mưa, bà mẹ ốm nặng. Cậu chăm sóc mẹ đã lâu mà mẹ cậu vẫn nằm li bì không sao gượng dậy. Nghe người mách trên đỉnh núi cao có bà tiên có thuốc cứu người, cậu lên đường đến nhà bà tiên. Cậu băng qua rừng rậm, suối sâu, leo lên vách núi cheo leo, gót chân rướm máu,quần áo rách bươn thì đến được ngôi nhà của bà tiên. Bên trong ngôi nhà vắng lặng chẳng có ai. Cậu tần ngần chưa biết làm gì thì nghe một giọng nói khẽ vang lên:
– Hãy nhặt hạt dẻ và đậu xanh trong cái thúng để trên bàn riêng ra, khi nào con nhặt xong thì thuốc của mẹ con mới được ta làm xong. Nếu con nhặt chậm, ta elà mẹ con không qua khỏi đó!
Cậu bé đến bàn, bắt đầu nhặt hạt dẻ và hạt đậu. Canh cánh lo mẹ ở nhà đang chờ thuốc cứu, cậu bé nhặt đậu mỗi lúc một nhanh hơn. Khi hạt dẻ cuối cùng đã được đặt vào thúng, một bàn tay ấm áp đặt lên vai cậu, bà tiên thuốc đưa cho cậu một gói nhỏ và dịu dàng bảo:
– Con thật hiếu thảo, có lòng quả cảm và biết nhẫn nại. Đây là thuốc của mẹ con.
Cậu bé đưa hai tay nhận gói thuốc, lạy tạ bà tiên và trở về. Bà tiên thu ngắn đường về nhà. Loáng cái, cậu đã về tới nhà. Cậu hòa thuốc cho mẹ uống. Mẹ cậu khỏi ngay. Hai mẹ con lại sống hạnh phúc bên nhau.
ĐOẠN VĂN TRONG BÀI VĂN KỂ CHUYỆN
(Tiết 2 – Tuần 5)
Mục tiêu:
• Học sinh nhận biết được dấu hiệu quy định của một đoạn văn.
• Học sinh biết viết một đoạn văn để thể hiện một hay nhiều sự việc diễn biến trong câu chuyện.
I. Thế nào là đoạn văn trong bài văn kể chuyện?
Trong truyện kể (hoặc một câu chuyện thực tế xảy ra) có thể gồm nhiều sự việc diễn ra hoặc chỉ có một sự việc. Mỗi sự việc được kể lại, diễn giải bằng một đoạn văn. Cũng có khi hai sự việc diễn ra liên tiếp được diễn giải bằng một đoạn văn.
Truyện “Những hạt thóc giống” có các đoạn văn sau:
Đoạn | Nội dung sự việc |
Đoạn 1: “Ngày xưa…. trừng phạt.” | – Vua phát thóc cho dân trông và hẹn sẽ truyền ngôi cho người thu hoạch nhiều nhất. |
Đoạn 2: “Có chú bê… nảy mầm.” | – Cậu bé Chôm ra công chăm sóc nhưng thóc không nảy mầm. |
Đoạn 3: “Đến vụ…. của ta. “ | – Chôm thú nhận thóc không nảy mầm. Nhà vua cho biết thóc giống đã luộc kĩ nhằm để vua tìm được người có tính trung thực, dũng cảm. |
Đoạn 4: “Rồi vua …hiển minh. “ | – Chôm được nhà vua truyền ngôi. |
II. Dấu hiệu quy định khi viết một đoạn văn:
Khi viết hết một đoạn văn. Các em cần chấm xuống dòng.
III. Luyện tập:
Dưới đây là ba đoạn văn được viết theo cốt truyện “Hai mẹ con và bà tiên “, trong đó có hai đoạn đã hoàn chỉnh còn một đoạn chỉ có phần mở đầu và phần kết thúc. Hãy viết tiếp phần còn thiếu:
BÀI LÀM
a) Ngày xưa, ở làng kia, có hai mẹ con cô bé sống trong một túp lều. Họ làm lụng vất vả quanh năm mới đủ ăn.
b) Một hôm,người mẹ không may bị bệnh nặng. Cô bé ngày đêm chăm sóc mẹ nhưng bệnh mẹ ngày một nặng thêm. Có người mách:
– Ở vùng bên có ông thầy thuốc giỏi chữa được bệnh này!
Cô bé nhờ bà con hàng xóm trông nom mẹ, ngay hôm ấy lên đường.
c) Vừa đi, cô bé hiếu thảo vừa lo mấy đồng bạc mang theo không đủ trả tiền thuốc cho mẹ. Bỗng cô thấy bên đường có vật gì như chiếc tay nải ai bỏ quên. Cô bé nhìn về phía trước đường, chỉ thấy bóng dáng một bà lão đang chống gậy di thong thả. Cô chắc tay nải này là của bà lão. Cô tất tả chạy theo: Bà ơi! Bà bỏ quên tay nải phải khôngạ?
Bà lão cười hiền hậu:
Khen cho con đã hiếu thảo lại thật thà. Ta chính là tiên thử lòng con đấy thôi. Con thật đáng được giúp đỡ. Hãy đưa ta về nhà chữa bệnh cho mẹ con!
• Có thể hoàn chỉnh đoạn văn bằng nhiều ý sau:
1) Tay nải được làm bằng vải gấm, chắc chủ của nó là người giàu có. Cô bé nhìn về phía trước đường, chỉ thấy một bà lão mặc cái áo thụng có màu đúng màu vài gấm tay nải. Chắc chắn đây là chủ nhân của tay nải rồi. Cô bé túm lấy tay nái, vội vàng chạy theo bà cụ:
– Bà ơi! Bà bỏ quên tay nải đây phải không ạ?
2) Chiếc tay nải cột không kín để lộ những xấp tiền dày cộm. Cô bé nghĩ: “Ai mất số tiền này chắc phải khổ sở lắm.”‘. Cô nhìn lên đường chỉ thấy một bà lão đang đi chậm phía trước. Cô bé xách tay nải, chạy theo bà lão:
– Bà ơi. Chờ con với, bà bỏ quên tiền đây này!
3) Miệng tay nải để hở lộ ra những thỏi vàng óng ánh. Tay nải này chắc cua bà lão ăn mặc sang trọng đi phía trước. Nghĩ vậy cô bé nhanh nhẹn cột lại tay nải, rồi chạy theo bà cụ:
– Bà ơi, hà bỏ quên tay nải phải không ạ?
LUYỆN TẬP XÂY DỰNG ĐOẠN VĂN KỂ CHUYỆN
(Tiết 2 – Tuần 6)
Mục tiêu:
• Dựa vào hình ảnh và tình tiết cho sẵn. Học sinh viết được đoạn văn.
• Học sinh biết liên kết các đoạn văn đã viết thành cốt truyện.
• Viết bài văn kể chuyện một cách mạch lạc dựa trên đoạn văn và cốt truyện vừa xây dựng kết hợp tả ngoại hình nhân vật, mô tả vật dụng và khung cảnh nơi xảy ra câu chuyện.
I. Cốt truyện “Ba lưỡi rìu”:
1) Có chàng tiều phu hàng ngày kiếm củi trong rừng. Một hôm chàng đang đốn củi thì lưỡi rìu văng ra rơi xuống sông.
2) Bỗng một cụ già hiện ra hứa sẽ vớt rìu giúp. Chàng tiều phu vui mừng lạy tạ cụ già.
3) Cụ già lặn xuống sông. Lần thứ nhất, cụ vớt lên một lưỡi rìu bằng vàng. Chàng tiều phu nhận ra lưỡi rìu này không phải của mình.
4) Cụ già lặn xuống sông lần thứ hai. Lần này cụ trồi lên mang theo một lưỡi rìu bằng bạc. Chàng tiều phu không nhận lưỡi rìu bạc.
5) Cụ già lặn xuống sông lần thứ ba. Lần này cụ đem lên đúng lưỡi rìu sắt của chàng tiều phu. Chàng vui mừng xác nhận đúng là lưỡi rìu của mình.
6) Cụ già khen chàng tiều phu thật thà và tặng cho chàng ca hai lưỡi rìu vàng và bạc.
II. Dựa vào ý của từng hình ảnh, phát triển thành đoạn văn:
Học sinh nhìn vào tranh (SGK) phát triển ý của mỗi tranh và viết thành đoạn văn.
Chú ý: Các em cần miêu tả ngoại hình nhân vật (ông tiên, chàng tiều phu), mô tả đồ vật (lưỡi rìu vàng, lưỡi rìu bạc), tả khung cảnh (cây to, mặt nước sông).
Hình 1….Đoạn 1:
Ngày xưa có một chàng tiều phu khỏe mạnh, quanh năm suốt tháng chàng chỉ mặc độc có một chiếc quần cộc. Chàng tiều phu nghèo khổ nhưng chăm làm. Hằng ngày kiếm củi trên rừng để nuôi thân. Một hôm, chàng đang đốn một cây to thì lưỡi rìu văng ra, rơi tõm xuống sông.
Hình 2…..Đoạn 2:
Sông sâu. Chàng tiều phu không biết lặn đành rầu rĩ ngồi khóc. Bỗng, trên mặt nước sông mờ hơi sương, một cụ già râu tóc bạc phơ, mặc một cái áo thụng màu xanh nước biển hiện ra cạnh chàng. Cụ già hứa sẽ vớt giúp cậu lưỡi rìu. Chàng trai vui mừng cảm tạ ông lão.
Hình 3 ….Đoạn 3:
Cụ già lặn xuống sông. Thoáng chốc, cụ trồi lên mặt nước, tươi cười giơ lên một lưỡi rìu bằng vàng. Lưỡi rìu vàng sáng lấp lánh dưới ánh mặt trời. Chàng tiều phu thưa:
– Thưa cụ. lưỡi rìu này không phải của con.
Hình 4 ….. Đoạn 4:
Cụ già lặn xuống sông lần thứ hai. Một lát sau, cụ già nhô lên khỏi mặt nước, tay giơ cao một lưỡi rìu bằng bạc. Lưỡi rìu bạc sáng lóa dưới ánh nắng mai. Chàng tiều phu xua tay thất vọng:
– Thưa cụ, lưỡi rìu này cũng không phải của con ạ!
Hình 5……..Đoạn 5:
Cụ già gật gù ra ý vui lòng lặn xuống lần nữa. Chàng tiều phu ngồi trên bờ sông chờ đợi. Lần này, cụ già mang lên một lưỡi rìu sắt. Chàng tiều phu mừng rỡ reo to:
– Thưa cụ, đúng là lưỡi rìu của con đây rồi!
Hình 6 ……. Đoạn 6:
Cụ già cười hiền từ:
– Ta là thần sông ở đây thử xem tính tình con thế nào. Con quả thật thà, rất đáng khen. Ta cho con cả hai lưỡi rìu vàng bạc này để con có vốn sinh nhai.
Chàng tiều phu vui mừng lạy tạ cụ già. Cụ già biến mất. Dòng sông tĩnh lặng như cũ. Chàng tiều phu nhờ hai lưỡi rìu vàng và bạc ấy, sống sung sướng hơn xưa.
LUYỆN TẬP XÂY DỰNG ĐOẠN VĂN KỂ CHUYỆN
(Tiết 1 – Tuần 7)
Mục tiêu:
• Học sinh biết viết bổ sung các phần còn thiếu của một đoạn văn để hình thành ý và đoạn văn hoàn chỉnh.
• Học sinh nắm được kết cấu một đoạn kể chuyện dù nhỏ cũng có ba phần: mở đầu, diễn biến, kết thúc.
I. Cốt truyện “Vào nghề”:
1) Va-li-a được bố mẹ cho đi xem xiếc. Tiết mục “Có gái phi ngựa đánh đàn” đã làm cho Va-li-a mơ ước trở thành trở thành diễn viên biểu diễn tiết mục ấy.
2) Va-li-a xin vào rạp xiếc để học nghề. Em được giao quét dọn chuồng ngựa.
3) Va-li-a quét dọn chuồng ngựa, làm quen với chú ngựa và học phi ngựa.
4) Va-li-a trở thành diễn viên tiết mục “Có gái phi ngựa đánh đàn”.
II.Luyện tập:
Bạn Hà viết thư cả bốn đoạn của câu chuyện trên nhưng chưa viết được đoạn nào hoàn chỉnh. Em hãy giúp bạn hoàn chỉnh một trong các đoạn ấy:
a) Đoạn 1:
– Mở đầu: Giáng sinh năm mười một tuổi, Va-li-a được bố mẹ dẫn đi xem xiếc.
– Diễn biến: Tiết mục “Cô gái phi ngựa đánh đàn” do một cô bé trạc tuổi Va-li-a biểu diễn. Cô bé diễn viên xinh xắn, tài giỏi ấy đã thu hút được khán giả, nhất là Va-li-a.
– Kết thúc: Từ đó, lúc nào trong trí óc non nớt của Va-li-a cũng hiện lên hình ảnh cô diễn viên phi ngựa, đánh đàn. Em mơ ước một ngày nào đó cũng được như cô – phi ngựa và chơi những bản nhạc rộn rã.
b) Đoạn 2:
– Mở đầu: Rồi một hôm, rạp xiếc thông báo cần tuyển diễn viên. Va-li-a xin bố mẹ cho ghi tên học nghề.
– Diễn biến: Ông giám đốc rạp xiếc nhận ngay Va-li-a vào học nghề và giao cho em việc quét dọn chuồng ngựa. Va-li-a rất ngạc nhiên nhưng cô bé im lặng đồng ý.
– Kết thúc: Bác giám đốc gật đầu cười, bảo em: “Công việc của diễn viên phi ngựa, đánh đàn bắt đầu như thế đấy, cháu ạ. Cái tháp cao nào cũng phải xây từ mặt đất lên.”.
c) Đoạn 3:
– Mở đầu: Va-li-a bắt đầu học nghề diễn viên bằng việc quét chuồng ngựa và chăm sóc chú ngựa biểu diễn.
– Diễn biến; Những ngày đầu, Va-li-a rất bỡ ngỡ. Có lúc em nản chí. Nhưng cứ nhớ đến hình ảnh cô diễn viên phi ngựa, em lại thấy phấn chấn lên.
– Kết thúc: Một thời gian sau, cô bé đã quen việc, còn chú ngựa thì xem Va-li-a như một người bạn.
d) Đoạn 4:
– Mở đầu: Sau một thời gian chăm chỉ tập luyện, Va-li-a đã trở thành diễn viên tiết mục “Cô gái phi ngựa đánh đàn”.
– Diễn biến: Cứ mỗi lần Va-li-a bước ra sàn diễn, những tràng vỗ tay nồng nhiệt lại vang lên,chỉ trong nháy mắt, cô đã đứng trên lưng ngựa, tay ôm cây vĩ cầm. Rồi tiếng đàn cất lên. Vẻ thán phục lộ rõ trên khuôn mặt từng khán giả.
– Kết thúc: Thế là mơ ước trở thành diễn viên xiếc của Va-li-a trở thành hiện thực.
LUYỆN TẬP PHÁT TRIỂN CÂU CHUYỆN
(Tiết 2 – Tuần 7)
Mục tiêu: Dựa vào nhân vật vật và tình huống đề bài cho, học sinh sắp xếp diễn biến câu chuyện theo trình tự thời gian và kể lại chuyện đó.
Đề bài:Trong giấc mơ, em được một bà tiên cho ba điều ước và em đã thực hiện cả ba điều ước đó. Hãy kể lại câu chuyện ấy theo trình tự thời gian.
I.Phân tích đề bài:
1. Yêu cầu của đề:
Kể lại một câu chuyện trong giấc mơ. Biết dẫn truyện và liên hệ giữa mơ và hiện thực. (Bà tiên cho ba điều ước và đã thực hiện)
– Nhân vật của câu chuyện trong mơ: bà tiên, em, những nhân vật khác (nếu có) trong việc thực hiện ba điều ước.
2. Giớihạn đề:
– Bà tiên cho ba điều ước.
– Ba điều ước đã được thực hiện.
– Kể lại việc bà tiên đến, cho điều ước. Thực hiện điều ước theo trình tự thời gian.
3. Liên hệ giữa mơ và hiện thực:
– Em nghĩ gì khi thức giấc? Em làm gì để điều ước trong mơ có thể trở thành hiện thực.
BÀI LÀM 1
Chủ nhật, em giúp mẹ phơi quần áo, lau nhà và nấu ăn. Cơm nước và rửa chậu bát xong, em khoan khoái ngã mình lên chiếc ghế dài nghỉ trưa.
Bỗng một bà tiên khoác chiếc áo trắng ngà có đính những hạt bạch ngọc lấp lánh bước vào nhà. Bà tiên có đôi mắt hiền từ và đôi môi đỏ như môi của công chúa Bạch Tuyết. Bà dịu dàng xoa đầu em:
– Con ngoan lấm. Biết giúp mẹ thế này là tốt. Ta thương cho con ba điều ước. Con có mong ước gì thì hãy nói với ta!
Nghĩ đến mẹ buôn bán tảo tần ở chợ xa, em ước mẹ có một cửa hàng nhỏ tại nhà. Thương bố vất vả đi làm từ sớm tới khuya mới về, phải đón xe buýt cực nhọc, em ước bố có một chiếc xe gắn máy cho tiện dụng. Bà em tuổi già hay bệnh và ho hoài. Em ước bà được hồng hào, khỏe mạnh và đứt những cơn ho.
Gian nhà em bỗng trở thành tiệm tạp hóa, bác bán hàng là mẹ em. Bà em mọi khi vẫn nằm trên giường trong buồng, bước ra giục em lo cơm chiều vì bố sắp đi làm về. Bà hồng hào, tươi tỉnh. Em sung sướng cầm tay bà:
– Bà ơi. Bà khỏe rồi hả bà?
Bố đi làm về. Cả nhà vui vẻ vì những câu chuyện bố kể. Bố cười to quá làm ánh sáng trắng do tà áo bạch ngọc của bà tiên phát ra vụt tắt. Em choàng tính dậy. Hoá ra, tất cả chỉ là một giấc mơ.
Em cố gắng học tập giỏi để sau này có nghề nghiệp vững vàng. Em sẽ dành dụm tặng ba mẹ một cửa tiệm tạp hoá như đã ước trong mơ. Còn bà, em sẽ chăm sóc bà thật tốt hơn nữa, để bà thoải mái, mau chóng khỏi bệnh.
BÀI LÀM 2
Hoàng hôn buông nhanh xuống mái nhà. Em dọn sạch nhà cửa, chuẩn bị cơm nước, học bài xong mà bố mẹ vẫn chưa về. Mưa lâm râm làm em bồn chồn ngóng bố mẹ.
Em nhìn ra cửa, lạ chưa, một bà tiên áo xanh đứng đó tự bao giờ. Bà tiên có khuôn mặt trái xoan, bàn tay trắng muốt thon dài như bàn tay của nghệ sĩ dương cầm. Bà tiên đến bên em mỉm cười, dịu dàng bảo:
– Con ngoan lắm. Ta cho con ba điều ước và con nhớ chỉ ước đúng ba điều thôi nhé!
Điều thứ nhất em mong trời ngừng mưa để ba mẹ đi làm về không bị ướt. Điều ước thứ hai em mong mẹ khỏi bệnh đau lưng. Điều thứ ba em mong em trở thành người lớn để giúp đỡ bố mẹ. Thoáng chốc, cả ba điều ước đều được thực hiện. Tiếng chuông gọi cửa làm em choàng tỉnh. Hoá ra đó chỉ là giấc mơ.
Ba mẹ em đi làm về không bị ướt mưa. Trời đã tạnh từ lúc nào. Một trong ba điều ước bà tiên tặng đã trở thành hiện thực. Em sẽ cố gắng giúp đỡ mẹ bớt công việc nhà và học giỏi để biến hai điều ước còn lại thành hiện thực.
LUYỆN TẬP PHÁT TRIỂN CÂU CHUYỆN
(Tiết 1 – Tuần 8)
Mục tiêu:
• Học sinh biết viết đúng quy định từng phần của đoạn văn trong truyện kể.
• Học sinh nắm được trình tự sắp xếp trong đoạn văn, nhận biết được câu mở đầu trong đoạn văn và vai trò của nó.
• Học sinh biết kể lại câu chuyện các em đã học, đã đọc hay đã chứng kiến theo diễn biến trình tự thời gian.
I. Viết câu mở đầu cho đoạn văn:
Bài tập: Dựatheo cốt truyện “Vào nghề”, hãy viết lại câu mở đầu cho từng đoạn văn.
BÀI LÀM
Câu mở đầu cho từng đoạn văn trong truyện kể “Vào nghề” có thể viết lại như sau:
Đoạn 1:
Giáng sinh năm ấy, Va-li-a tròn mười một tuổi. Cô bé được bố mẹ đưa đi xem xiếc.
Đoạn 2:
Rồi rạp xiếc treo bảng tìm diễn viên. Va-li-a xin bố mẹ cho em học nghề diễn viên xiếc.
Đoạn 3:
Ngày ngày, Va-li-a dọn chuồng ngựa sạch sẽ và làm bạn với chú ngựa diễn.
Đoạn 4:
Sau một thời gian học tập, rèn luyện, Va-li-a trở thành diễn viên xiếc.
II. Quy định sắp xếp của đoạn văn. Vai trò của câu mở đầu trong đoạn văn:
1) Các đoạn văn được sắp xếp theo trình tự thời gian: việc xảy ra trước kể trước, việc xảy ra sau kể sau.
2) Các câu mở đầu của đoạn văn có vai trò thể hiện sự tiếp nối về thời gian và để nối đoạn văn sau với đoạn văn trước đó.
III. Luyện tập:
Kể lại một câu chuyện em đã học (qua bài tập đọc, kể chuyện, tập làm văn), trong đó, các sự việc được sắp xếp theo trình tự thời gian.
Phân tích đề bài:
1) Yêu cầu:
– Kể một câu chuyện đã học (được chọn tùy ý trong chương trình đã học).
– Truyện kể không bắt buộc theo chủ đề nhất định.
– Nội dung câu chuyện phải được sắp xếp theo trình tự thời gian.
2) Giới hạn đề:
– Các câu chuyện kể nằm trong chương trình tập đọc, kể chuyện, tập làm văn đã học từ trước, không chọn kể chuyện đọc ngoài chương trình học.
BÀI LÀM 1
(Gà Trống và Cáo)
Trong khu nọ, có một anh Gà Trống rất tinh khôn và một gã Cáo xảo quyệt, ranh ma.
Một lần,gặp Gà Trống đứng vắt vẻo trên cành, Cáo tính kế bắt Gà Trống để ăn thịt. Cáo đon đả nói với Gà Trống:
– Chào anh bạn quý, mời anh xuống đây để tôi thông báo tin tốt lành này: muông thú trong rừng này từ rày sẽ kết thân nhau. Chúng ta không săn bắt lẫn nhau. Đây qua là một hạnh phúc lớn. Tôi xin được hôn anh để bày tỏ tình thân và lòng sung sướng của mình!
Gà Trống biết: “Gã Cáo chỉ lừa phỉnh mình để chộp mà nhai thôi. Gã Cáo quả che giấu dã tâm của mình bằng lời phủ dụ lịch sự. Ta phải cho gã Cáo rơi cái mặt nạ giả dối này mới được!”. Nghĩ vậy,Gà Trống từ tốn đáp:
– Xin cảm ơn anh đã nhọc công thông báo tin tốt lành. Gà và Cáo sống chung quả là chuyện chưa từng có trên đời. Tin mừng này thật sự đáng trân trọng, sửng sốt. Kìa, ở trên ngọn cây cao này, tôi nhìn thấy cặp chó săn đang chạy lại đây, chắc là để loan tin này.
Nghe đến chó săn, gã Cáo hồn xiêu phách lạc, quắp đuôi, chạy biến vào rừng sâu.
Gà Trống cất tiếng cười khoái chí:
– Rõ là nhà người dối trá ta mà mắc mưu ta. Cáo ơi, mày có khôn ngoan xảo quyệt cũng không làm gì được ai đâu vì không ai dám nghe lời ngon ngọt của một kẻ ranh ác như mày.
BÀI LÀM 2
(Sự tích hồ Ba Bể)
Hồi xưa, ở xã Nam Mầu, tỉnh Bắc Kạn nước ta có mở lễ hội cúng Phật. Mọi người trong làng nô nức đi dự lễ, ai nấy cũng đều cung kính dâng hương, dâng quả để cầu phúc.
Hôm ấy,ở đám hội,bỗng có một bà lão ăn xin không biết từ đâu đến. Bà lão gầy còm,lở loét, khoác một manh áo rách tơi tả. Người bà toát mùi hôi thối, mắt bà kèm nhèm. Bà lão vừa chống gậy vừa phều phào: “Đói lắm, cầu xin các ông các bà cho già chén cháo.”. Bà lão ăn xin ấy lê chân đến đâu, người ta xua đuổi bà đến đó. Bà rời đám hội đi lần vào làng. May sao, đến ngã ba đường, bà già ăn xin ấy gặp hai mẹ con bà góa cấy xong đám ruộng đang sửa soạn về nhà. Thấy thương tình cảnh của bà lão, mẹ con bà góa đưa bà lão về nhà rồi nhường phân cơm ít ỏi của mình cho bà lão ăn. Sập tối, hai mẹ con bà góa sửa soạn đi ngủ thì bà lão ăn xin gõ cửa xin ngủ nhờ. Nhà chỉ có một manh chiếu nên mẹ con bà góa dồn vào ngủ trong nhà để bà lão nằm ở chõng tre trước hiên nhà. Nửa đêm, tính giấc, bà góa thấy trước hiên nhà sáng rực, lấy làm lạ, bà bước ra xem. Bà góa rụng rời khi nhìn thấy trên chiếc chõng tre là một con Giao Long to lớn đang nằm ngủ, đầu gác lên xà nhà. Đuôi trải trên chõng tre thòng xuống tận đất. Bà góa sợ quá vào nhà nằm im chờ sáng. Trời hửng sáng, bà góa ra khỏi giường, bà chẳng thấy con Giao Long đâu cả. Trên chõng tre, bà lão ăn xin ngồi đó hiền lành như chưa có chuyện gì lạ đêm hôm. Bà lão ăn xin gọi bà góa đến rồi bảo: “Chúng nó thờ Phật mà kì thực chỉ buôn Phật. Chúng nó phải bị trừng phạt. Chỉ có mẹ con nhà bà biết thương người cùng khổ, bệnh tật. Thương mẹ con bà hiền lành, ta cho bà gói tro này đem rắc xung quanh nhà. Hãy cất giữ thức ăn lúa gạo phòng khi lũ lụt lớn xảy ra.”. Bà góa tần ngần thưa: “Còn mọi người có việcgì thì làm sao cứu giúp?”. Bà lão ăn xin thò tay vào túi áo lấy ra hai mảnh vỏ trấu đưa cho bà góa: “Khen cho bà có lòng thiện. Hai mảnh vỏ trấu này sẽ giúp hai mẹ con bà cứu người!”. Nói xong, bà lão biến mất. Đêm hôm ấy, lễ hội cúng Phật càng đông người đi lễ. Đang lúc lễ hội nghi ngút hương khói thì đột nhiên giữa sân vọt lên một vòi nước. Tia nước phun ngày một mạnh. Tưởng là phép thần của Trời, Phật, người ta càng quỳ sụp lạy xin. Tia nước ngày một phun mạnh hơn, nước chảy lênh láng, dâng ngập khắp nơi. Tia nước to lên rồi làm mặt đất sụp lở, lũ dữ dội cuốn phăng tất cả. Đêm đó, mưa to gió lớn bẻ gãy cây rừng, đất lở ầm ầm, nước phủ mênh mông. Lạ lùng sao, nước dâng đâu, nhà bà góa dâng cao đến đấy. Đau xót trước cảnh người, vật bị cuốn phăng, mẹ con bà góa đem hai mảnh vỏ trấu ra. Vừa thả xuống nước, hai mánh vỏ trấu lập tức biến thành hai chiếc thuyền. Hai mẹ con bà góa chèo thuyền đi cứu vớt người bị nạn.
Chỗ đất lở do thần Giao Long phạt dân trở thành cái hồ lớn ngày nay chính là hồ Ba Bể. Còn nhà bà góa chính là cái gò cao giữa hồ, người ta đặt tên cho gò đất ấy là Gò Bà Góa.
LUYỆN TẬP PHÁT TRIỂN CÂU CHUYỆN
(Tiết 2 – Tuần 8)
Mục tiêu:
• Học sinh biết kể lại câu chuyện theo trình tự thời gian (có thể dùng lời dẫn gián tiếp).
• Học sinh biết kể lại câu chuyện khi nhiều sự việc xảy ra theo trình tự không gian.
• Phân biệt được trình tự các sự việc trong khi kể chuyện, biết dùng từ ngữ nối hai đoạn (chuyển ý khi dẫn chuyện).
I. Kể chuyện theo thứ tự trình tự thời gian:
Đề bài:Dựa theo nội dung trích đoạn kịch “Ở vương quốc tương lai” (bài tập đọc. tuần 7). Hãy kể lại câu chuyện ấy theo trình tự thời gian.
Chú ý:“Vương quốc tương lai” là đoạn kịch trích dẫn. Cuối đoạn kịch này không có lời dẫn hay đối thoại cho phần kết. Các em cần nắm nội dung đoạn kịch thể hiện ước mơ của con người vô một thế giới tương lai hạnh phúc. Thế giới đó được thực hiện do các em bé tương lai. Do đó, phần kết của câu chuyện này học sinh tự viết theo lời người dẫn truyện.
BÀI LÀM 1
(Kể chuyện bằng lời dẫn trực tiếp)
Tin-tin và Mi-tin được bà tiên giúp đỡ đã đến thăm Vươngquốc tương lai.
Hai bạn lần lượt đi thăm các nơi. Đầu tiên Tin-tin và Mi-tin đến thăm Côngxưởng xanh. Hai bạn gặp những em bé sắp ra đời có những máy móc mà hiện nay Trái Đất chưa có. Tin-tin trông thấy một cái máy giống như đôi cánh, cậu hỏi Em bé thứ nhất:
– Cậu đang làm gì với đôi cánh xanh ấy?
Em bé thứ nhất trả lời:
– Mình sẽ dùng nó vào việc sáng chế trên Trái Đất.
Tin-tin hỏi:
– Cậu sáng chế cái gì?
Em bé thứ nhất cho Tin-tin biết là em sẽ chế tạo ra một vật làm cho con người hạnh phúc. Mi-tin không nén nổi tò mò:
– Vật đó ăn ngon chứ? Nó có ồn ào không?
Em bé thứ nhất bảo:
– Nó không ồn ào. Mình chế sắp xong rồi, cậu muốn xem không?
Tin-tin thích thú:
– Có chứ! Nó đâu?
Lúc ấy, Em bé thứ hai chen vào:
– Cậu có muốn xem vật mình sáng chế không?
Tin-tin nói ngay:
– Có chứ! Cái gì đấy?
Em bé thứ hai vui vẻ:
– Có ba mươi vị thuốc trường sinh ở kia, trong những chiếc lọ xanh.
Tin-tin và Mi-tin thấy chung quanh mình nhiều máy sáng chế, dược phẩm,chai lọ. Liền lúc ấy, em bé thứ ba từ trong đám đông đi ra. Người em tỏa một thứ ánh sáng lạ thường, em bé nói:
– Mình mang đến một thứ ánh sáng mà chưa ai biết cả. Thật kì lạ, phải không?
Em bé thứ tư kéo tay Tin-tin:
– Hãy lại đây xem cái máy của mình này, nó biết bay trên không như một con chim,
Tin-tin chưa kịp nói gì thì Em bé thứ năm bảo:
– Khoan đã. Cậu hãy xem cái máy của mình trước đã. Nó biết dò tìm những kho báu còn giấu kín trên Mặt Trăng.
Sau khi xem hết các loại máy móc, Tin-tin và Mi-tin đến thăm khu vườn kì diệu. Nho ở đây to lạ lùng, mỗi trái nho to bằng một trái lê hiện nay. Tin-tin buột miệng:
– Chùm lê đẹp quá!
Em bé cầm nho nói đúng hơn là treo nho trên đầu cây gậy – bảo em đã tìm ra cách trồng và chăm sóc nho to như vậy và còn cho biết kết quả nghiên cứu của em chỉ được công bố khi em ba mươi tuổi. Một em bé khác bê một sọt qua giốngquả táo nhưng to như quả dưa hấu dến. Tin-tin liền hỏi:
– Dưa đỏ, phải không cậu?
Em bé cầm táo trả lời:
– Không, táo đấy! Nhưng đây chưa phải là loại to nhất đâu. Khi mình ra đời,mình sẽ giúp mọi người trồng những loại táo to như thế này.
Chưa hết ngạc nhiên trước những quả táo to như dưa hấu, Tin-tin và Mi-tin thấy một em bé đẩy chiếc xe chất đầy những quá dưa to như quả bí đỏ. Em vừa đi vừa giới thiệu:
– Đây là sản phẩm của mình.
Tin-tin dè dặt nói:
– Mình như bao giờ thấy những quả bí đỏ to như thế này!
Em bé giải thích:
– Không phải bí đỏ đâu. Đây là dưa. Khi mình ra đời, mình sẽ trồng những quả dưa to như thế này nè!
Vương quốc tương lai là một thế giới hạnh phúc do các em bé tương lai xây dựng. Tin-tin và Mi-tin trở về thế giới hiện thực với tâm trạng vui vẻ, yêu đời và tin tưởng một tương lai loài người sẽ hạnh phúc hơn nhiều.
• Các em có thể kể câu chuyện trên bằng lời dẫn gián tiếp, như thế bài văn kể chuyện sẽ ngắn gọn hơn. Khi kể bằng lời dẫn gián tiếp, các em chỉchọn dẫn các câu nói tiêu biểu của các nhân vật, không nhất thiết phải dẫn hết tất cả các câu nói.
BÀILÀM 2
(Kể chuyện bằng lời dẫn gián tiếp)
Được sự giúp đỡ của bà tiên, Tin-tin và Mi-tin đến thăm Vương quốc tương lai.
Trước tiên hai bạn đến thăm Công xưởng xanh. Ở đây sản xuất các loại máy móc, thuốc men cho thế giới tương lai do các em bé sắp ra đời sáng chế. Tin-tin trông thấy một cái máy như đôi cánh xanh, cậu lấy làm thắc mắc thì được em bé thứ nhất cho biết em dùng máy đó để chế tạo một vật làm cho con người hạnhphúc. Mi-tin chỉ cảm nhận hạnh phúc khi ăn. Cái tính háu ăn làm cậu ta hỏi liền xem vật đó ăn có ngon không, có ồn ào không? Em bé thứ nhất mời hai bạn xem vật đó và cho biết nó không ồn ào gì cả. Tin-tin háo hức đòi xem nhưng chưa kịp xem thì em bé thứ hai chen vào. Em bé ấy muốn cho hai bạn xem sáng chế của mình: đó là ba mươi vị thuốc trường sinh đặt ở những cái lọ xanh. Đặc biệt là em bé thứ ba mang theo một thứ ánh sáng lạthường chưa ai biết cả. Em bé thứ tư kéo tay Tin-tin khoe một thứ máy biết bay như một con chim. Liền lúc ấy, em bé thứ năm cho hai bạn xem một thứ máy biết dò tìm các kho báu còn giấu kín trên Mặt Trăng.
Rời Công xưởng xanh, hai bạn tham quan khu vườn kì diệu. Các em bé ở đây lần lượt cho hai bạn xem các loại quả do các em sẽ thực hiện. Em bé trồng nho có những quả nho to như quả lê, to đến nỗi phải treo trên đầu gậy mang đi. Công trình đó chỉ được công bố khi em đó ba mươi tuổi. Mi-tin lạ lẫm vô cùng khi thấy quả táo to như quả dưa hấu thì được em bé trồng táo cho biết còn có quả to hơn nữa vì đây chưa phải là loại to nhất. Chưa hết kinh ngạc vì táo, hai bạn lại sửng sốt trước những quả dưa to như quả bí đỏ được em bé có dưa vừa giới thiệu sản phẩm của mình, vừa giải thích cho hai bạn.
Tin-tin và Mi-tin đã được tham quan những thành tựu mới của Vương quốc tương lai. Hai bạn trở về thế giới hiện thực với một niềm tin con người sẽ sống hạnh phúc hơn trong tương lai nhờ vào các phát minh kì diệu của các em bé sắp ra đời.
II. Kể chuyện theo trình tự không gian
Đề bài:Giả sử các nhân vật Tin-tin và Mi-tin trong câu chuyện “Ở vương quốc tương lai” không cùng nhau lần lượt đi thăm Công xưởng xanh và Khu vườn kì diệu mà cùng lúc mỗi người tới thăm một nơi. Em hãy kể lại hướng đó.
Chú ý giới hạn đề bài:
• Tin-tin và Mi-tin mỗi bạn đến thăm một nơi. Nghĩa là hai chuỗi sự việc cùng diễn ra trong một thời điểm. Thế nghĩa là hành động và lời nói của mỗi bạn chỉ có thể diễn ra ở một nơi, nơi bạn đó đang hiện diện. Trong trường hợp này, để đảm bảo sự việc xảy ra ở mỗi nơi được kể lại đầy đủ, có thể nhắc đến người vắng mặt bằng sự liên tưởng của người đang hiện diện hoặc để cho nhân vật hiện diện nhắc đến người vắng mặt như một người tham dự sự việc ở vị trí thứ ba trong truyện kể.
BÀI LÀM 1
(Dùng lời dẫn trực tiếp)
Tin-tin và Mi-tin đến thăm Vương quốc tương lai với sự giúp đỡ của bà tiên.
Để rút ngắn thời gian hoàn thành sứ mạng của mình, hai bạn chia nhau đi thăm mỗi người một nơi. Tại Công xưởng xanh, Tin-tin nhìn thấy một cái máy giống như đôi cánh màu xanh. Chẳng biết cái máy dùng làm gì, Tin-tin hỏi em bé thứ nhất:
– Cậu làm gì với cái máy trông như đôi cánh này?
Em bé thứ nhất trả lời:
– Mình sẽ dùng nó để chế tạo ra một thứ máy làm cho người ta hạnh phúc hơn!
Tin-tin nghĩ đến hạnh phúc của Mi-tin khi Mi-tin được ăn no. Chắc là có nó ở đây thế nào nó cũng thắc mắc “cái máy hạnh phúc” có ăn được không. Tin-tin đang nghĩ ngợi thì em bé thứ nhất mời:
– Cậu có muốn xem cái máy ấy không?
Tin-tin nhanh nhẹn đáp:
– Có chứ! Nó đâu?
Liền lúc ấy em bé thứ hai hỏi Tin-tin:
– Cậu có muốn xem phát minh của mình hay không?
Tin-tin nói ngay:
– Có chứ, cái gì thế?
– Đó là ba mươi vị thuốc trường sinh trong những cái lọ xanh kia! – Em bé thứ hai bảo.
Giữa đám đông, em bé thứ ba bước ra mang theo một thứ ánh sáng kì lạ:
– Mình mang đến một thứ ánh sáng lạ thường đúng không?
Chưa hết, em bé thứ tư kéo tay Tin-tin:
– Hãy xem cái máy biết bay như chim của mình đây.
Em bé thứ năm cũng tranh thủ nói về sáng chế của mình:
– Khoan đã. Cậu hãy xem cái máy dò tìm những kho báu còn giấu trên Mặt Trăng của mình đã.
Trong lúc Tin-tin đến thăm Công xưởng xanh thì Mi-tin cũng thăm Khu vườn kì diệu. Mi-tin gặp một em bé treo chùm nho trên đầu cây gậy. Mỗi trái nho to như trái lê. Cái mũi thính của Mi-tin biết ngay đây là nho nhưng chắc gặp Tin-tin thì thế nào cậu ấy cũng buột miệng: “Chùm lê đẹp quá!”. Quả đúng như Mi-tin đoán, em bé có nho tự hào khoe:
– Nho đấy! Khi nào mình ra đời mình sẽ trồng những quả nho to như thế này. Phát minh này chỉ được công bố khi mình ba mươi tuổi thôi!
Mi-tin thấy những quả táo to như những quả dưa hấu chất đầy trên xe đẩy, Mi-tin ngớ ngẩn hỏi:
– Dưa đỏ, phải không?
– Không phải. Táo đấy – Em bé có táo trả lời – nhưng chưa phải là quả táo to nhất đâu. Khi nào ra đời, mình sẽ giúp mọi người trồng những quả táo to như thế này.
Chưa hết ngạc nhiên, Mi-tin thấy một em bé đẩy một xe, quả nào quả nấy to như quả bí đỏ. Em bé vừa đi vừa giới thiệu:
– Sản phẩm của mình đấy: dưa đỏ. Khi mình ra đời mình sẽ trồng dưa to như vậy nè.
Cả Tin-tin và Mi-tin trở về thế giới hiện thực cùng một lúc. Hai bạn trao đổi thông tin cho nhau và cùng đồng ý là tương lai con người sẽ sống hạnh phúc hơn nhờ những em bé sắp ra đời rất thông thái ở Vương quốc tương lai.
BÀI LÀM 2
(Dùng lời dẫn gián tiếp)
Trên đường tìm đến xứ sở có con Chim Xanh làm thuốc cứu bệnh cho một người bạn hàng xóm, Tin-tin và Mi-tin được bà tiên giúp đỡ, hai bạn đến Vương quốc tương lai.
Tin-tin đến thăm Công xưởng xanh. Cậu nhìn thấy một cái máy có hình giống như đôi cánh xanh. Còn đang thắc mắc thì cậu được Em bé thứ nhất cho biết đó là phát minh của em, em bé sẽ dùng cái máy ấy để sản xuất một thứ máy làm cho con người hạnh phúc hơn. Nhớ là Mi-tin luôn cho hạnh phúc là khi được ăn no, Tin-tin nghĩ nếu có Mi-tin ở đây thì cái tính háu ăn sẽ khiến cậu ta bật hỏi ngay là cái máy ấy có ăn được không rồi có ồn ào không cho mà xem. Tin-tin hào hức muốn biết xem cái máy ấy thế nào nên hỏi Em bé thứ nhất cái máy đó ở đâu. Liền đó, Em bé thứ hai cho Tin-tin xem sáng chế của em: đó là ba mươi vị thuốc đựng trong những cái lọ xanh. Rồi đột nhiên, Em bé thứ ba đi ra khỏi đám đông, em mang theo một thứ ánh sáng lạ thường. Em bé thứ tư kéo tay Tin-tin để cho Tin-tin xem một thứ máy biết bay như chim. Em bé thứ năm còn có một thứ máy tối tân hơn nữa, máy đó có thể dò tìm kho báu trên Mặt Trăng.
Cùng lúc với Tin-tin thăm Công xưởng xanh, Mi-tin khám phá nhiều thứ quả to dị thường ở Khu vườn kì diệu. Nào là nho to như quả lê, không cầm nổi, phải treo trên đầu cây gậy. Nho to và giống lê thế này thế nào Tin- tin cũng sửng sốt tưởng là lê rồi khen lê đẹp cho mà coi – Mi-tin nghĩ thầm. Em bé có nho bảo là em sẽ giúp mọi người trồng nho to như thế này nhưng chỉ khi nào em ba mươi tuổi thôi. Rồi Mi-tin trông thấy em bé đẩy xe đầy những quả táo to như những quả dưa đỏ, nó khiến cậu bật hỏi xem phải là dưa đỏ không. Em bé có dưa đỏ vui vẻ giải thích đó là táo. Em còn nhắc thêm đó chưa phải là loại táo to nhất, còn có loại táo to hơn đó nữa. Chưa hết kinh ngạc vì táo. Mi-tin nom thấy một chiếc xe đẩy chất đầy dưa nhưng quả nào quả nấy to như quả bí đỏ. Tin-tin có mặt ở đây thì cậu ấy nói gì nhỉ? Mi-tin chắc chẳng dám chắc là dưa vì dưa đâu có tỏa mùi như nho. Mi-tin chẳng thể thông báo cho Tin-tin cảm nhận mùi của mình được thì Tin-tin chắc phải hỏi thăm dè dặt xem đó có phải là bí đỏ không. Mi-tin không phải nghĩ ngợi lâu, cậu được em bé có dưa giải thích ngay đây là dưa chứ không phải là bí đỏ.
Như đã hẹn trước, hai bạn trở về thế giới hiện thực ngay khi xem xong những điều kì thú của Vương quốc tương lai. Hai bạn đều hết lời khen các em bé sắp ra đời thật thông thái. Cả hai đều tin tưởng con người sẽ hạnh phúc hơn trong tương lai.
III. Luyện tập:
Cách kể chuyện trong bài tập 2 có gì khác với cách kể chuyện trong bài tập 1.
Điểm phânbiệt | Bàitập 1 | Bài tập 2 |
a) Về trình tự sắpxếp của sự việc | – Kể theo trình tự thời gian. | – Kể theo trình tự không gian. |
b) Về những từngữnối hai đoạn.
| – “Sau khi tham quan Công xưởng xanh, hai bạn đến khu vườn kì diệu”. – “Rời Công xưởng xanh, hai bạn đến Khu vườn kì diệu.’’ | – “Trong lúc Tin-tin thăm Công xưỏng xanh thì Mi-tin thăm Khu vườn kì diệu”. – “Cùng lúc với Tin-tin thăm Công xưởng xanh, Mi-tin khám phá Khu vườn kì diệu.” |
LUYỆN TẬP PHÁT TRIỂN CÂU CHUYỆN
(Tiết 1 – Tuần 9)
Mục tiêu:
• Biết chuyển nội dung kịch sang chuyện bằng lời dẫn gián tiếp.
• Kể lại chuyện theo phân đoạn gợi ýở SGK.
I. Đọc trích đoạn “Yết Kiêu”:
(SGK Tiếng Việt 4, tập 1, Trang 91 – 92)
II.Dựa vào đoạn kịch, hãy kể lại câu chuyện “Yết Kiêu”.
BÀI LÀM
Giặc Nguyên sang xâm lược nước ta. Trước cảnh nước mất nhà tan. Yết Kiêu quyết định đầu quân diệt giặc.
Chàng thưa cha cho mình lên kinh đô để yết kiến đức vua, xin vua cho cống hiến tài năng của mình giúp quân dân diệt giặc. Cha chàng tần ngần không muốn cho chàng đi vì ông tàn tật. Có mỗi mụn con là Yết Kiêu. Hiểu tâm trạng của cha. Nhưng nước mất thì nhà tan. Yết Kiêu thuyết phục cha cho mình lên kinh đô. Cha Yết Kiêu hiểu ýchí của con, vui lòng để chàng ra di.
Yết Kiêu đến kinh đô, chàng ra mắt vua Trần Nhân Tông. Nhà vua vui mừng tiếp nhận chàng và cho chàng chọn binh khí. Yết Kiêu chỉ xin một chiếc dùi sắt. Đức vua rất ngạc nhiên, ngài hỏi Yết Kiêu dùng loại binh khí đơn giản ấy để làm gì. Yết Kiêu tâu vua biết là chàng có biệt tài lặn hàng giờ dưới nước. Vì thế chàng sẽ đục thủng thuyền giặc, làm thuyền giặc đắm mà chúng không hề hay biết. Kinh ngạc và mừng rỡ, Vua Trần hồi Yết Kiêu ai đã dạy chàng tài nghệ phi thường ấy. Yết Kiêu tự hào tâu lên vua rằng ông chacủa chàng cha truyền con nối đều có biệt tài này vì ông của Yết Kiêu là một người yêu nước và căm thù giặc sâu sắc. Đức vua cho đúc ngay dùi sắt để Yết Kiêu nhanh chóng ra trận.
Trong khi ấy,tại quê nhà, người cha già thân yêu của Yết Kiêu mong ngóng và tin tưởng, chờ ngày con trai thắng trận trở về.
MỞ BÀI TRONG VĂN KỂ CHUYỆN
(Tiết 2-Tuần 11)
Mục tiêu:
• Học sinh nhận biết phần mở đầu trong bài văn kể chuyện.
• Học sinh biết viết mở bài trực tiếp hoặc mở bài gián tiếp cho bài văn kể chuyện.
I.Cách nhận biết phần mở đầu trong bài văn kể chuyện:
Người kể chuyện có thể kể ngay vào sự việc mở đầu câu chuyện (mở bài trực tiếp) hoặc nói chuyện khác để dẫn vào câu chuyện định kể (mở bài gián tiếp).
Phương pháp viết mở bài:
1) Viết mở bài trực tiếp:
Thực hiện một trong các cách sau:
a) Giới thiệu ngay nội dung sự việc đầu tiên câu chuyện kể để bắt đầu chuỗi sự việc của câu chuyện.
b) Giới thiệu ngay nhân vật chính của truyện.
c) Bắt đầu câu chuyện bằng các từ như: Một hôm, ngày xưa, hồi đó, ở, tại…
2) Viết mở bài gián tiếp:
Thực hiện một trong các cách sau:
a) Nói một vấn đề khác có ý nghĩa tương tự để dẫn vào câu chuyện định kể.
b) Nêu hoàn cảnh xuất phát câu chuyện rồi bắt đầu dẫn chuyện, kể chuyện.
c) Nêu bật tính cách nhân vật chính rồi bắt đầu kể sự việc thứ nhất của câu chuyện.
Mở bài trong truyện kể “Rùa và Thỏ”
Trời thu mát mẻ. Trên bờ sông, một con rùa đang cố sức tập chạy. (Mở bài trực tiếp)
II. Cách mở bài sau đây có gì khác với cách mở bài nói trên?
Trong muôn loài, rùa vốn nổi tiếng là chậm chạp, còn thỏ thì chạy nhanh như bay. Thế mà có một con rùa dám chạy thi với thỏ và thắng cả thỏ. Vì sao có chuyện ngược đời như vậy? Sau đây, em xin kể đầu đuôi câu chuyện ấy. (Mở bài gián tiếp)
III. Luyện tập:
1) Đọc các mở bài sau và cho biết đó là những cách mởbài nào?
a) Có một con rùa sống bên sông. Biết mình chậm chạp nên hôm nào cũng vậy, vừa sáng sớm tinh mơ, nó đã ra bờ sông tập chạy. (Mở bài trực tiếp)
b) Xưa nay, người cậy tài cậy giỏi mà chủ quan, biếng nhác thì chẳng làm nên việc gì. Ngược lại sức có kém nhưng quyết tâm, nhẫn nại ắt thành công. Câu chuyện “Rùa và Thỏ” chứng minh điều đó. (Mở bài gián tiếp)
c) Đầu năm học vừa qua,lớp em có mấy bạn vì chủ quan, lười biếng nên kết quả học tập sút kém hẳn so với hồi lớp ba. Cô giáo bèn kể chuyện “Rùa và Thỏ” để khuyên các bạn phải cố gắng, chăm chỉ. Câu chuyện này như sau: (Mở bài gián tiếp)
d) Trong loài thú, mấy ai chạy nhanh bằng loài thỏ chúng tôi? Thấy bóng dáng chúng tôi trên đường đua thì hươu, nai còn phải kiêng dè, chưa nói gì tới bác trâu hay chị lợn. Thế mà có lần thỏ tôi phải ngậm đắng nuốt cay chịu thua anh chàng rùa nổi tiếng lù đù, chậm chạp. Câu chuyện ấy dạy cho tôi một bài học nhớ đời. Đầu đuôi thế này: (Mở bài gián tiếp)
2) Câu chuyện sau đây mởbài theo cách nào?
Hai bàn tay
Hồi ấy, ở Sài Gòn, Bác Hồ có một người bạn tên là Lê.
Một hôm, Bác Hồ hỏi bác Lê:
– Anh có yêu nước không?
Bác Lê trả lời:
– Có chứ!
– Anh có thể giữ bí mật không?
– Có!
– Tôi muốn đi ra nước ngoài xem Pháp và các nước khác họ làm như thế nào. Sau đó, trở về giúp đồng bào chúng ta. Nhưng đi một mình cũng mạo hiểm. Anh có muốn đi với tôi không?
Bác Lê sửng sốt:
– Nhưng chúng ta lấy đâu ra tiền mà đi?
– Đây, tiền đây!
Vừa nói. Bác Hồ vừa giơ hai tay ra và tiếp:
– Chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi. Anh đi với tôi chứ?
Theo Trần Dân Tiên
• Mở bài của truyện kể:
Hồi ấy, ở Sài Gòn. Bác Hồ có một người bạn tên là Lê. (Mở bài trực tiếp)
3) Kể lại phần mởđầu câu chuyện trên theo cách mở bài gián tiếp: (có nhiều cách sau)
•Bằng lời của người dẫn chuyện:
1) Khi còn là thanh niên, Bác Hồ luôn luôn canh cánh tìm kiếm con đường cứu nước nhà ra khỏi xiềng xích bảo hộ của thực dân Pháp. Lúc ấy, Bác Hồ đang ở Sài Gòn. Khi quyết định ra nước ngoài tìm hiểu về con đường cứu nước, Bác Hồ thuyết phục một người bạn thân của mình cùng đi. Người đó là bác Lê. .
2) Tất cả chúng ta ai cũng mong muốn có người bạn thân cùng chia sẻ mọi vui buồn trong cuộc sống, trong sự nghiệp và trong lý tưởng cuộc đời. Bác Hồ của chúng ta khi ra đi tìm đường cứu nước cũng mong muốn có người đi cùng. Người bạn mà Bác Hồ thuyết phục ra đi lúc ấy chính là bác Lê.
3) Bác Hồ, vị lãnh tụ cách mạng lỗi lạc của chúng ta đã ra đi tìm đường cứu nước tại cảng Nhà Rồng – Sài Gòn. Bác đã dấn thân trên con đường cách mạng chỉ với nghị lực của chính mình và sự làm việc khéo léo, kiên trì của đôi bàn tay. Người biết được ý định ra đi tìm đường cứu nước của Bác lúc ấy chính là bác Lê, một người bạn thân của Bác Hồ.
4) Bác Hồ kính yêu của chúng ta là một tấm gương sáng chói về nghị lực phi thường và sức lao động nhẫn nại. Chúng em học tập điều đó trong câu chuyện kể về Bác: chuyện “Hai bàn tay” Chuyện viết về cuộc trao đổi giữa Bác Hồ và người bạn tên Lê của Bác thời ấy.
· Bằng lời của bác Lê:
1) Tôi không bao giờ ngờ rằng người bạn thanh niên thân thiết của mình chính là Bác Hồkính yêu của chúng ta bây giờ. Ngày ấy, Bác Hồ sống ở Sài Gòn. Người muốn ra đi tìm đường cứu nước. Người đã rất mong muốn có một người bạn cùng đi. Người mà Bác Hồ thuyết phục đi cùng lúc ấy chính là tôi.
2) Tôi luôn luôn tự hào rằng tôi là người diễm phúc được làm người bạn thân thiết thời thanh niên của Bác Hồ. Bác Hồ của chúng ta là người phi thường. Tôi xin kể cho mọi người nghe câu chuyện giữa tôi và Bác Hồ lúc ấy.
3) Đôi bàn tay của người bình thường chúng ta làm được biết bao nhiêu việc. Đôi bàn tay của những vĩ nhân lại càng thể hiện ý chí, nghị lực phi thường. Bác Hồ của chúng ta là một vĩ nhân. Tôi xin kể câu chuyện về BácHồkhi tôi và Bác Hồ đều là thanh niên. Bác Hồ đã bắt đầu sự nghiệp cách mạng của Bác chỉ bằng hai bàn tay trắng mà thôi.
4) Hầu như chẳng ai có thể nghĩ người bạn bình thường của mình sẽ trở thành vĩ nhân từ hai bàn tay. Tôi là một người hạnh phúc khi có một người hạn vĩ nhân là Bác Hồ. Tôi xin kể mọi người nghe câu chuyện giữa tôi và Bác Hồthời ấy.
KẾT BÀI TRONG BÀI VĂN KỂ CHUYỆN
(Tiết 1 – Tuần 12)
Mục tiêu:
• Học sinh nắm được hai kiểu kết bài trong bài văn kể chuyện:
Kiểu 1: Kết bài mở rộng.
Kiểu 2: Kết bài không mở rộng.
• Học sinh viết kết bài theo yêu cầu cho một câu chuyện kể cho sẵn.
I. Đọc lại truyện “Ông trạng thả diều”:
(SGK Tiếng Việt 4, tập 1/Trang 104)
II. Đoạn kết bài của truyện “Ông trạng thả diều”‘.
Thế rồi vua mở khoa thi. Chú bé thả diều đỗ Trạng Nguyên. Ông Trạngkhi ấy mới có mười ba tuổi. Đó là Trạng Nguyên trẻ nhất nước ta.
III. Thêm vào cuối truyện “Ông trạng thả diều” một lời đánh giá, nhậnxét làm đoạn kết bài:
Có thể thêm lời đánh giá, nhận xét như sau:
1) Nguyễn Hiền bộc lộ tài hoa và ý chí khi còn rất bé. Bẩm sinh thông minh, nhưng điều đáng trân trọng là Nguyễn Hiền đã học tập trong hoàn cảnh nghèo khó mà lạc quan. Ông Trạng thiếu niên đó là minh chứng hùng hồn cho câu tục ngữ của ông cha ta: “Tuổi trẻ tài cao”.
2) Học sinh chúng em tự thấy mình phải chuyên tâm rèn luyện, học tập hơn nữa để không phải hổ thẹn trước cậu bé Nguyễn Hiền vừa học, vừa chăn trâu, vừa thả diều vẫn đỗ Trạng Nguyên.
3) Ngày nay chúng em được hưởng mọi phương tiện vật chất trong học tập. Chúng em vô cùng cảm phục cậu bé Nguyễn Hiền thông minh, tài hoa, có ý chí, chỉ mười ba tuổi đã đạt danh vị học vấn cao nhất nước ta thời bấy giờ: Trạng Nguyên.
IV. So sánh hai cách kết bài nói trên:
– Kết bài trong bài “ông Trạng thả diều” là kết bài không mở rộng.
– Kết bài được lời nhận xét, đánh giá,rút ra bài học là kết bài mở rộng.
Có hai cách kết bài:
1) Kết bài mở rộng: nêu ý nghĩa hoặc đưa ra lời bình luận về câu chuyện.
2) Kết bài không mở rộng: chỉ là cho biết kết cục của câu chuyện, không bình luận gì thêm.
V. Luyện tập
1. Sau đây là một số kết bài của truyện “Rùa và Thỏ Em hãy cho biết đó là những kết bài theo cách nào.
(Xem nội dung kết bài ở Bài tập 1 Phần Luyện tập. SGK Tiếng Việt 1. tập 1/ Trang 122). Sau đây là đáp án đúng:
a) Kết bài không mở rộng.
b) Kết bài mở rộng.
c) Kết bài mở rộng.
d) Kết bài mở rộng.
e) Kết bài mở rộng.
2. Tìm phần kết bài của các truyện sau. Cho biết đó là kết bài theo các nào.
Tên truyện | Kết bài | Cách kết bài |
a) Một người chính trực | Tô Hiến Thành tâu: – Nếu Thái Hậu hỏi người hầu hạ giỏi thì thần xin cử Vũ Tán Đường, còn hỏi người tài ba giúp nước, thần xin cử Trần Trung Tá. | Kết bài khôngmở rộng. |
b) Nỗi dằn vặt của An-drây-ca. | Nhưng An-đrây-ca không nghĩ như vậy. Cả đêm đó, em ngồi nức nở dưới gốc cây táo do tay ông vun trồng. Mãi sau này, khi đã lớn, em vẫn luôn tự dằn vặt: “Giá như mình mua thuốc về kịp thì ông còn sống thêm được ít năm nữa. “ | Kết bài khôngmở rộng. |
3. Viết kết bài mở rộng:
a) Truyện “Một người chính trực”
Các em thêm vào phần kết bài của truyện những nhận xét, bình luận.
Một số nhận xét, bình luận để các em tham khảo là:
– Tô Hiến Thành là tấm gương về lòngchính trực để chúng ta noi theo. Ông không vì tình riêng mà đề cử người sai với yêu cầu công việc triều chính. Thế hệ đời sau luôn ca tụng ông.
– Lòng khẳng khái và chính trực của Tô Hiến Thành được sử sách ghi nhận và ca tụng. Chúng ta luôn kính trọng và tôn vinh ông.
– Câu chuyện về Tô Hiến Thành giáo dục học sinh chúng em tính thắng thắn và ngay thật. Em hứa tự rèn luyện và noi gương ông.
b) Truyện “Nỗi dằn vặt của An-đrây-ca ”
Một số nhận xét,bình luận, bài học kinh nghiệm có thể thêm vào là:
– Chuyện “Nỗi dằn vặt của An-đrây-ca” là một bài học cảnh tỉnh chúng em phải chu toàn công việc được giao để tránh rủi ro, sai sót, áy náy trước kết quả không mong muốn.
– Ông của An-drây-ca mất không phải do lỗi của An-đrây-ca nhưng An-đrây-ca lấy đó làm nỗi dằn vặt trong tâm mình. Điều đó thể hiện phẩm chất đáng quý của An-đrây-ca: yêu ông và nghiêm khắc với lỗi lầm của bản thân.
– Nghiêm khắc với bản thân, tự dằn vặt mình như An-đrây-ca cũng là một tính tốt để tiến bộ. Điều đó thể hiện xúc cảm biết yêu thương và hối hận. Chúng em nên nghiêm khắc, tự phê bình để tiến bộ.
ÔN TẬP VĂN KỂ CHUYỆN
(Tiết 2 – Tuần 13)
Mục tiêu:
• Học sinh nhận biết được thể loại văn kể chuyện, phân biệt được các dạng bài văn kể chuyện.
• Học sinh kể được câu chuyện theo đề bài cho sẵn, viết đúng văn kể chuyện.
• Học sinh biết kết cấu văn kể chuyện, biết phân tích và tổng hợp nội dung truyện đã kể.
I. Cho ba đề bài như sau:
– Đề 1: Lớp em vừa có một bạn theo gia đình chuyển đi xa. Em hãy viết thư thăm bạn và kể tình hình học tập của lớp em cho bạn em biết. (Văn viết thư)
– Đề 2: Em hãy kể một câu chuyện về một tấm gương rèn luyện thân thể. (Văn kể chuyện)
– Đề 3: Em hãy tả chiếc áo hoặc chiếc váy em mặc đến trường hôm nay. (Văn miêu tả đồ vật: chiếc áo)
Đồ nào trong ba đề trên thuộc thể loại văn kể chuyện? Vì sao?
• Đề số 2 là đề văn kể chuyện vì nội dung có:
– Nhân vật: người rèn luyện thân thể.
– Tình tiết diễn biến câu chuyện: hoàn cảnh và các bước rèn luyện thân thể của nhân vật (tấm gương rèn luyện thân thề).
II. Kể một câu chuyện về một trong các đề tài sau:
a) Đoàn kết, thương yêu bạn bè:
BÀI LÀM 1
Khi em chuyển về học lớp ba ở trường Tiểu học thị xã quê mình, em đã hết lòng yêu thương, giúp đỡ bạn bè.
Người đầu tiên em giúp đỡ là Xuân Lan. Bạn ấy ngồi sát cạnh em. Xuân Lan học yếu, bạn ấy mặc đồng phục không gọn gàng và tay chân lúc nào cũng bẩn. Các bạn trong lớp xa lánh Xuân Lan, không một bạn nào kết bạn với Xuân Lan. Xuân Lan không biết làm toán cộng, trừ có nhớ. Thế là em ân cần giảng giải cho bạn ấy với một điều kiện là Xuân Lan phải giữ gìn vệ sinh cá nhân sạch sẽ, mặc đồng phục gọn gàng. Sau hôm giảng toán cho Xuân Lan, em tặng bạn một cái khăn mùi xoa. Em hướng dẫn bạn nhúng nước khăn, lau mặt cho mát và sạch. Lúc đầu. các bạn trong lớp chê cười em, chế giễu em kết bạn với “người ở dơ nhất lớp”. Em không trả lời một bạn nào, chỉ cười.
Hẻm nhà Xuân Lan ở đối diện nhà em, mỗi ngày học về, em giữ Xuân Lan lại nhà em hai mươi phút để giảng toán cho bạn ấy. Chỉ một tháng sau, Xuân Lan tự mình giải cả bài toán đố và bạn ấy bắt đầu cười.
Em rủ các bạn khác đến chơi với Xuân Lan. Em cầm tay Xuân Lan đưa cho các bạn xem Xuân Lan đã dùng khăn mùi xoa nên tay, quần áo, mặt rất sạch sẽ. Chúng em cùng nhau đến chỗ vòi nước sau lớp,lấy nước về tưới cho những chậu Trường Sinh leo trang trí lớp mà trước đó cả lớp đã trồng. Em các bạn và Xuân Lan hì hục sửa chỗ dây Trường Sinh leo lên bệ cửa sổ. Chúng em thực sự vui sướng vì làm việc cùng nhau. Sửa dây Trường Sinh xong, chúng em chơi nhảy dây. Các bạn khác đều công nhận Xuân Lan nhảy dây rất giỏi.
Về sau, lớp ba của em là một lớp nổi tiếng trong mọi phong trào của nhà trường. Em rất hạnh phúc được các bạn tin tưởng, yêu thương bầu làm lớp trưởng.
BÀI LÀM 2
Hồi đó,em mới học lớp một. Ở lớp, em thấy bạn Trà có tính đoàn kết rất dễ thương.
Trà là học sinh giỏi nhất lớp. Bạn ấy nhỏ nhắn và rất nhanh nhẹn. Ngồi cạnh Trà là Thu. Thu học chậm, viết yếu. Da bạn Thu đen và mặt đầy những nốt tàn nhang. Nhà Thu nghèo, vở bạn ấy học chỉ là loại xoàng nên khi cô giáo cho viết bút mực, chữ viết của Thu lem luốc rất xấu. Trà ra sức chỉ cho Thu cách đưa bút viết nhè nhẹ để ngòi bút đừng đè vào giấy, như thế chữ viết bớtbị lem mực. Một hôm, không biết bạn nào chơi xấu chà phấn vào trang vở của Thu. Bạn ấy òa khóc khi thấy cứ đặt bút vào là vết mực loang ra. Thu khóc nức nở đòi mách cô giáo. Trà lật trang vở mới tiếp theo không có phấnvà giục Thu viết nhanh lên vì sắp vào lớp. Sau đó, Trà bảo Thu: “Đưa vở của bạn đây mình cất cho. Chúng mình không cần mách cô giáo. Thu viết đẹp hơn nữa thì không ai dám ghẹo Thu đâu!”. Mỗi buổi học, Trà cất giữ vở cho Thu như giữ vở của chính Trà. Trà làm gì cũng nhanh nên bạn ấy thường chỉ cho Thu học toán, viết bài. Trả còn rủ Kim Chi. Minh Tịnh chơi nhảy dây, chơi nhảy vòng với Thu. Dần dà, không thấy bạn nào chơi xấu, ăn hiếp Thu nữa. Rồi Thu học khá lên,chữ viết đẹp, làm toán nhanh. Cả lớp cùng chơi với nhau chẳng nhớ gì về chuyện vở lem dạo nọ.
Bây giờ đã học lớp bốn nhưng em vẫn nhớ câu chuyện xảy ra từ hồi lớp một. Câu chuyện ấy cho em thấy tấm lòng yêu thương, đoàn kết giúp đỡ bạn của chính bạn học cùng lớp với mình. Trà thật đáng cho em trân trọng, học tập.
b) Giúp đỡ người tàn tật:
BÀI LÀM 1
Em có một người anh họ tên Nghĩa kém may mắn bị liệt hai chân từ lúc bé. Thỉnh thoảng em ghé thăm nhà bác, giúp anh Nghĩa làm một số công việc.
Năm nay anh Nghĩa mười lăm tuổi. Tay và vai anh phát triển bình thường nhưng từ bắp đùi xuống hai bàn chân thì co rút, teo lại. Hai chân anh bé xíu rất khó cử động. Khi ngồi một chỗ,anh có thể làm những việc vặt như: xếp quần áo, lau chén để vào tủ. Khi muốn di chuyển, anh dịch chuyển người trên hai cái bàn ngồi thấp sát đất.Hai cái bàn ngồi thay phiên nhau giúp anh “đi” về phía trước hoặc dịch lùi. Tuy có tật bệnh nhưng anh rất chăm làm việc. Em đến nhà giúp anh nấu cám cho lợn ăn. Anh Nghĩa ngồi trên bàn ngồi, cắt rau lang vun thành đống. Em dùng rổ xúc rau đã băm đổ vào thùng rồi đem thùng đó bắc lên bếp đã gác củi sẵn. Sửa cái thùng cho chắc chắn, em lấy xô xách nước đổ vào thùng. Độ ba xô nhỏ thôi, nước đã ngập rau rồi. Trên rau, em xúc bắp xay đổ vào. Khi em đậy nắp thùng xong, anh Nghĩa nhóm bếp. Bác em, mẹ của anh Nghĩa, trước khi đi làm đã gác sẵn củi và mồi nhen lửa. Anh Nghĩa bật quẹt, nhen lửa vào tờ giấy đun vào bếp, em dùng quạt, quạt nhè nhẹ. Chút xíu thôi là củi bắt lửa cháy đượm quanh đáy thùng. Hai anh em em ngồi đun củi, chờ nồi cháo rau sôi lục đục. Khi nồi cháo chín, em giúp anh Nghĩa tắt lửa, vùi củi vào tro cho tắt ngấm rồi phụ anh Nghĩa làm việc khác. Xong việc, em mang đến cho anh Nghĩa mấy quyển truyện thiếu nhi. Anh Nghĩa thích xem truyện tranh Tây Du Kí và lúc nào cũng giành tự đọc, không chịu để em đọc cho nghe.
Em rất thương anh Nghĩa và quý tính tự học, chăm làm của anh. Mặc dù anh tàn tật nhưng anh giúp đỡ mẹ anh rất nhiều trong việc nhà. Anh Nghĩa là tâm gương siêng năngvui sống mà em học tập. Em rất vui được giúp anh Nghĩa.
BÀI LÀM 2
Nam là một cậu bé bằng tuổi em nhưng không may bạn ấy kém phát triển về trí tuệ lẫn thể hình. Bố mẹ Nam đưa Nam đi khám nhiều bác sĩ, bệnh việnnhưng rồi cũng đành chờ thời gian lớn lên Nam có đỡ hơn không. Em ở sát nhà Nam, em thường sang chơi với Nam và giúp bạn ấy học tập.
Mười tuổi nhưng Nam bé choắt như một học sinh lớp một. Tay chân bạn ấy bình thường không có tật gì nhưng mảnh khảnh, gầy yếu. Nam vụng về. Cầm nắm cái gì cũng yếu ớt, có khi bạn ấy không tự sắp xếp mọi thứ như người bình thường được. Bạn ấy thường làm rơi vỡ đồ đạc cho nên lúc nào cũng phải có người bên cạnh trông nom cho bạn ấy. Nam chưa nhận rõ mặt con chữ, âm, vần. Bạn ấy chưa biết đọc và cũng chẳng biết viết gì ngoài việc tô màu trên giấy. Em cố giúp bạn ấy nhớ mặt các phụ âm và vần. Em chỉ bạn ấy cách viết các chữ, tiếng, từ đã được in sẵn ở vở tập viết mà mẹ Nam mua. Dần dà, Nam đọc được chút ít rồi học hết sách Tiếng Việt lớp một – tập một. Mỗi ngày em giúp Nam học độ một giờ đồng hồ, sau đó chúng em chơi cờ cá ngựa. Chúng em chơi rất vui. Nam hiền, bạn ấy cười rất dễ thương. Không phải ngày nào chúng em cũng học và chơi với nhau. Có khi Nam ốm cả tuần liền. Bạn ấy đã gầy lại gầy thêm.
Em rất thương Nam. Em cảm nhận được một điều là con người sinh ra bình thường không tàn tật là một diễm phúc lớn. Biết vậy nên em rất quý bản thân mình và càng thương yêu, chia sẻ với Nam. Em mong Nam mau chóng phát triển tốt hơn.
c) Thật thà trung thực trong cuộc sống.
BÀI LÀM 1
Hôm ấy, em đi chợ mua rau cho mẹ. Hàng cô Loan là hàng rau lớn nhất chợ Hạnh Thông Tây. Cô Loan bán rau củ cả giá bán lẻ và bán buôn nên rất đông khách hàng.
Em chào cô Loan rồi đưa tờ giấy ghi các món rau để cô lựa rau cho mẹ. Một vài món rau em biết chọn, em tự lựa và để vào túi ni-lông chờ cô tính tiền. Em mua không nhiều, chỉ độ hơn hai mươi ngàn tiền rau. Em đưa cô Loan tờ giấy bạc năm mươi nghìn. Cô Loan đếm tiền trả lại. Ơ hay, cô trả lại cho em những hai trăm mười tám ngàn đồng. Có lẽ tờ giấy bạc hai trăm nghìn có màu hơi giống tờ giấy bạc mười nghìn đồng nên cô Loan nhầm lẫn. Em lễ phép thưa:
– Thưa cô, cô trả lại tiền cho cháu nhầm rồi. Cháu chỉ đưa cho cô năm mươi nghìn mà!
Cô Loan cầm số tiền em đưa lại, rối rít:
– May quá, cô cảm ơn con nghen. Con thật thà đáng khen lắm!
Cô Loan trả lại đúng tiền cho em, em vui vẻ ra về.
Trên đường về nhà, lòng em lâng lâng vui lạ. Em vui sướng vì mình đã thật thà không tham lam số tiền cô Loan trả nhầm. Hôm đó, mẹ rất vui khi nghe em thuật lại chuyện.
BÀI LÀM 2
Hôm ấy là ngày kiểm tra học kì môn Toán. Em đọc đề bài và chỉ làm được một câu duy nhất.
Em cắn bút đọc đi, đọc lại đề bài, không có một tý kiến thức nào lóe lên trong đầu. Em không đổi được đơn vị, không biết toán giải làm mấy bước tính. Cả cái hình vẽ tam giác, tứ giác cũng rối mù, rối tinh lên. Em nhìn xung quanh: các bạn cắm cúi viết, đưa tay nhẩm tính. Chỉ có mình em ngơ ngác, dốt đặc. Em chưa biết tính sao thì một tờ giấy tròn vo lăn nhẹ dưới chân. Em nhặt viên giấy, mở ra xem. Đầu trang giấy là dòng chữ: “Bạn viết nhanh lên. Sắp hết giờ rồi!”, dưới đó là bài giải đề bài đang kiểm tra. Thế này là tốt hay tệ đây? Em tự hỏi mình rồi quyết định gấp tờ giấy vuông lại. Em không thể trả lại tờ giấy được vì thầy giáo xem thi sẽ phạt. Hồi lâu, chuông báo hết giờ vang lên. Em nộp bài làm chỉ có một câu của mình rồi thu xếp ra về. Đóng cặp lại,ngâng đầu lên, em thấy Hùng đứng trước bàn mình. Hùng hỏi:
– Bạn chép kịp không?
Em chìa tờ giấy gấp vuông đưa trả lại cho Hùng nói nhỏ:
– Cảm ơn bạn nhưng mình không chép một câu nào cả. Mình làm được câu tính cộng mà thôi!
Hùng tròn mắt:
– Bạn sẽ không đạt điểm tốt trong kì thi.
Em gật đầu:
– Mình sẽ tự học và phải học chăm chỉ. Còn đến ba kì thi nữa cơ mà.
Bài kiểm tra lần ấy em chỉ đạt một điểm và một dấu chấm hỏi. Anh trai em suýt cho em một trận đòn dữ. Em chỉ nói rất nhỏ:
– Em xin hứa sẽ tự học chăm chi.
Em bắt đầu học và làm bài tập từ tiết đầu của năm học. Chỗ nào không hiểu em hỏi anh trai em. Ba lần thi sau. Em đều đạt điểm mười.
Chuyện xảy ra từ hồi em học lớp ba. Cái điểm một lần thi ấy làm các bạn thắc mắc. có bạn cười nhạo em. Riêng em,em vui vì mình đã quyết định đúng theo lời cô giáo dạy: “Phải trung thực khi làm bài!”.
c) Chiến thắng bệnh tật.
BÀI LÀM 1
Hai mươi tháng tuổi, em bị trúng gió rất nặng. Mẹ em kể lại rằng nhờ ông thầy thuốc giỏi như ông tiên mà em được cứu sống. Nhưng lần trúng gió ấy đã để lại cho em một chứng bệnh nặng: bệnh động kinh.
Theo lời mẹ kểem thường xuyên bị động kinh nếu thời tiết thay đổi đột ngột. Mỗi lần như vậy, cả nhà phải tụ lại, cấp cứu kịp thời.
Em luôn luôn phải uống thuốc. Em luôn luôn bị đau đầu và đau khắp tay chân cột sống. Đôi khi những lần té ngã, co giật để lại cho em những chấnthương như trật khớp tay chân, u đầu, dập môi. Sáu tuổi, em may mắn gặp một vị thiền sư cho một cây thuốc Nam kì diệu: cây cửu lý hương. Em thường xuyên uống thuốc lá đó ngay cả khi không lên cơn động kinh và bệnh giảm dần. Cùng với uống thuốc lá cửu lý hương, em tập chạy, tập nhảy dây, tập đi xe đạp. Em còn muốn tập bơi nữa nhưng nếu tiếp xúc nhiều với nước lạnh em sẽ bị bệnh nên em không tập được. Khi em còn bé, mẹ và chị hái lá thuốc, giã và lọc nước cho em uống. Cửu lý hương rất khó uống nhưng vì uống nhiều nên em quen rồi. Lớn lên, em tự mình hái lá mà mẹ em trồng trong chậu trước nhà và tự làm thuốc cho mình. Em luôn rèn luyện thể lực để chống chọi với bệnh tật. Em phát triển bình thường, gầy hơn các bạn cùng lớp nhưng năm học nào em cũng đạt được danh hiệu Học sinh giỏi nhất khối lớp.
Dù lúc nào cũng phải uống thuốc, nhưng em cảm thấy mình may mắn vì được gặp thầy thuốc giỏi, được thiền sư cho cây thuốc quý. Em hứa sẽ cố gắng vượt mọi khó khăn, rèn luyện tinh thần và thể lực để bản thân khỏe mạnh, bố mẹ đỡ lo lắng hơn.
BÀI LÀM 2
Anh Danh, kĩ sư trong khu phố em là một tấm gương chiến thắng bệnh tật đáng khâm phục.
Anh Danh bị sốt tê liệt từ bé, hai chân không phát triển được bình thường. May mắn là đôi chân bệnh tật ấy tuy nhỏ một chân thấp một chân cao nhưng vẫn co duỗi và đi lại được. Anh Danh ít khi ra ngoài, anh học tập chăm chỉ và rất giỏi. Những năm Trung học anh đều đạt học sinh giỏi. Rồi anh thi đỗ vào trường Đại học Bách khoa thành phố Hồ Chí Minh, khoa Công nghệ Thông tin. Việc học của anh đôi khi bị gián đoạn vì sức khỏe của anh yếu, thường hay trở bệnh liệt giường. Khi đỡ bệnh, anh đi khập khiễng đến giảng đường trường Đại học. Thường xuyên đau ốm nhưng anh luôn luôn vui vẻ lạc quan. Để rèn luyện thể lực, anh tập chạy tại chỗ, rồi bệnh cũng lui dần. Chân anh không thể trở lại như người bình thường được nhưng anh khỏe khoắn hơn, không ốm đau thường xuyên như trước. Anh nhận bằng tốt nghiệp kĩ sư loại giỏi và được một công ty phần mềm danh tiếng tuyển dụng. Hiện nay anh đã lập gia đình và có một cậu con trai kháu khỉnh.
Có những người kém may mắn, bị bệnh tật nhưng họ vẫn sống tốt và có nhiều công sức đóng góp cho cuộc đời. Họ học tập, rèn luyện, làm việc, cải thiện đời sống của chính họ và cống hiến trí tuệ cho cuộc sống tiến bộ của nhân loại. Những tấm gương như anh Danh luôn luôn nhắc nhở chúng em phải học tập, rèn luyện và không bao giờ được lười biếng, ỷ lại; phải trau dồi bản thân để trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.
Chương II. THỰC HIỆN MỘT BÀITẬP LÀM VĂN
KỂ CHUYỆN HOÀN CHỈNH
CÁC DẠNG VĂN KỂ CHUYỆN Ở LỚP 4
VÀ CÁC BÀI VĂN MẪU
THỰC HIỆN MỘT BÀI VĂN KỂ CHUYỆN HOÀN CHỈNH
I. Yêu cầu của bài TLV kể chuyện:
Trong phần luyện tập, các em đã được học về cách viết từng phần của một bài văn kể chuyện (Mở bài: mở đầu câu chuyện; Thân bài: diễn biến câu chuyện; Kết luận: kết thúc câu chuyện). Các em đã luyện tập cách xây dựng tính cách nhân vật, tả nhân vật truyện. Từng bước xây dựng diễn biến truyện, phát triển diễn biến để tạo thành cốt truyện. Bài TLV kể chuyện là bước cuối cùng: dựa vào cốt chuyện đã xây dựng (hoặc sẵn có, hoặc chứng kiến, tham gia), các em kể lại câu chuyện ấy.
Yêu cầu của bài TLV kể chuyện:
– Trình bày chuyện kể bằng lời văn của các em theo dàn bài cơ bản văn kể chuyện. Các em kể lại đúng thứ tự diễn biến câu chuyện theo trình tự không gian hoặc thời gian. Trong khi kể, các em tả ngoại hình nhân vật, tính cách nhân vật và cần mô tả sinh động, hấp dẫn các tình tiết diễn ra trong truyện. Các em kể chuyện bằng lời văn của mình thể hiện nhận thức, cảm xúc của các em về câu chuyện chứ không sao chép nguyên văn truyện kể.
– Cần viết câu ngắn gọn, mạch lạc, chấm câu đúng và viết đúng chính tả.
– Bám sát yêu cầu đề bài, tránh lan man, lạc đề.
Phần 2 này giúp các em hệ thống hoá lại tiến trình làm bài và hướng dẫn các em phương pháp làm một bài tập làm văn kể chuyện cơ bản cũng như các bài TLV kể chuyện sáng tạo, phong phú khác.
Phần 2 cũng cung cấp cho các em các bài mẫu của từng dạng văn kể chuyện.
II.Phương pháp thực hiện một bài văn TLV kể chuyện:
Các em dựa vào dàn bài cơ bản văn kể chuyện (Phần 1) để thực hiện bài văn viết theo yêu cầu đề bài. Để viết một bài TLV kể chuyện, các em tuần tự làm các bước sau:
Bước 1:Đọc kĩ đề, phân tích yêu cầu đề bài.
– Đọc kĩ đề bài, gạch dưới mệnh lệnh đề ra (là các từ: kể, viết tiếp, hãy tưởng tượng và kể, thay lời nhân vật, đóng vai, phát triển…); xác định vị trí nhân xưng khi kể chuyện.
Mệnh lệnh đề bài giúp các em nhận dạng hình thức kể chuyện thuộc dạng nào: văn kể chuyện cơ bản hay văn kể chuyện sáng tạo.
– Ở văn kể chuyện cơ bản: các em là người dẫn chuyện.
– Ở văn kể chuyện sáng tạo: các em có thể là nhân vật trong truyện, kể chuyện theo lời kể của một trong các nhân vật trong truyện, các em xây dựng cốt truyện riêng theo cốt truyện cơ bản kết hợp với trí tưởng tượng của chính các em.
Việc phân biệt được dạng văn nào rất quan trọng vì các em sẽ thực hiện bài viết của mình đúng vị trí nhân xưng dẫn chuyện theo đề bài yêu cầu.
Bước 2: Nắm vững nội dung câu chuyện kể
– Câu chuyện kể thuộc loại gì? (Truyện cổ tích, truyện theo chủ đề, truyện đã nghe thầy cô giáo kể, truyện trong chương trình học…).
Các em tìm đọc nội dung truyện kể đó.
– Nội dung câu chuyện sắp kể có thể được thể hiện bằng một đoạn kịch, một bài thơ. Các em phải nắm vững nội dung đoạn kịch, bài thơ đó.
– Câu chuyện sắp kể là một chuyện thực tế (các em chứng kiến hay tham gia).
Các em ghi lại diễn biến các sự việc đã xảy ra theo trình tự thời gian hoặc không gian.
Bước 3:Lập bàn bài chi tiết.
Dựa vào dàn bài cơ bản văn kể chuyện, lập bàn bài chi tiết theo đề bài cho:
– Mở đầu câu chuyện: nơi chốn, thời gian xảy ra câu chuyện. Giới thiệu nhân vật chính của truyện.
– Diễn biến câu chuyện:
Thứ tự thời gian Nhân vật Sự việc
Ghi theo câu chuyện Ghi từng nhân vật Ghi từng sự việc
– Kết thúc câu chuyện: kết quả các sự việc diễn ra như thế nào? Nêu nhận định, cảm xúc của em về câu chuyện.
Bước 4: Trình bày bài viết.
– Mở đầu (mở đầu câu chuyện): vận dụng mở bài trực tiếp hoặc mở bài gián tiếp để giới thiệu câu chuyện định kể.
– Thân bài (diễn biến câu chuyện): kể lại câu chuyện theo diễn biến câu chuyện, các tình tiết của truyện theo trình tự không gian hoặc thời gian.
– Kết luận (kết thúc câu chuyện): vận dụng kết bài mở rộng hoặc kết bài không mở rộng để kết thúc bài văn.
Lưu ý quan trọng:
Các em cần phân biệt môn kể chuyện với tập làm văn kể chuyện. Toàn bộ bài làm về chuyện kể trong tập sách này là tập làm văn kể chuyện. Tác giả soạn theo chủ đề nhằm cung cấp tư liệu cho các em làm văn, chương trình bắt buộc là các bài trong sách Tiếng Việt (cũng được soạn trong tập sách này).
CÁC DẠNG VĂN KỂ CHUYỆN Ở LỚP 4 VÀ CÁC BÀI VĂN MẪU
Dạng I: TLV kể chuyện cơbản
1. Kể chuyện đã biết, nghe, đọc, học trong chương trình hoặc nghe thầycô giáo kể bao gồm:
– Kể chuyện cổ tích (các loại truyện cổ tích có trong chương trình hoặc tìm đọc thêm).
– Kể chuyện theo chủ đề: chuyện chủ đề ở lớp 4 chủ yếu tuân theo chủ điểm tuần học, dựa vào các bài tập đọc và chuyện kể trong phân môn kểchuyện. Bao gồm:
a) Chủ đề về lòng nhân hậu, trung thực, kiên trì, quả cảm (xảy ra trong thực tế và trong truyện kể).
b) Chủ đề về ước mơ (xảy ra trong thực tế và trong truyện kể)
* Ước mơ tốt đẹp.
* Ước mơ viển vông, phi lí.
c) Chủđề về tuổi thơ.
d) Chủ đề về tài trí con người (truyện danh nhân, truyện cổ tích, truyện thực tế).
2. Kể chuyện đã chứng kiến hoặc tham gia (kể chuyện thực tế): xảy ra trong thực tế đời sống, (chuyện xảy ra này cũng thể hiện chủ đề và ý nghĩa nhất định).
Dạng II: TLV kể chuyện sáng tạo
Dựa vào cốt truyện cơ bản, các em hãy thay đổi nhân xưng dẫn chuyện để kể lại câu chuyện đó (hoá thân nhân vật, thay đổi thời gian, thay lời nhân vật, phát triển câu chuyện hướng đến kết thúc theo tưởng tượng, xây dựng cốt truyện trên tình huống và nhân vật cho sẵn…).
Lưu ý:
– Dạng văn kể chuyện là hình thức trình bày bài văn, nói cách khác là nghệ thuật trình bày bài văn kể chuyện.
– Chủ đề chuyện kể là ý nghĩa nội dung chuyện kể. Chủ đề chuyện kể thể hiện trong cả hai dạng văn kể chuyện.
CÁC BÀI VĂN MẪU
I. KỂ CHUYỆN CƠ BẢN
1. Kể chuyện đã nghe, đọc, biết, học trongchương trình hoặc nghe kể lại.
Đề1: Dựa vào cốt truyện “Cây khế” đã sắp xếp lại ở sách Tiếng Việt 4, tập 1/ trang 43, em hãy kể lại câu chuyện ấy.
BÀI LÀM
Truyện cổ tích đem lại cho em bao màu sắc huyền thoại, được trở về xứ sở mà chim thú đều biết nói tiếngngười. Trong truyện, những người nghèo khó,hiền lành đều được giúp đỡ, đền bù; những người tham lam như người anh trong câu chuyện “Cây khế”dưới đây sẽ bị trừng phạt.
Ngày xưa, nhà nọ có hai anh em cha mẹ mất sớm để lại cho ruộng đất, nhà cửa tiền của. Khi chia gia tài, người anh chiếm giữ tất cả của cải chỉ để cho em trai túp lều có trồng cây khế.
Người em nhận phần gia tài được chia, hằng ngày ra công chăm sóc cây khế. Cây khế từ khi được người em chăm sóc,đơm hoa kết trái trĩu trịt khắp cành. Lòng mừng khấp khởi, người em chờ ngày khế chín để bán. Khế chưa được hái, một ngày nọ, có con chim lạ to lớn đuôi dài, lông sặc sỡ, mắt xếch, bay đến ăn hết khế chín. Người em than thở:
– Ta chỉ có cây khế làm kế sinh nhai, sao chim nỡ lòng ăn của ta vậy?
Lạ thay, chim cất giọng nói:
– Ăn khế trả vàng, may túi ba gang, mang đi mà đựng.
Nói rồi chim bay đi. Người em băn khoăn chẳng biết thế nào nhưng vốn tính thật thà nên y lời, maymột cái túi ba gang, chờ đợi. Hôm sau,chim bay đến sà cánh cúi rạp cổ cho người em ngồi trên lưng rồi mang người em qua đồng ruộng, rừng thảm, sông dài đến đại dương mênh mông. Cuối cùng, chim đáp cánh xuống một hòn đảo đầy vàng và châu báu. Người em lấy vàng đầy túi ba gang rồi theo chim trở về nhà. Từ đó, người em trở nên giàu có.
Người anh hay tin gặng hỏi, người em thật thà kể rõ tất cả. Người anh đổi tấtcả ruộng vườn, nhà cửa của mình để lấy cây khế của người em. Người em bằng lòng.
Năm sau, đến mùa khế chín, con chim đẹp ấy lại đến ăn khế. Người anh than khóc. Chim cũng hẹn ăn khế trả vàng như đã hẹn với người em lúc trước. Người anh rắp tâm may sẵn một cái túi chín gang để lấy được nhiều vàng. Đúng hẹn chim chở người anh đến đảo vàng. Người anh ra sức nhét vàng đầy túi chín gang, còn lén chặt vàng vào quần áo trên người nữa rồi nặng nề leo lên lưng chim trở về. Chim bay qua đại dương mênh mông, đuốisức vì vàng người anh mang nhiều, nặng quá. Chim mấy lần chao cánh không giữ được thăng bằng. Mồi lúc, mỗi lúc cánh chim mỏi quá sà thấp xuống. Thế là người anh rơi tòm xuống biển sâu. Thật đáng đời kẻ tham lam.
Lòng tham không bao giờ đem đến cho con người hạnh phúc. Người anh đã thiệt mạng, hơn nữa còn bị chê cười. Loài chim đẹp ấy về sau được người đời gọi là chim Phượng Hoàng. Đó là con chim tiên đã cứu giúp người em nghèo khổ nhưng dễ thương thật thà, chịu thương, chịu khó.
Đề2 Hãy kể lại một câu chuyện cổ tích mà em thích nhất (đã học, đã nghe kể, đã đọc).
BÀI LÀM
Mẹ thường kể cho em nghe nhiều truyện cổ tích. Mỗi chuyện mẹ kể đều lung linh ánh sáng huyền ảo, li kì, rực rỡ sắc màu của hoa lá, lấp lánh ánh bảy sắc cầu vồng. Chuyện lí thú đáng yêu như truyện “Chú mèo đi hia”, chuyện hiền hậu như truyện “Tấm Cám ”, chuyện cảm động và sâu sắc mà em thích nhất là “Truyện kể về cây hoa hồng”.
Ngày xưa, ở một xứ sở lạnh giá, tuyết phủ, xa nước ta lắm, có hai mẹ con chàng trai kia sống trong một căn nhà làm bằng gỗ đẹp. Làng quê của chàng sát chân núi, có rừng đầy nấm và quả thơm, cây xanh cao vút, chim muông ca hót tưng bừng. Mẹ chàng quay xuồng dệt vải còn chàng trai khỏe mạnh ấy trồng lúa,gặt hái ở cánh đồng xa.
Một ngày nọ, mẹ chàng ốm nặng. Chàng trai tạm hoãn mọi việc đồng áng để chăm sóc mẹ. Nhưng mẹ chàng ngày một bệnh nặng. Nhìn mẹ tái nhợt, thiêm thiếp bên giường, lòng chàng đau xót quá! Thần Mặt Trời gõ cửa nhà chàng chỉ đường cho chàng đi lên đỉnh núi tuyết để xin cây thuốc của bà Chúa Thiên thần. Thần Mặt Trời sẽ lái cỗ xe Mặt Trời đi chậm, giữ ngày dài để chàng đủ thời gian đem thuốc về cho mẹ. Chàng trai lập tức lên đường. Vượt qua rừng thông, thác cao, núi đá lởm chởm, gai góc, chàng đến xử sở tuyết phủ của các vị thiên thần. Quần áo chàng rách bươm, chân chàng rỉ máu. Máu chàng rơi trên sườn núi, nhỏ trên núi đá, trên tuyết trắng nhưng chàng vẫn lầm lũi tiến đến căn nhà bằng băng của bà Chúa thiên thần. Trời rét cắt da cắt thịt, chàng vẫn rạp mình dưới gió tuyết mà đi. Đôi bàn chân của chàng đau buốt, tưởng chừng như không lê được nữa thì cánh cửa nhà bà Chúa thiên thần xịch mở, bà dịu dàng nâng chàng dậy. Chàng trai đuối sức nhưng vô cùng mừng rỡ toan cất lời thưa thì bà Chúa thiên thần giơ cao một nhánh cỏ, bảo:
– Con thật biết yêu thương mẹ. Đây là cây thuốc cho mẹ con.
Cùng lúc ấy, bà Chúa thiên thần đưa cao chiếc đũa thủy tinh. Ánh sáng lấp lánh dìu chàng trai bay trên không. Chớp mắt, chàng đã về bên mẹ. Mặt Trờitừ từ lặn sau cánh rừng. Đêm tĩnh mịch và sáng lấp lánh ngàn vì sao. Mẹ chàng đã uống thuốc, đang say ngủ. Chàng tựa vào ghế, thiếp đi sau một ngày đường mệt nhọc.
Bình minh ló rạng. Chim hót líu lo. Mẹ chàng thức dậy, tươi tỉnh như chưa hề đau ốm gì. Mẹ chàng ôm lấy chàng, vỗ về. Hai mẹ con nhìn qua cửa sổ: cánh rừng, sườn núi đá và cả xứ sở tuyết phủ nơi chàng đi qua với đôi chân rỉ máu chỗ ấy mọc lên những cây hoa đỏ thắm, đẹp lộng lẫy và hương thơm ngát. Người ta đặt tên cây hoa đó là hoa hồng, hoa kết tinh từ tình yêu của chàng trai dành cho mẹ.
Em cũng yêu mẹ em như chàng trai trong truyện. Em yêu những câu chuyện cổ tích mẹ kể hoài khônghết. Em hạnh phúc vì luôn có mẹ bên cạnh. Vào ngày Quốc tế Phụ nữ mồng Tám tháng Ba, ngày của Mẹ, sinh nhật mẹ, em luôn kính tặng mẹ một đóa hoa hồng đo thắm và chùm điếm mười của em. Mẹ em lại kể em nghe chuyện về cây hoa hồng mà em nghe không bao giờ chán.
Đề3 Em hãy kể lại chuyện “Dế Mèn bênh vực kẻ yếu” kết hợp tả ngoại hình nhân vật.
BÀI LÀM
Thoát khỏi cái lồng tù mà bọn trẻ bắt nhốt đồ chơi bao ngày, Dế Mèn tìm đường ra đất rộng, nơi có cỏ xanh bao la. Nằm cho hồi sức và suy nghĩ về cuộc đời lưu lạc tù đày vừa qua, Dế Mèn muốn đi đây đó cho biết sơn hà, bốn bể năm châu. Trước khi phiêu lưu khắp chốn. Dế Mèn muốn về lại quê nhà thăm mẹ. Nghĩ vậy, Dế Mòn nhún chân nhảy trên bờtìm đường về quê..
Đường về quê xa lắc xa lơ. Dế Mèn vừa đi vừa nghĩ, ăn cỏ dọc đường, uống nước sương, hóng gió núi. Cứ thế,đến một hôm Dế Mèn thấy một vùng cỏ xước xanh dài. Mới đi được vài bước. Dế Mèn nghe tiếng khóc tỉ tê, lần vài bước nữa, Dế Mèn gặp chị Nhà Trò ngồi gục đầu bên tảng đá cuội. Chị Nhà Trò gầy yếu quá. người đượm những phấn như mới lột. Chị mặc áo thâm dài, đôi chỗ chấm điểm vàng, hai cánh mỏng như cánh bướm non, lại yếu chùn chùn. Hình như cánh yếu quá, tưởng chừng như chưa mở mà bay xa lần nào. Nom chị yếu ớt, gầy như tia nắng chiều còn sót lại trên đồng. Dế Mèn ân cần hỏi:
– Sao em lại phải khóc giữa đường thế này?
Nhà Trò vừa nức nở vừa kể:
– Năm trước, gặp mùa đói kém, mẹ em phải vay lương ăn của bọn Nhện. Mẹ em nay đã mất rồi còn lại thui thủi một mình em. Em lại ốm yếu, ăn không đủ, đau ốm liên miên, nghèo túng không tra nổi nợ, bọn Nhện chặn đường đánh em mấy bận. Hôm nay chúng chăng tơ quyết bắt em, vặt chân vặt cánh ăn thịt em.
Động lòng thương xót, Dế Mèn xòe cả hai càng ra, bảo Nhà Trò:
– Em đừng sợ, hãy trở về cùng tôi đây. Đứa độc ác không thể cậy khỏe, ăn hiếp kẻ yếu.
Nói đoạn, Dế Mèn dắt Nhà Trò đi. Cả hai đi một quãng thì đến chỗ mai phục của bọn Nhện. Bọn Nhện chắc là tập trung hết lực lượng đây, khôngbiết cơ man nào là nhện. Chúng giăng tơ che kín lối đi, lại cử một anh Nhện Gộc đứng sừng sững chặn giữa đường. Chúng đứng im như đá mà đằng đằng sát khí. Dế Mèn cất tiếng hỏi lớn:
– Ai đứng chóp bu bọn mày, ra đây ta nói chuyện.
Từ trong hốc đá. một mụ Nhện Cái cong lưng nhảy ra, hai bên có hai nhện vách nhảy kèm. Nom mụ nhện hung dữ như tay anh chị dao búa giang hồ. Dế Mèn quay phắt lưng, phóng càng đạp phanh phách ra oai. Mụ nhện hung hăng là thế co rúm đầu lại rồi cứ rập đầu xuống đất như cái chày giã gạo. Dế Mèn hét lớn:
– Các người có của ăn của để, béo múp míp sao lại hèn hạ, nhỏ nhen thế, cứ đòi mãi một tí nợ bé xíu từ bao đời,kéo bè mà uy hiếp một cô gái ốm yếu như thế này thật đáng xấu hổ. Có phá hết vòng vây không?
Bọn Nhện sợ hãi, dạ ran, chạy di chạy lại, phá hết các tơ giăng. Đường về tổNhà Trò thoáng chốc bình yên.
Hiệp sĩ Dế Mòn bắt đầu cuộc đời hành hiệp thế gian ngay nơi quê mẹ. Sau này. trên khắp nẻo đường phiêu lưu lắm gian nan nguy cấp. Dế Mèn còn ra tay cứu giúp và kêu gọi yêu thương giúp đỡ nhau trong thế giới loài côn trùng. Tiếng tăm hiệp sĩ Dế Mèn đến ếch cốm cả đời chẳng ra khởi nhà cũng biết tin. Dế Mèn không phải là chú dế bọn trẻ bắt chơi chọi, Dế Mèn mãi là Dũng sĩ nghĩa hiệp.
Đề 4 Em hãy kể lại câu chuyện “Nàng Tiên Ốc”, kết hợp tảngoại hình nhân vật.
(Xem Tiết 2 – Tuần 2)
Đề5 Em hãy kể lại câu chuyện “Đôi cánhcủa Ngựa Trắng” dựa vào tranh vẽ ở sách Tiếng Việt 4, Tập 2, trang 108 và lời thầy/ cô giáo kể.
BÀI LÀM
Mỗi loài có một khả năng riêng biệt cần rèn luyện, tu dưỡng và phát huy. Nếu cá thể trong loài ấy không nắm bắt được khả năng của mình thích ứngvới môi trường sống thế nào thì nhiều tai hại sẽxảy ra. Câu chuyện “Đôi cánh của Ngựa Trắng” minh họa rõ ràng điều đó.
Chuyện kể rằng: ngày xưa có một chú Ngựa Trắng, trắng nõn nà như một đám mây. Mẹ chú yêu chiều chú lắm, lúc nào cũng giữ chú bên cạnh, còn dặn: “Con phải ở bên cạnh mẹ và hí to khi mẹ gọi nhé!”. Ngựa Mẹ gọi Ngựa Con suốt ngày. Tiếng ngựa con hí làm Ngựa Mẹ hạnh phúc nên Ngựa Mẹ chỉ dạy con hí vang hơn là luyện cho con vó phi dèo dai, đá hậu mạnh mẽ. Gần nhà Ngựa có Đại Bàng núi. Đại Bàng núi còn bé nhưng sải cánh đã vững vàng. Mỗi lúc nó liệng vòng, cánh không động, khẽ nghiêng bên nào là chao bên ấy, bóng cứ loang loáng trên mặt đất. Đại Bàng núi bay tài giỏi như một phi cơ chiến dấu điêu luyện thời nay. Ngựa Trắng ước ao được bay như Đại Bàng, chú nói:
– Anh Đại Bàng ơi! Làm sao để có cánh như anh ?
Đại Bàng núi cười:
– Phải đi tìm chứ, cứ quấn chặt lấy mẹ biết bao giờ mới có cánh.
Thế là Ngựa Trắng xin phép mẹ lên đường cùng Đại Bàng. Chưa trọn ngày đường. Ngựa Trắng thấy biết bao nhiêu là cảnh lạ. Trời mỗi lúc một tối, sao đã lấp lánh trên bầu trời. Ngựa Trắng thấy nơm nớp lo âu. Bỗng có tiếng “hú… ú… ú” mỗi lúc một một gần, rồi từ trong bóng tối hiện ra một gã Sói xám sừng sững dữ tợn. Ngựa Trắng mếu máo gọi mẹ. Sói xám cười man rợ và phóng đến.
– Ôi! – Tiếng Sói xám rống lên – Một cái gì từ trên cao giáng rất mạnh vào giữa trán Sói xám làm Sói ta hốt hoảng cúp đuôi chạy mất. Thì ra đúng lúc Sói vồ Ngựa, Đại Bàng núi từ trên cao đã lao tới kịp thời. Ngựa Trắng òa khóc, gọi mẹ. Đại Bàng núi dỗ dành:
– Nín đi! Anh đưa em về với mẹ!
– Nhưng mà em không có cánh – Ngựa Trắng thút thít.
Đại Bàng cười, chỉ vào đôi chân của Ngựa Trắng:
– Cánh của em đấy chứ đâu! Nếu phi nước đại em chạy như bay ấy chứ!
Đại Bàng núi sải cánh. Ngựa Trắng chồm lên. Bốn chân chú như bay trên
không trung.
Loài Ngựa có bốn chân để phi nước đại nhưng chú Ngựa Trắng không hề biết điều ấy. Chú ta cũng chẳng được mẹ dạy dỗ đúng sở trường. Chỉ khi xông pha sương gió nguy cấp. Ngựa Trắng mới dược Đại Bàng chi cho biết khả năng chuyên biệt của mình. Câu chuyện nhắc nhở chúng em phải biết tự rèn luyện và phải biết học tập phát huy năng lực sẵn có của mình, đừng vì được bố mẹ nuông chiều mà không biết tự chủ bản thân.
Đề 6 kể lại câu chuyện “Nỗi dằn vặt của An-đrây-ca” em đã học ở tiết Tập đọc – Tuần 6.
BÀI LÀM
Ở nước Nga Xô Viết trước, có cậu bé An-đrây-ca lên chín tuổi, sống với mẹ và ông. Ông cậu đã chín mươi sáu tuổi nên rất yếu.
Vào một chiều ông trở mệt nặng, ông gọi mẹ An-đrây-ca: “Bố khó thở lắm!…”. Mẹ An-drây-ca liền bảo cậu đi mua thuốc cho ông. An-đrây-ca đi ngay. Chưa đến hiệu thuốc, cậu gặp một đám bạn đang chơi bóng. Các bạn rủ cậu cùng chơi. Quên bẵng việc đi mua thuốc, An-đrây-ca hòa mình vào đám bạn, hăng say dẫn bóng. Đội bóng tuy chỉ có mấy đứa bạn nhưng chơi rất vui. Chơi một lúc, chợt nhớ lời mẹ dặn, An-đrây-ca vội ba chân bốn cẳng đến cửa hàng mua thuốc rồi mang về nhà.
Bước vào phòng ông nằm, An-đrây-ca hốt hoảng thấy mẹ khóc nấc. Ông cậu đã qua đời. Chỉ vì mình mải chơi bóng, mua thuốc về chậm mà ông chết cậu hối hận nghĩ và òa khóc. An-đrây-ca kể hết mọi việc cho mẹ nghe, mẹ cậu an ủi:
– Không, con không có lỗi. Chẳng thuốc nào cứu nổi ông đâu. Ông đã mất từ lúc con mới bước chân ra khỏi nhà.
Riêng An-đrây-ca, tình yêu ông và nỗi day dứt giày xé tim cậu. Suốt đêm đó cậu nức nở dưới gốc cây táo do chính tay ông vun trồng. Sau này, khi đã lớn, mỗi lần nhớ ông, lòng cậu lại đau nhói: “Giá như mình mua thuốc về kịp thì ông còn sống được ít năm nữa.”
Em thông cảm, chia sẻ và tôn trọng nỗi đau của An-đrây-ca. An-đrây-ca là cậu bé có tấm lòng trung thực. Chuyện của An-đrây-ca cũng là một sự cảnh tỉnh em phải làm tròn công việc được giao để tránh sự áy náy, đau khổ trước kết quả không mong muốn.
Đề7 Kho tàng truyện cổ Việt Nam có nhiều truyện đặc sắc. Em hãy kể một câu chuyện về một nhân vật cổ tích biết giúp đỡ bạn.
Lưu ý:
• Giới hạn đề: chỉ kể câu chuyện cổ tích Việt Nam.
BÀI LÀM
(Truyện “Bán tóc đãi bạn ”)
Thủy chung trong tình bạn là một đức tính tốt đẹp của con người. Để khuyên chúng em biết chân thật trong tình bạn, cô giáo kể cho chúng em nghe câu chuyện “Bán tóc đãi bạn”.
Ngày xưa, có ba người học trò tên là Hoà, Phụng, Loan quê ở ba miền khác nhau nhưng học cùng một lớp một thầy. Họ cô chung nhau một điểm là cả ba đều là con nhà nghèo khó. Họ đi học chơi thân với nhau và cùng hẹn ước nếu mai sau, trong số họ ai trở nên giàu có cũng không bao giờ được quên bạn thuở hàn vi.
Thế rồi, học chưa thành tài nhưng ba người mỗi người mỗi ngả. Trong số đó. Hòa may mắn nhất được một cụ đồ nuôi như con, hết lòng dạy dỗ. Nhờ đó, sau mấy năm sôi kinh nấu sử, anh thi đỗ tú tài và được bổ làm quan ở kinh đô. Được giàu sang sung sướng, Hòa vẫn nhớ bạn xưa. Một hôm, Hòa xin nghỉ việc công để đi tìm bạn. Hòa không muốn các bạn biết mình làm quan nên cải trang làm dân thường. Lần hỏi, Hòa tìm được nhà Phụng.
Riêng Phụng, từ ngày thôi học, Phụngđến làm thuê cho một phú ông. Thấy Phụng lanh lợi, dễ nhìn, có chút học vấn, phú ông gả con gái cho. Phụng cưới vợ giàu và được thừa hưởng gia tài của bố vợ sống sung túc. Nhưng Phụng là một người keo bẩn chẳng muốn mất cho ai đồng xu nào nên chẳng bận tâm gì việc thăm hỏi bạn xưa. Hòa gặp Phụng giàu có trong bụng rất mừng nhưng vẫn không cho bạn biết mình đang làm quan ở kinh đô. Còn Phụng, trong lòng chỉ sợ Hòa đến thăm mình để vay mượn nên lúc nào trò chuyện Phụng cũng đều than nghèo, kể khổ. Vợ Phụng muốn làm tiệc đãi bạn chồng. Vợ bắt cá, Phụng không cho. Vợ bắt gà thì Phụng bảo:
– Giờ Dậu không được giết gà. Bạn cũ tâm giao ăn gì chả được!
Chơi ở nhà Phụng được hai ngày, Hòa tìm đến nhà Loan. Nhà Loan nghèo khó, làm ăn thua lỗ, vợ yếu con đau. Loan được cha mẹ để lại cho ít sào ruộng cũng đã bán chữa bệnh cho con. Gặp Hòa, Loan mừng rỡ khôn xiết. Sau hồi hàn huyên tâm sự với Hòa, Loan gọi vợ, bảo:
– Đây là người bạn thân nhất hồi tôi còn đi học. Chúng tôi hơn mười năm mới gặp lại đó mình. Mình nhớ kiếm cái gì đãi bạn ấy nhé!
Vợ Loan vâng lời cắp rổ đi chợ. Giữa buổi chị đội về một rổ thức ăn nhưng đầu trùm khăn kín mít. Loan kéo vợ vào buồng thì thầm to nhỏ. Hòa ghé mắt nhìn vào và kinh ngạc nhìn thấy mái tóc xanh trên đầu vợ Loan không còn nữa. Hòa bèn hỏi vợLoan vì sao nàng cắt tóc. Vợ Loan đành thú thực:
-Lúc sáng không có tiền, tôi hỏi mượn người quen nhưng không ai có. Nhân nhà hàng tóc muốn mua tóc, tôi có mái tóc dài nên bán đi. Mười năm nay bạn bè không gặp nhau, lẽ nào ngồi uống nước suông. Anh đừng ngại, cắt tóc đi thì mọc lại, lo gì!
Hòa hết sức xúc động. Anh cho bạn biết mình đã đỗ đạt làm quan. Rồi Hòa kể Loan nghe chuyện Phụng cư xử đối đãi với Hòa ra sao. Nói xong, Hòa rút túi đưa cho vợ Loan một cái trâm vàng:
– “Cái răng cái tóc là góc con người”, tôi rất ân hận vì không được biết trước để ngăn chị đừng bán tóc. Nhưng cũng nhờ vậy mà tôi biết được tấm chân tình của chị. Tôi xin tặng chị vật này, chị cứ bán đỡ mà tiêu, rồi sẽ kiếm cách làm ăn sau.
Về lại kinh đô, Hòa sai người mang tiền giúp đỡ Loan. Loan đi học nghề may rồi mở một tiệm may nhở tại nhà. Loan làm ăn ngày mội phát đạt, còn dạy nghề cho nhiều người khác nữa.
Về sau,Phụng biết Hòa làm quan to ở kinh đô, lại biết Hòa giúp Loan làm ăn thì tỏ ý tiếc rẻ: “Phải chi ngày ấy ta tiếp bạn cho tử tế, biết đâu nhờ bạn lo cho được một chút phẩm hàm”. Thế rồi hắn vội vã đến thăm hai người bạn cũ. Nhưng cả Hòa và Loan, không ai xem hắn là bạn nữa, không ai chấp nhận một người bạn “tham vàng bỏ ngãi”.
Khi cô giáo kết thúc câu chuyện, cả lớp chìm trong im lặng. Các bạn lớp em luôn đoàn kết và thân ái giúp đỡ nhau trong học tập, trong cả lúc vui chơi. Chúng em chia sẻ với nhau một cái cái tẩy, một cây bút chì dùng chung hay một cái bánh bẻ đôi, bẻ ba rất thân ái, hòa đồng. Em mong là về sau chúng em vẫn yêuthương giúp đỡ nhau, không một ai giống Phụng trong câu chuyện ở trên.
2. Kể chuyện theo chủ đề
a. Chủ đề về lòng nhân hậu, trung thực, kiên trì, quả cảm:
Đề1: Em hãy kể lại câu chuyện “Một người chính trực” (TiếtTập đọc, tuần 4, trang 36, SGK Tiếng Việt 4, tập l).
BÀI LÀM
Một trong những triều đại xây dựng nước Đại Việt ta thời trước hưng thịnh, cường vinh là triều Lý. Triều Lý trị vì hai trăm mười sáu năm, là triều đại có nhiều tưởng giỏi, quan thanh liêm, chính trực. Vị quan nổi tiếng chính trực của triều Lý là ông Tô Hiến Thành.
Năm 1175, vua Lý Anh Tông mất, di chiếu cho Tô Hiến Thành phò Thái tử Long Cán, lúc ấy mới hai tuổi, con bà Thái hậu họ Đỗ lên ngôi. Bà Chiêu Linh Thái hậu muốn lập con mình là Long Xưởng lên làm vua nên cho người đem vàng bạc đút lót vợ Tô Hiến Thành để nhờ ông thay đổi di chiếu của vua. Tô Hiến Thành kiên quyết từ chối, cử y mệnh di chiếu của Tiên hoàng, lập Long Cán làm vua. Long Cán lên ngôi vua lấy hiệu là Lý Cao Tông.
Tô Hiến Thành phò tá Cao Tông được bốn năm, ông lâm bệnh nặng. Quan Tham tri chính sự Vũ Tán Đường ngày đêm săn sóc chu đáo, túc trực bên giường bệnh. Còn quan Gián nghị đại phu Trần Trung Tá do bận nhiều công việc không thăm bệnh Tô Hiến Thành thường xuyên được.
Một hôm, Đỗ Thái hậu và vua đến thăm ông ưu tư về việc triều chính, quốc gia, Thái hậu hỏi:
– Nếu chẳng may ông mất thì ai là người sẽ thay ông?
Tô Hiến Thành đáp ngay:
– Gián nghị đại phu Trần Trung Tá thay tôi được.
Thái hậu ngạc nhiên hỏi:
– Vũ Tán Đường hết lòngvì ông. Sao ông không tiến cử?
Tô Hiến Thành tâu:
Nếu Thái hậu hỏi người hầu hạ giỏi thì thần xin cử Vũ Tán Đường, còn hỏi người tài ba giúp nước, thần xin cử Trần Trung Tá.
Tô Hiến Thành làm quan đầutriều, nhận trọng trách, hết lòng vì dân vì nước, trung với vua, một lòng ngay thẳng, khẳng khái. Lịch sử ghi nhận công lao to lớn của ông, nhân dân ta tôn vinh, ca ngợi ông
Đề2 Em đã được cô giáo kể cho nghe câu chuyện “Mộtnhà thơ chân chính”. Em hãy kể lại câu chuyện ấy.
BÀI LÀM
Giữ vững lòng chính trực của mình có khi phải cận kề cái chết nhưng cuối cùng bao giờ chân lý cũng chiến thắng. Cô giáo đã giảng cho chúng em nghe như vậy khi kể cho cả lớp nghe câu chuyện “Mộtnhà thơ chân chính”
Ngày xưa,Vương quốc Da-ghét-tan có một ông vua tàn ác, bạo ngược. Nhân dân sống dưới ách cai trị của ông hết sức khổ sở, lầm than. Toàn dân vô cùng oán thán và căm hờn nhà vua. Dân chúng bèn kể tội vua và bày tỏ lòng căm ghét của mình bằng một bài hát. Bài hát ấy truyền miệng trong nhân dân và lan xa khắp nước.
Khi bài hát lọt vào tai vua,nhà vua tức giận và hạ lệnh bắt giam người sáng tác bài hát. Nhưng quan quân của vua không tìm ra được tác giả của bài hát ấy. Thế là nhà vua hạ lệnh tống giam tất cả nhà thơ và nghệ sĩ hát rong. Tất cả những người bị bắt được đưa vào cung. Nhà vua truyền bảo mỗi người phải hát cho vua nghe một bài hát do mình sáng tác. Tất cả các nhà thơ và nghệ sĩ đều hát lời ca tụng nhà vua. Nhưng trong số ấy có ba nhà thơ im lặng. Vua ra lệnh thả tất cả, còn ba nhà thơ kia thì tống giam vào ngục tối.
Ba tháng sau,vua cho giải họ đến và truyền:
– Giờ thì các ngươi hãy hát cho trẫm nghe.
Một trong ba người cất tiếng hát ca tụng nhà vua. Nhà thơ được thả ngay. Hai nhà thơ còn lại bị dẫn đến dàn hỏa thiêu. Nhà vua cho hai nhà thơ hát lần cuối cùng. Một người cất tiếng hát ca ngợi vua. Người đó được nhà vua thả ngay. Người còn lại vẫn một mực im lặng. Nhà vua tức giận thét lên:
– Trói hắn lại! Nổi lửa lên!
Khi lửa bắt đầu cháy, nhà thơ cất cao giọng, hát bài hát vạch trần tội ác của nhà vua. Đó chính là bài hát căm hờn vua vẫn lan truyền cả nước. Ngọn lửa ngày càng cháy dữ dội, cả hoàng cung rung động bởi lời hát căm hờn bất khuất của nhà thơ.
Bất ngờ, nhà vua thét lớn:
– Dập tắt lửa mau! Cởi trói cho ông ta! Trẫm không thể để mất nhà thơ chân chính độc nhất của đất nước này.
Cuối cùng, nhà vua cũng hiểu lòng chính trực là đức tính được kính trọng. Để giữ lại hiền tài cho đất nước, nhà vua phải công nhận tội ác của mình. Tuy bạo ngược nhưng Quốc vương Đa-ghét-tan đã biết hành động đúng lúc.
Đề 3 Em hãy kể một câu chuyện đã đọc hoặc nghe cô giáo kểvề tính trung thực, thật thà
BÀI LÀM
Ngày xưa, ở đất nước Khơ-me, có một ông vua tuổi đã cao mà chưa có người nối ngôi. Nhà vua muốn tìm người tài giỏi để truyền ngôi báu. Vua ra lệnh phát cho mỗi người dân một thúng thóc giống và giao hẹn ai thu hoạch được nhiều thóc nhất sẽ được truyền ngôi báu, ai không có thóc nộp sẽ bị trừng phạt.
Có một chú bé mồ côi tên Chôm nhận thóc, ra sức chăm sóc nhưng thóc không nảy mầm. Đến vụ thu hoạch, dân chúng ai nấy đều có thóc đem về kinh thành nộp cho vua. Riêng cậu bé Chôm lo lắng, quỳ trước vua, tâu lên:
– Tâu bệ hạ! Con không làm sao cho thóc nảy mầm được.
Mọi người lặng đi vì lời thú tội của Chôm. Nhà vua đỡ Chôm đứng dậy, ngài hỏi mọi người có ai để chết thóc giống không, không một ai trả lời. Bấy giờ nhà vua mới ôn tồn nói:
– Thóc giống phát cho mọi người là thóc giống đã được luộc kĩ rồi. Tất nhiên, thóc ấy không thể nào mọc được. Những xe thóc đầy ắp kia đâu phải thu được từ thóc giống của ta.
Rồi vua dõng dạc phán:
– Trung thực là đức tính quý nhất của con người. Chú bé trung thực và dũng cảm này xứng đáng được ta truyền ngôi cho.
Chôm được đức vua truyền ngôi cho và trở thành một ông vua hiền minh.
Điều đáng để em suy nghĩ là Chôm mồ côi, chú bé ấy tự mình cư xử mọi việc. Chú giữ lòng trung thực mặc dù biết lệnh vua rất nghiêm: không có thóc nộp sẽ bị trừng phạt. Em sẽ noi gương Chôm và rèn luyện cho mình đức tính thật thà cao quý này.
Đề 4 Em hãy kể một câu chuyện về một người cương trực,thẳng thắng mà em biết (học trong chương trình, đọcsách báo, nghe thầy cô giáo kể hoặc em biết qua cuộc đời, sự nghiệp của danh nhân).
Hướng dẫn, gợi ý:
– Chương trình học có bài tập đọc viết về quan thanh liêm chính trực Tô Hiến Thành (bài “Một người chính trực”, tuần 4).
– Chuyện kể về danh nhân lịch sử Việt Nam có:
+ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm + Thầy giáo Chu Văn An + Quan Nhập nội hành khiển Nguyễn Trãi + Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.
(Các em có thể tìm đọc truyện ở tác phẩm “Danh nhân Lịch sử Việt Nam ” – NXB Giáo dục)
BÀI LÀM 1
(Chuyện kể về thầy giáo Chu Văn An)
Khi giảng cho chúng em nghe về việc học hành thi cử của nước ta ngày xưa, cô giáo cho chúng em biết trường Đại học thời đó có tên là Quốc Tử Giám. Cô kể cho chúng em nghe về một người thầy giáo danh tiếng vang dội, đã từng giữ chức Tu nghiệp Quốc Tử Giám, nổi tiếng cương trực thắng thắng: ông Chu Văn An.
Ông Chu Văn An quê ở làng Quang, thôn Văn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (Thanh Trì, Hà nội), ông là người thầy nổi tiếng dạy giỏi, rất hiểu tính tình và tài năng của học trò mình. Ông giỏi đến mức tục truyền: Thủy thần đền Cung Hoàng cũng đến theo học và theo lời thầy dạy đã hy sinh cuộc đời để cứu dân khỏi nạn hạn hán.
Biết Chu Văn An là thầy giáo tài giỏi hơn người, vua Trần Minh Tông cho mời vào triều để dạy Thái từ học và giữ chức Tu nghiệp Quốc Tử Giám, ông làm quan ở kinh đô, nhìn thấy triều đình suy thoái, gian thần phinh nịnh, thao túng triều chính, ông dâng sớ xin chém bảy nịnh thần nhưng vua không nghe. Ông xin từ quan về núi Phượng Hoàng dạy học, làm thuốc cứu dân, không màng danh lợi. Mọi tiền của vàng bạc bổng lộc vua ban ông đều từ chối.
Học trò của ông có nhiều vị làm quan to trong triều. Trong số đó, nổi bật là ông Lê Quát và Phạm Sư Mạnh. Hai ông là vị quan đầu triều lúc ấy. Có mẩu chuyện kể rằng: vào một ngày đầu xuân, hai vị quan to là Lê Quát và Phạm Sư Mạnh về thăm thầy. Hai ông quạt lửa đun nước pha trà hầu thầy như thời còn đi học. Chu Văn An sửa soạn quần áo chỉnh tề chuẩn bị đi đâu đónhưng chẳng nói gì. Các học trò nhỏ cũng đến thăm thầy và chúc Tết thầy. Chu Văn An dẫn tất cả các học trò đến thăm mình buổi sáng đầu năm ấy đến một ngôi nhà nhỏ ở làng bên để thăm một người cao tuổi, người ấy cũng đã già lắm rồi. Vào đến thềm nhà, Chu Văn An lạy người cao tuổi đó rất cung kính:
– Con lạy thầy ạ. Con xin kính thăm thầy và cả học trò của con cũng xin được lạy thầy ạ!
Người thầy của Chu Văn An lúc đó đang sưởi nắng ở hiên nhà, cất tiếng:
– Anh An đấy à. Anh còn mang cả học trò đến thăm thầy nữa.
Chu Văn An và học trò mình cùng lạy cụ già râu tóc bạc phơ như ông tiên và dâng cụ trà, bánh – quà học trò mang đến biếu ông, ông bảo học trò mang theo đến kính biếu người thầy giáo dạy vỡ lòng của ông. Lúc ấy, hai vị quan to và đám học trò nhỏ mới biết được tấm lòng tôn sư trọng đạo của người thầy giáo dạy mình.
Ông Chu Văn An là người cương trực dám dâng sớ chém bảy nịnh thần. Ông không màng phú quý, vinh hoa mà còn ra sức làm thuốc cứu dân, dạy người biết chữ, biết đạo. Sử sách tôn ông là “Bậc chí tôn trong đạo làm thầy, khí phách hùng dũng đến kẻ nịnh thần phải sợ”.
BÀI LÀM 2
(Chuyện kể về Hưng Dạo Vương Trần Quốc Tuấn)
Nước Việt Nam ta anh hùng hào kiệt đời nào cũng có. Chuyện kể về các bậc anh hùng được tôn thánh có rất nhiều, trong đó câu chuyện về Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn làm em xúc động nhất. Em xin kể một chuyện thể hiện lòng tận trung với vua, chí tâm với dân với nước, một dạ thẳng ngay của Quốc tướng Trần Hưng Đạo.
Khi nhà Trần thành lập, người giữ ngôi vua là Trần Cảnh (tức Trần Thái Tông). Thực sự tính về ngôi thứ trong họ thì anh cả là Trần Liễu chứ không phải là Trần Cảnh. Trần Liễu không được ở ngôi vua. Vì Trần Cảnh và Chiêu Thánh Công chúa không có con nên Thái sư Trần Thủ Độ ép Trần Thái Tông phải lập Thuận Thiên Công chúa lúc ấy là vợ Trần Liễu, đang mang thai ba tháng lên làm hoàng hậu. Trần Liễu – cha của Trần Quốc Tuấn uất ức, bạo bệnh mà qua đời. Trước khi mất, Trần Liễu cầm tay Trần Quốc Tuấn nói rằng:
– Con không vì cha mà lấy lại thiên hạ thì cha chết không nhắm mắt dược!
Trần Hưng Đạo thương cha nhưng không cho điều đó là lẽ phải.
Đầu năm 1285 quân Nguyên Mông ồ ạt sang xâm lược nước ta, thế giặc rất mạnh. Trần Hưng Đạo ra lệnh rút quân và di tản dân chúng ra khỏi kinh thành, dùng chiến lược “vườn không nhà trống” để đón giặc. Triều đình sơ tán về Thiên Trường (Nam Định). Trần Thánh Tông lo ngại, ướm hỏi ông nên hàng giặc hay không. Ông khăng khái trả lời:
– Bệ hạ chém đầu thần rồi hãy ra hàng.
Nói rồi ông dùng thuyền nhẹ, cùng một số vệ sĩ lập mưu lừa giặc. Bấy giờ trên thuyền chỉ có ông và hai vua (Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông). Nghĩ về mối hiềm khích giữa cha và chú, ông chỉ dám cầm tay một chiếc gậy gỗ, đầu bịt sắt nhọn để bảo vệ hai vua nhưng có người nhòm ngó, ông tháo phần sắt nhọn, vứt xuống sông.
Triều đình sơ tán an toàn. Giặc đến ở trong thành. Chúng thấy làng mạc nào cũng hoang vắng không có quân dân, lấy làm hoang mang lo sợ. Mùa mưa đến, giặc không chịu nổi phong thổ Việt Nam, sinh đau bệnh, thế giặc suy yếu. Ông hạ lệnh tổng phản công. Sau một tháng chiến đấu ác liệt với các trận Hàm Tử, Chương Dương Vạn Kiếp, nhân dân ta đã đánh tan quân xâm lược.
Trần Hưng Đạo không chỉ là một nhà quân sự thiên tài mà còn là người có đạo đức trong sáng, tính tình cương trực, nhân hậu ông không vì lời trối trăng của cha mà phản lại triều đình và quyền lợi dân tộc.
Tháng chín năm 1300, Trần Hưng Đạo mất. Vua truy tặng ông chức Thái sư thượng phụ Quốc công, tước Nhân Võ Hưng Đạo Đại Vương. Nhân dân lập đền thờ ông, tôn ông là Đức Thánh Trần.
Em đọc truyện tưởng như nhìn thấy Đức Thánh Trần oai phong lẫm liệt và những chiến công hiển hách của dân tộc. Em xúc động và cảm nhận sâu sắc đức tính tận tụy vì vua, tận hiếu với dân, với nước của ông. Em tự hào mình là người Việt, hạnh phúc khi Tổ quốc em có những danh tướng như ông Trần Hưng Đạo.
Đề 5 Em hãy kể một câu chuyện về tấm lòng nhân hậu (truyện cổ tích, chuyện người thật việc thật, chuyện lịch sử) mà em đã nghe, học, đọc sách báo hoặc nghe thầy (cô) giáo kể.
Hướng dẫn chọn chuyện kể:
– “Sự tích hồ Ba Bể” (xem bài ở tiết 1/ tuần 8).
– “Người ăn xin” (xem bài ở tiết 1/ tuần 2).
– “Nàng tiên Ốc” (xem bài ở tiết 2/ tuần 2).
– “Dế Mèn bênh vực kẻ yếu” (xem bài văn mẫu, đề số 3, mục 1 của các bài văn mẫu).
BÀI LÀM
(Chuyện kể về Bác Hồ)
Sau giờ học luyện từ và câu bài “Mở rộng từ ngữ về chủ đề nhân hậu – đoàn kết”, cô giáo em hỏi cả lớp: “Các em có biết ai có tấm lòng nhân hậu bao trùm cả nước ta và cả thế giới không?”. Cả lớp rì rầm trao đổi. Cô giáoem cười, cô đưa bàn tay trân trọng, trìu mến về phía ảnh Bác Hồ: “Bác Hồ muôn vàn kính yêu của chúng ta đó, cô sẽ kể cho các em nghe câu chuyện có tựa đề: “Ông Ké””,
Hơn một năm xa Tổ quốc, trải qua gần ba chục nhà tù của Tưởng Giới Thạch gần khắp Quảng Tây, Bác Hồ trở về Pác Bó cuối năm 1944. Ở đây, để tránh tai mắt giặc. Bác Hồ ăn mặc quần áo chàm như người dân tộc vùng Cao Bắc Lạng. Nhân dân ở đây gọi người là Ông Ké. Nhìn thấy việc giữ gìn vệ sinh nước ăn và nơi ở chưa được dân chúng chú ý, Bác bảo các cháu xếp hàng đi về phía khe nước. Người tự tay cởi bỏ quần áo cho các cháu bé, lần lượt tắm rửa, kì cọ cho từng cháu. Chúng vừa tắm, vừa đùa bắn cả nước vào người Bác. Trong số bọn trẻ được Bác tắm cho hôm đó có bé Thân bị chốc đầu, tóc dính bết. Tắm gội xong, Bác còn làm thuốc dịt cho. Thuốc xót, bé Thân kêu, Bác dỗ dành ngọt ngào:
– Không sao, chỉ một lát là hết xót thôi cháu à.
Rồi Bác nói với đám thanh niên đứng quanh dó:
– Các cô, các chú vợ chồng trẻ phải giữ gìn quanh năm sạch sẽ cho con cái. Bệnh ghẻ lây nhanh lắm đấy. Thật khổ cho các cháu tôi.
Mọi người im lặng, cảm động. Bác thấy mấy cháu mặc quần áo bẩn và rách, Bác không vui. Bác dặn mọi người phải lấy quần áo sạch thay cho các cháu, chổ nào rách thì khâu vá, may lại.
Bác Hồ bận trăm công ngàn việc cho sự nghiệp giải phóng dân tộc ra khỏi chế độ xiềng xích của thực dân mà vẫn dành thời gian tắm rửa cho các cháu thiếu nhi nghèo khô dân tộc vùng núi Pác Bó. Tình thương của Bác mênh mông, tấm lòng nhân hậu của Bác thể hiện trong việc tắm rửa, xức thuốc cho trẻ. Bác không muốn thấy đồng bào của Bác sống thiếu thốn, đau đớn.
Bác Hồ nay đã đi xa, nhưng em thấy Bác thật gần gũi. Mỗi lần vào lớp học, ngước nhìn chân dung hiền từ của Bác, nhớ chuyện “Ông Ké” em lại bồi hồi xúc động. Em tự hứa sẽ học tập, rèn luyện theo lời Bác dạy để Bác vui lòng.
Đề 6Hãy kể một câu chuyện em đã được nghe hoặc đượcđọc về một người có nghị lực.
BÀI LÀM
(Chuyện “Bàn chân kì diệu”)
Ngày nay, ai cũng biết thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký là người viết bằng chânchứ không viết bằng tay vì thầy bị liệt hai tay từ bé. Để trở thành thầy giáo Ký ngày nay, cậu bé Nguyễn Ngọc Ký đã trải qua gian khổ như thế nào, em xin kể lại câu chuyện ghi lại quá trình rèn luyện gian khổ đó: chuyện “Bàn chân kì diệu”.
Ký bị liệt hai cánh tay từ nhỏ. Hằng ngày thấy các bạn đi học, Ký thèm lắm. Ký muốn được đến trường như các bạn bình thường khác. Ký đến lớp cô giáo Cương xin được vào học. Cô giáo cầm tay Ký – hai cánh tay mềm nhũn, buông thõng, bất động, cô giáo lắc đầu, an ủi Ký:
– Khó lắm em ạ. Em hãy về nhà đợi thêm ít nữa xem sao đã!
Cô thoáng thấy đôi mắt Ký ngấn nước. Ký quay người đi, chạy về nhà. Cậu vừa chạy, vừa khóc. Mấy hôm sau, cô giáo Cương tìm đến nhà Ký. Cô rất ngạc nhiên và xúc động khi thấy Ký đang ngồi giữa sân hí hoáy tập viết, cậu kẹp một mẩu gạch vào ngón chân và vẽ xuống đất những nét chữ ngoằn ngoèo. Cô giáo hỏi thăm sức khỏe của Ký rồi cho em mấy viên phấn.
Rồi cô giáo Cương nhận Ký vào học. Cô giáo dọn một chỗ ở góc lớp, trải chiếu cho Ký ngồi tập viết. Ký kẹp cây viết vào ngón chân rồi tập viết vào trang giấy. Mới đầu, Ký không điều khiển cây bút được. Bàn chân cậu giẫm lên trang giấy, cựa quậy một chút là giấy nhàu nát, mực lem luốc trang giấy. Mấy ngón chân Ký mỏi nhừ. Cô thay bút chì cho Ký, cậu lại kiên nhẫn tập viết. Giữ cây bút viết bằng chân cho thăng bằng đã khó, đưa cây bút viết thành nét chữ còn khó hơn. Dù vậy, Ký vẫn cố gắng viết. Bỗng cậu nằm ngửa ra, giơ chân lên xuýt xoa nhăn nhó. Cô giáo và mấy bạn chạy tới, thì ra bàn chân Ký bị chuột rút, co quắp, không duỗi ra được. Chứng “chuột rút” làm Ký rất đau, có lúc tái cả người. Cậu nản chí định thôi học nhưng nhờ cô giáo Cương an ủi, động viên, Ký kiên nhẫn tập dần từng tí một. Các bạn cũng an ủi, giúp Ký những việc nhỏ như xoa chân, giữ giấy… Tình yêu thương của cô giáo và các bạn tiếp thêm sức mạnh cho Ký, Ký lại kẹp bút vào ngón chân, hì hục tập viết. Ký kiên nhẫn viết từng chút một dù sức khỏe yếu ót, dù cậu đau luôn, dù nắng hay mưa, cậu đều đến lớp rất chuyên cần. Luyện tập kiên trì, Ký đã thành công, hết lớp một, Ký đã đuổi kịp các bạn. Chữ Ký ngày một đều hơn, đẹp hơn, có lần cậu đạt điểm tám môn tập viết. Rồi Ký thi vào Đại học, trở thành sinh viên trường Đại học Tổng hợp.
Nguyễn Ngọc Ký là tấm gương sáng về ý chí vượt khó. Ký đã hai lần được Bác Hồ gửi tặng huy hiệu của Người.
Là người bình thường, học tập trong điều kiện bình thường đôi khi cũng khó khăn cho những ai kém ý thức hoặc chưa thực sự cố gắng. Nguyễn Ngọc Ký là người đầy nghị lực, là tấm gương sáng cho học sinh chúng em noi theo.
BÀI LÀM 2
(Chuyện “Vua tàu thủy Bạch Thái Bưởi”)
Hầu hết các doanh nhân giàu có trên thế giới đều nói rằng thành công của họ đều bắt đều từ một cơ hội, một chút may mắn và rất nhiều nghị lực. “Vua tàu thủy” Bạch Thái Bưởi cũng đã bắt đầu như thế.
Bưởi xuất thân nghèo khổ. Ông mồ côi cha từ bé, phải theo mẹ bán hàng rong. May mắn, nhờ khôi ngô và tư chất thông minh, ông được nhà họ Bạch nhận làm con nuôi và cho ăn học.
Năm hai mươi mốt tuổi, Bạch Thái Bưởi làm thư ký cho một hãng buôn. Một thời gian sau, ông kinh doanh độc lập. Ông kinh doanh đủ các ngành: lâm sản (gỗ), nông sản (ngô), rồi mở hiệu cầm đồ, lập nhà in, khai thác mỏ… Ông trải qua nhiều gian nan thất bại, có lúc phá sản nhưng không nản chí.
Nhận thấy việc vận chuyển hàng hoá và đi lại của người dân chủ yếu bằng đường thủy vì nước ta sông ngòi nhiều, bờ biển dài và rộng, ông quyết định mở công ty vận tải đường thủy. Thời bấy giờ, việc kinh doanh ngành này tập trung trong tay các chủ tàu giàu có người Hoa. Để có nhiều khách hàng và khuếch trương tên tuổi hãng tàu do mình thành lập, ông cho người đến các bến tàu diễn thuyết. Trên mỗi chiếc tàu phục vụ khách của ông, ông dán biểu ngữ: “Người ta thì đi tàu ta” và cho treo một cái ống để khách nào đồng tình với ông thì vui lòng bỏ ống tiếp sức cho chủ tàu. Khách đi tàu ủng hộ ông rất nhiều, khách mỗi ngày một đông. Nhiều chủ tàu người Hoa, người Pháp phải bán lại tàu cho ông. Để đảm bảo an toàn cho tàu và khách, ông mua xưởng sửa chữa tàu, thuê kĩ sư giỏi trông nom. Công ty đường thủy của ông ngày một thịnh vượng, số lượng tàu lên đến ba mươi chiếc tàu lớn nhỏ đều mang những cái tên theo lịch sử Việt Nam như; Hồng Bàng, Lạc Long, Trưng Trắc, Trưng Nhị…
Trong vòng mười năm, Bạch Thái Bưởi trở thành “một bậc anh hùng kinh tế”, được mọi người vị nể, đánh giá cao.
Ông Bạch Thái Bưởi có nhiều nghị lực vượt khó khăn. Ông là một doanh nhân yêu nước, là người khởi đầu cho ngành đường thủy nước ta ngày càng mở rộng. Em rất cảm phục nghị lực của ông, ngưỡng mộ và nguyện noi gương ông học tập tốt để trở thành người kinh doanh giỏi sau này.
BÀI LÀM 3
(Chuyện kể về nghị lực phi thường của nhạc sĩ Bết-tô-ven)
Nhạc sĩ thiên tài Lút-vít-van Bết-tô-ven là một người có nghị lực phi thường. Cuộc đời ông từ lúc sinh ra, sống, học tập, sáng tác nhạc là chuỗi ngày dài luôn chiến đấu với mọi hoàn cảnh khó khăn, bệnh tật. Câu chuyện em kể sau đây minh chứng cho nhận định đó.
Bết-tô-ven sinh năm 1770, tại Bon, nước Đức, trong một gia đình có truyền thống âm nhạc. Từ bốn tuổi, Bết-tô-ven đã được học tập, rèn luyện các loại đàn piano và violon. Quá trình học tập, sinh sống của ông rất vất vả. Vì gia đình của ông nghèo, ông phải bỏ học từ mười tuổi. Kiến thức ông có được đều do ông tự học. Năm mười bảy tuổi, ông đến Viên và theo học nhạc sĩ Bach, cũng năm này, người mẹ thân yêu của ông qua đời. Chịu tang mẹ xong,ông quay lại Viên và tiếp tục học nhạc. Năm hai mươi hai tuổi, Bết-tô-ven đã thu hút được sự chú ý của mọi người bằng sự thể hiện độc đáo những tư tưởng âm nhạc và phong cách biếu diễn. Tưởng rằng tài năng nở rộ thì cuộc đời của ông sẽ tươi sáng hơn. Nhưng không, năm hai mươi sáu tuổi, ông bị điếc tai nặng. Bệnh của ông không có khả năng chữa khỏi. Bị điếc nghĩa là không nghe được tiếng nhạc nữa, điều này thật đáng sợ đối với một nhạc sĩ. Nó như giết chết cuộc đời nghệ thuật của ông. Tuy nhiên, ông không chịu đầu hàng số phận. Ông ngồi vào ghế, cầm lấy giấy và bút, viết thật nhanh, cho đến lúc trăng lên cao, ông đã viết xong bản hợp tấu đàn piano, ông lướt tay lên phím đàn đầy hào hứng, sôi nổi. Tuy ông không nghe tiếng đàn nhưng ông nhìn thấy các phím đàn cùng với sức tưởng tượng dồi dào, mạnh mẽ, ông như nghe được tiếng nhạc êm tai, quyến rũ, tăng thêm sức mạnh để ông sống tiếp. Bệnh phát triển, dày vò ông đau đớn, tiều tụy nhưng ông vẫn kiên trì chống chọi và sáng tác nhạc. Ông không thể nghe thấy âm thanh nhạc của ông khi người ta diễn tấu nhưng ông đánh giá được mức độ thành công thông qua thái độ hưởng ứng, thưởng thức của công chúng.
Ngày hai sáu tháng ba năm 1827, trái tim nhạy cảm và giàu yêu thương của nhạc sĩ ngừng đập. Thế giới mất đi một thiên tài âm nhạc. Ba mươi năm dài chiến đấu với bệnh tật, ông để lại cho đời những bản giao hưởng công-xéc-tô nổi tiếng. Hạt ngọc sinh ra từ trong vỏ trai bệnh tật, những năm tháng đau buồn lận đận giúp thêm sức cho Bet-tô-ven cống hiến cho đời những bản nhạc bất hủ.
Khép sách lại, em nghe tim mình dâng lên niềm thương cảm và tôn kính một bậc tài hoa. Em ngưỡng mộ và khâm phục nghị lực phi thường của nhạc sĩ. Bet-tô-ven là tấm gương sáng chói lọi cho chúng ta sống, học tập và làm việc. Ngày nay, dù tình cờ nghe được một đoạn nhạc của ông, em hiểu rằng em đang được thưởng thức tác phẩm nghệ thuật của bậc tinh anh, tài hoa kiệt xuất.
Đề 7 Em hãy kể câu chuyện về người có tính kiên trì, nhẫn nại (em được nghe, học trong chương trình hoặc nghethầy (cô) giáo kể).
BÀI LÀM 1
(Chuyện “Văn hay chữ tốt”)
Bạn Sơn giỏi toán nhất lớp nhưng luôn bị trừ điểm trình bày vì bạn viết chữ rất xấu. Cô giáo viết mẫu vào một quyển vở riêng và bắt Sơn rèn chữ. Thấy bạn ấy nản chí, ít chuyên cần rèn luyện, cô giáo kể cho cả lớp nghe gương kiên trì luyện chữ của ông Cao Bá Quát.
Hồi còn đi học, Cao Bá Quát viết chữ rất xấu nên nhiều bài văn hay của ông tuy ý tứ súc tích, lời lẽ mạch lạc vẫn bị thầy cho điểm kém. Một hôm, cóbà cụ hàng xóm sang nhờ ông viết giúp bà đơn để khiếu nại lên quan vì gia đình có việc oan uổng. Cao Bá Quát vui vẻ trả lời:
– Tưởng việc gì khó chứ việc ấy cháu xin sẵn lòng.
Lá đơn nêu lí lẽ rõ ràng. Cao Bá Quát yên tâm quan sẽ cứu xét nỗi oan uổng của bà cụ. Nào ngờ, chữ ông viết quá xấu, quan không đọc được, bực mình, sai lính đuổi bà cụ ra khỏi nha môn. Về nhà, bà cụ kể lại sự việc khiến Cao Bá Quát vô cùng ân hận. Ông biết là văn hay đến thế nào mà chữ viết người ta không đọc được, chữ không ra chữ cũng chẳng có ích gì. Từ đó ông quyết tâm rèn chữ viết sao cho đẹp.
Mỗi sáng, ông cầm que vạch lên cột nhà cho nét chữ thẳng, cứng cáp. Mỗi buổi tối, ông viết xong mười trang vở mới đi ngủ. Ông còn mượn những cuốn sách chữ viết đẹp làm mẫu để luyện nhiều kiểu chữ khác nhau. Luyện tập suốt mấy năm như thế, chữ ông mỗi ngày một đẹp. Ông nổi tiếng là người văn hay chữ tốt nhất nhì nước ta.
Ông Cao Bá Quát nổi tiếng là người viết văn hay còn phải rèn chữ huống hồ học sinh chúng em còn đang phải học tập để rèn luyện kiến thức cơ bản. Em sẽ noi gương ông cần mẫn, kiên trì trong học tập và trong đời sống để việc học, việc làm đạt kết quả tốt nhất, trở thành một người có ích cho gia đình và xã hội.
BÀI LÀM 2
(Chuyện “Người tìm đường lên các vì sao ”)
Thành quả khoa học ngày nay nhân loại đang hưởng thụ là kết quả của biết bao mồ hôi công sức của các nhà khoa học. Các nhà khoa học là những người có trí tuệ siêu việt, có ý chí kiên cường đáng khâm phục. Nhà bác học vũ trụ người Nga Xi-ôn-côp-xki là một trong những nhà bác học có ý chí kiên trì được lưu danh sử sách.
Từ nhỏ, Xi-ôn-côp-xki đã mơ ước được bay lên bầu trời. Ước mơ nung nấu ông đến nỗi ông dại dột nhảy qua cửa sổ để bay theo những cánh chim. Lần đó, ông bị ngã gãy chân. Đau chân nhưng ông vẫn suy nghĩ: “Vì sao quả bóng không có chân vẫn bay được?”.
Lớn lên, ông tìm mọi cách để thực hiện ước mơ của mình. Ông đọc bao nhiêu là sách, liên tục hì hục làm thí nghiệm, có khi đến hàng trăm lần. Bạn ông hỏi:
– Cậu làm thế nào mà mua được nhiều sách và dụng cụ thí nghiệm như thế?
Xi-ôn-côp-xki cười:
– Mình chỉ tiết kiệm thôi.
Quanh năm ông chỉ ăn bánh mì suông để tiết kiệm tiền mua đồ dùng làm thí nghiệm. Qua nhiều lần thí nghiệm, ông chế ra được khí cầu bay làm bằngkim loại. Không nản chí, ông nghiên cứu lí thuyết bay trong không gian. Khi quan sát chiếc pháo thăng thiên, ông chế tạo thành công tên lửa nhiều tầng (tức hỏa tiễn), là cơ sở để con người có thể làm được phi thuyền, phương tiệnbay đến các vì sao.
Hơn bốn mươi năm dày công nghiên cứu, tìm tòi, Xi-ôn-côp-xki đã thực hiện được điều ông nung nấu: “Các vì sao không phải để tôn thờ mà để chinh phục”.
Nhà bác học Xi-ôn-côp-xki dành hơn nửa đời người để nghiên cứu phương pháp bay vào không gian, một công trình vĩ đại về kết quả lẫn công sức kiên trì. Tấm gương nhẫn nại của ông thật đáng khâm phục. Nhìn lại mình, em thấy mình còn qua nhiều điều để rèn luyện tu dưỡng. Em hứa noi gương Xi-ôn-côp-xki để học tập tốt hơn.
BÀI LÀM 3
(Chuyện “Vẽ trứng”)
Ở châu Á có những họa sĩ nổi tiếng như: Đường Bá Hổ, Tề Bạch Thạch., thì ở châu Âu có những danh họa như Van Gốc, Lê-ô-na-đô đa Vin-xi…. Danh họa Lê-ô-na-đô đa Vin-xi bắt đầu sự nghiệp hội họa của mình bằng việc học ba năm liền vẽ trứng, một sự kiên nhẫn đáng thán phục.
Lê-ô-na-đô đa Vin-xi là họa sĩ vĩ đại thời Phục Hưng, ông là người Ý, sinh ngày mười lăm tháng năm năm 1452 tại An Chi-a-nô. Từ nhỏ, Lê-ô-na-đô đa Vin-xi đã rất thích vẽ tranh.
Một lần, cha Lê-ô-na-đô đa Vin-xi thấy một con gián trên tường, ông vội lấy vợt đập gián thì mới biết con gián giống như thật ấy do Lê-ô-na-đô đa Vin-xi vẽ. Sau lần ấy, cha của Lê-ô-na-đô đa Vin-xi từ bỏ ý định bắt cậu bé học ngành luật và ủng hộ Đa Vin-xi học vẽ tranh.
Hồi ấy, Đa Vin-xi mới có bốn tuổi, cha cậu đưa cậu đến nhà danh họa Vê-rô-ki-ô xin học.
Suốt mười mấy ngày đầu, thầy Vê-rô-ki-ô chỉ cho Lê-ô-na-đô đa Vin-xi vẽ trứng gà. Ban đầu, cậu vẽ rất cẩn thận, chăm chỉ từng quả trứng. Cậu vẽ hết quả này đến quả khác và bắt đầu nhàm chán. Thầy Vê-rô-ki-ô bèn bảo:
– Con đừng tưởng vẽ trứng là dễ! Trong một nghìn quả trứng xưa nay không có lấy hai quả hoàn toàn giống nhau đâu. Muốn thể hiện thật đúng hình dạng của từng quả trứng, người họa sĩ phải rất khổ công mới được.
Thầy lại nói:
– Tập vẽ đi vẽ lại quả trứng thật nhiều lần, con sẽ biết quan sát sự vật một cách tỉ mỉ và miêu tả nó trên giấy vẽ một cách chính xác. Đến lúc ấy, con muốn vẽ bất cứ cái gì cũng đều có thể vẽ được như ý.
Cậu không kêu ca chán nản nữa mà kiên trì vẽ trứng gà trong suốt ba năm liền. Sau nhiều năm khổ luyện, Lê-ô-na-đô đa Vin-xi đã trở thành danh họakiệt xuất. Những tác phẩm của ông đã trở thành những kiệt tác nổi tiếng thế giới và được trưng bày ở nhiều bảo tàng lớn, là niềm tự hào của toàn nhân loại. Không chỉ là danh họa, Lê-ô-na-đô đa Vin-xi còn là nhà điêu khắc, kiến trúc sư và là nhà bác học lớn của thời đại Phục Hưng.
Các nhà văn, nhà thơ, nhà khoa học, họa sĩ… đã có trí tuệ và tài năng hơn người còn phải ra công rèn luyện huống hồ là người bình thường như chúng ta. Em hứa noi gương ông Lê-ô-na-đô đa Vin-xi bền chí học tập để có được tương lai tốt đẹp.
Đề 8 Em hãy kể một câu chuyện về một người có lòng tự trọng.
BÀI LÀM 1
(Chuyện về danh tướng Trần Bình Trọng)
Lịch sử Việt Nam ghi nhận những vua quan, danh tướng, chiến sĩ kiệt xuất đã đổ bao công sức, hy sinh để giữ gìn non sông gấm vóc nước ta. Bên cạnh các vị quốc tướng, công thần khác, danh tướng Trần Bình Trọng cũng đã lưu danh sử sách bằng khí phách khẳng khái ngoan cường và lòng tự trọng cao cả của mình.
Năm 1285, quân Nguyên Mông ồ ạt sang xâm lược nước ta. Thế giặc mạnh như thác lũ khiến triều đình và quân dân phải cân nhắc khi tham gia trận chiến. Để bảo toàn và đảm bảo chiến thắng, Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã thực hiện chiến dịch “vườn không nhà trống”. Triều đình sơ tán về Nam Định. Toàn bộ lực lượng quân đội và nhân dân rút vào rừng sâu trấn thủ nơi hiểm yếu, bỏ mặc thành trì vắng lặng, làng xóm không người. Hưng Đạo Vương chờ thế giặc suy giảm vì phong thổ, hao mòn lương thực, đạn dược sẽ phản công. Trên đường rút lui của vua, bãi sông Thiên Mạc là điểm mấu chốt để chặn giặc, lừa giặc. Tướng Trần Bình Trọng được giao chỉ huy trấn giữ bãi sông này đè chặn đường tiến quân của giặc.
Trần Bình Trọng sinh năm 1259, người xã Bảo Thái, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Ông kết hôn với công chúa, tước Bảo Nghĩa Hầu.
Thế giặc rất mạnh, Trần Bình Trọng cho quân đóng trại ở bờ sông Thiên Mạc, kiên quyết ngăn giặc vượt qua sông xuôi thuyền về Nam. Sau nhiều ngày chiến đấu, lực lượng quân lính hao mòn. Lúc này, hai vua Trần đã đến Nam Định. Cánh quân của Trần Bình Trọng chỉ còn là một đội quân nhỏ. Quân giặc đông hàng vạn tên vây đánh đội quân cảm tử, Trần Bình Trọng bị giặc bắt. Biết Trần Bình Trọng là danh tướng, giỏi võ nghệ, thông thạo binh thư, giặc ra sức thu phục ông hàng, hòng biến ông thành kẻ bán nước, dẫn đường cho chúng cướp nước ta. Trần Bình Trọng im lặng không đáp. Tướng giặc ngọt ngào phủ dụ:
– Có muốn làm Vương đất Bắc không?
Trần Bình Trọng quát:
– Ta thà làm quỷ nước Nam, còn hơn làm Vương đất Bắc!
Biết không thể thu phục được ông, giặc trói chặt ông ở bãi sông, chờ nước triều dâng cao dìm ông chết. Tuy bị giặc giết hại nhưng khí phách trung liệt của Trần Bình Trọng đã làm rung động đã lòng quân thù. Tướng chỉ huy giặc lúc ấy ngửa mặt than: “Danh tướng nước Nam trung liệt như thể, ta e thôn tính nước Nam còn nhiều việc khó.”.
Trần Bình Trọng mất, vua Trần Nhân Tông phong ông là Bảo Nghĩa Vương. Trần Bình Trọng bị quân giặc giết hại nhưng khí phách và lòng tự trọng của ông sống mãi nghìn thu.
Tấm gương trung liệt của Trần Bình Trọng làm xúc động hàng triệu trái tim con người và là tấm gương sáng chói cho chúng em noi theo. Em hứa rèn luyện phẩm chất cách mạng, lòng tự trọng của mình, không vì bất kì mối tham lợi nào mà quên đi danh dự người Đội viên Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh.
Đề 9 Hãy kể một câu chuyện về một người có lòng quả cảmmà em biết
BÀI LÀM
(Chuyện “Lá cờ thêu sáu chữ vàng ”)
Có một vị tướng trẻ lập nhiều chiến công hiền hách trong cuộc chiến chống quân Nguyên Mông. Vị tướng trẻ tuổi còn thiếu niên lưu danh sứ sách ấy là Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản.
Trần Quốc Toản sinh năm 1267, là quý tộc họ Trần, gốc tích của ông chưa rõ nhưng nhiều thuyết cho rằng ông là con của Hoài Đức Vương Trần Bá Liệt, sống ở Tây Chân (Nam Định).
Năm 1282, vua Trần mở hội nghị Diên Hồng ở bến Binh Than để bàn kế đánh giặc. Trần Quốc Toản mới mười lăm tuổi nên không được tham dự. Quốc Toản nóng lòng muốn biết kế sách chiến đấu nên to tiếng với quân Cấm Dực. Vua nghe thấy gọi thị vệ mang cam đến ban cho ông, rồi bảo ông quay về. Căm thù quân giặc, giận mình còn ít tuổi không được tham gia bàn việc nước, Quốc Toản bóp nát quả cam lúc nào không hay. Sau đó ông về quê, huy động người cùng họ hàng thân thuộc được hơn một ngàn người, phiên chế thành quân ngũ, rèn vũ khí, đóng chiến thuyền, ngày đêm luyện tập để chờ ngày giết giặc.
Năm 1285, quân Nguyên ồ ạt tiến quân vào nước ta, ông đưa quân lên đường tham gia chiến đấu, giương cao lá cờ thêu sáu chữ vàng: “Phá cường địch, báo hoàng ân” (Phá giặc mạnh, báo ơn vua). Quân của ông đi đến đâu,giặc tan đến đó. Tháng năm năm 1285, ông cùng Chiêu Thành Vương và tướng Nguyễn Khoái đánh tan giặc ở Tây Kết. Sau đó ông tham gia chiến đấu với Trần Quang Khải, lập nên chiến công Chương Dương nổi tiếng và tiến quân về giải phóng Thăng Long. Quân giặc rút chạy. Ông được lệnh mai phục ở sông Như Nguyệt chặn đường thoát của giặc. Cánh quân chủ lực của địch rút chạy qua đây do Thái tử Thoát Hoan chỉ huy. Quân của Trần Quốc Toản đổ ra đánh rất mạnh, nhưng trong chiến thắng vẻ vang này, người anh hùng mới mười tám tuổi đầy hứa hẹn đó đã hy sinh. Được tin, vua Nhân Tông vô cùng thương tiếc, truy phục ông tước Vương và đích thân làm bài văn tế lễ.
Mười lăm tuổi, Trần Quốc Toản đã là danh tướng. Ông là người tiêu biểu cho lòng quả cảm. yêu nước của tuổi trẻ Việt Nam. Em tự hào chi đội của em được mang tên ông: chi đội Trần Quốc Toản.
Đề 10 Hãy kể một câu chuyện về một người có lòng trungthực, dũng cảm.
BÀI LÀM
(Chuyện Geogre Washington và chiếc rìu nhỏ)
Một trong những danh nhân thế giới được người đời ca tụng về đức tính trung thực là Tổng thống Geogre Washington của Mỹ. Không phải khi đã là Tổng thống, Geogre Washington mới được ca ngợi về đức tính trung thực mà ngay từ bé, ông đã có tính trung thực, dũng cảm. Chuyện về thời niên thiếu của ông rất thú vị.
Washington sinh tại Bridges Creek, tiểu bang Virginia vào ngày hai mươi hai tháng hai năm 1732, cha ông là một trại chủ giàu có. Một hôm, cậu bé Washington nghịch ngợm đã dùng một chiếc rìu nhỏ chặt cây hoa anh đào mà bố cậu rất quý. Khi bố cậu hỏi, cậu biết là việc mình làm sai thế nào cũng bị bố trách mắng, nhưng cậu vẫn dũng cảm nhận lỗi:
– Bố ơi, chính con đã chặt cây hoa anh đào, bố hãy phạt con đi.
Bố cậu tuy mất cây hoa anh đào yêu quý nhưng ông lại vui vẻ nói: “Con trai ngoan, con đã dũng cảm nói sự thật. Điều ấy khiến bố rất vui. Bố không trách phạt con, nhưng con phải nhớ trung thực là một đức tính tốt. Con phải biết phát huy nó;”
Washington ghi nhớ lời cha dạy và xem trung thực là nguyên tắc sống của mình, về sau, ông trở thành một người chính trực, một Tổng thống vĩ đại sống mãi trong lòng nhân dân Mỹ.
Từ xưa đến nay, trong cuộc sống cũng như trong truyện kể, kể cả truyện cổ tích, người trung thực luôn luôn được ca ngợi. Họ bao giờ cũng có bản lĩnh vượt mọi khó khăn trong cuộc đời. Họ làm được nhiều việc tốt và có khảnăng giúp đỡ người khác. Bản thân họ là tấm gương đạo đức trong sáng. Bác Hồ đã dạy chúng em: khiêm tốn, thật thà, dũng cảm. Em nguyện noi gương Tổng thống Geogre Washington và thực hiện đúng lời dạy của Bác Hồ.
Đề 11 Em hãy kể câu chuyện về một người đã chiến thắngbệnh tật (em được nghe kể, đọc ở sách báo hoặc nghethầy cô giáo kể).
BÀI LÀM
(Chuyện “Nữ kị sĩ trên xe lăn Trương Hải Địch ”)
Em đã được đọc nhiều truyện kể viết về cuộc đời của những người có nghị lực chiến thắng bệnh tật nhưng hầu hết họ đều là nam giới như thầy Nguyễn Ngọc Ký, nhạc sĩ Bết-tô-ven…. Tình cờ, em, xem được truyện kể về một nhà văn nữ, dịch giả Trương Hải Địch. Cô được mọi người tôn vinh là “Nữ kị sĩ trên xe tăng”.
Từ tấm bé, Trương Hải Địch cũng hồn nhiên vô tư như bao em nhỏ khác. Cô bé cũng xinh tươi, phơi phới như búp trên cành, như bao trẻ em trên đời. Khi Trương Hải Địch lên năm tuổi, bất hạnh đến với cô. Căn bệnh u cột sống tàn khốc đã hủy hoại cuộc sống của cô. Trương Hải Địch không còn được đến trường, không còn được chạy nhảy vui đùa như các bạn nữa. Mọi sinh hoạt hằng ngày của cô đều phải có bố mẹ ở bên chăm lo.
Nhìn các bạn nhỏ nhảy nhót, chơi đùa vui vẻ, Trương Hải Địch lại khóc nức nở. Để cô đỡ buồn khổ, bố mẹ cô mua cho cô rất nhiều đồ chơi đẹp. Bố mẹ cô yêu thương, chăm sóc, kể cho cô nghe nhiều câu chuyện hay để cô đỡ thấy thời gian dài trống trải. Dần dần, Trương Hải Địch cũng quên đi bệnh tật của mình. Cô tự chăm sóc mình phần nào để bố mẹ đỡ lo lắng.
Một hôm, lắng nghe đám bạn trao đổi với nhau về mơ ước của mỗi người, Trương Hải Địch cũng muốn bộc lộ hoài bão của mình. Thấy Trương Hải Địch tàn tật, phải ngồi xe lăn, mọi người có vẻ thờ ơ. Một người còn nói:
Người tàn tật mà cũng có ước mơ à!
Không hề phật ý. Trương Hải Địch cười và nói:
– Ước mơ của tôi là trở thành nhà văn để viết các câu chuyện thật hay cho các bạn nhỏ trên thế giới.
Mọi người xúc động sững sờ trước lòng dũng cảm của Trương Hải Địch. Từ đó, không một ai dám chế nhạo Trương Hải Địch là người tàn tật nữa. Để thực hiện ước mơ của mình, Trương Hải Địch bắt đầu tự học ở nhà. Cô ngồi trên xe lăn nhưng đã dịch được rất nhiều tác phẩm văn học nước ngoài. Mọi người rất khâm phục trước ý chí và nỗ lực làm việc của Trương Hải Địch.
Câu chuyện về nữ dịch giả Trương Hải Địch làm em vô cùng xúc động vàthán phục. Cô đã nêu cao tấm gương chiến thắng bệnh tật. Cô đã giành lại đóa hoa hồng tươi mát từ bàn tay của thần bệnh tật và chết chóc. Noi gương nữ văn sĩ, chúng em phải nỗlực học tập, phấn đấu trong cuộc sống để đạt mọi thành quả tốt đẹp.
Đề 12 Em hãy kể một câu chuyện về một người có tấm lòng nhân hậu, biết giúp đỡ bạn (chuyện người thật, được ghi nhận trong lịch sử, trong truyện kể).
BÀI LÀM 1
(Chuyện “Tình bạn cao cả của thầy đồ Lê Tăng Quýnh
và nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu “)
Tài năng và tính cách cao thượng của con người là một nét đẹp chinh phục mọi tầng lớp nhân dân đôi khi đem lại những nhân duyên kì ngộ. Tình bạn của thầy đồ Lê Tăng Quýnh và nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đẹp như thơ, lung linh như truyện cổ tích. Chuyện thầy đồ Lê Tăng Quýnh đã cưới vợ cho bạn mình như sau.
Nguyễn Đình Chiểu sinh năm 1822, mất năm 1888 thường gọi là Đồ Chiểu, quê gốc Thừa Thiên — Huế, nhưng ông sống ở Gia Định, sau dời về Ba Tri (Bến Tre). Năm 1843, Nguyễn Đình Chiểu đỗ Tú tài. Năm 1848, ông đang học tập ôn thi để chuẩn bị dự kì thi năm Kỉ Dậu 1849 thì mẹ ông mất ở Gia Định. Nguyễn Đình Chiểu tạm gác giấc mộng công danh, bỏ thi, trở về nhà chịu tang mẹ. Dọc đường, vì quá thương mẹ, ông khóc đến nỗi mù cả hai mắt. Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ nổi tiếng với các tác phẩm Lục Vân Tiên, Ngư Tiểu y thuật vấn đáp, Dương Từ Hà Mậu. Tác phẩm Dương Từ Hà Mậu đã làm rung động lòng thầy đồ Lê Tăng Quýnh ở Cần Giuộc. Thế là Đồ Quýnh khăn gói đến Bến Tre, tìm gặp Đồ Chiểu để kết bạn. Ngay lần đầu gặp gỡ hai người đã trở thành bạn thân thiết của nhau. Cảm phục trước tài năng và đạo đức của Đồ Chiểu đông thời ái ngại cho Đồ Chiểu sống một mình, phòng đơn gối chiếc, Đồ Quýnh bèn tính chuyện cưới vợ cho bạn. Biết tính khảng khái của Đồ Chiểu. Đồ Quýnh âm thầm thu xếp công việc. Đồ Quýnh bày tỏ ý định của mình cùng em gái. Em gái Đồ Quýnh là cô Lê Thị Điền, một cô gái đẹp người đẹp nết dang tuổi kén chồng. Theo lời khuyên của Đồ Quýnh, cô Điền đóng giả nam nhi đến nhà Đồ Chiểu xin học. Hằng ngày tiếp xúc với Đồ Chiểu, cô thật sự kính phục con người tao nhã, tâm hồn chứa chan tình cảm cao đẹp với dân với nước của nhà thơ. Cô càng khâm phục tài năng của nhà thơ bao nhiêu, càng thương cảm số phận của nhà thơ mù mà sáng ngời khí phách hào kiệt bấy nhiêu. Cô Điền đã vượt qua bao toan tính thường tình của người đời đồng ý làm vợ Đồ Chiểu. Không bao lâu sau, Đồ Chiểu cưới em gái của Đồ Quýnh. Cô Điền đảm đang, tháo vát sát cánh bên chồng thậtxứng danh là “nội tướng” của nhà thơ lỗi lạc và em gái thầy Đồ Quýnh biết kính đạo, trọng nhân.
Chuyện Đồ Quýnh cưới vợ cho nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đẹp như truyện cổ tích, nên thơ thấm đượm tình bạn tri kỷ, tri âm. Đồ Quýnh giúp bạn cũng chính là kén cho em gái một người chồng có tư cách hơn người, tìm cho mình một người em rể danh nhân, đạo mạo. Em nghĩ nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu xứng đáng được hạnh phúc như vậy. Tình bạn của hai người được đi vào sử sách, trở thành giai thoại văn chương để đời sau chúng em thán phục, cảm động và học tập.
BÀI LÀM 2
(Mười năm cõng bạn đi học)
Bài chính tả tuần hai em đã được học viết theo nội dung bài báo “Mười năm cõng bạn đi học” của báo Đại đoàn kết, kể về một tấm gương giúp đỡ bạn thật cảm động.
Chuyện xảy ra ở xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Bạn nhỏ được báo tuyên dương là bạn Đoàn Trường Sinh. Sinh trong mười năm liền, đã cõng bạn Hanh đến trường. Tuyên Quang là một tỉnh miền núi, quãng đường từ nhà Sinh tới trường dài hơn 4 ki-lô-mét, vượt suối, khúc khuỷu, gập ghềnh. Sinh đã không quản ngại khó khăn, ngày ngày cõng bạn Hanh bị liệt hai chân, đến trường rồi về nhà. Tuy chỉ có vài dòng ngắn ngủi, chuyện kể trên làm em xúc động mãnh liệt. Em như thấy bạn Sinh chịu thương chịu khó giúp đỡ Hanh. Em thấy đường đồi, đá suối, dốc núi, nước chảy mà bạn Sinh vẫn dũng cảm vượt qua. Những ngày nắng ráo không nói làm gì, còn những ngày mưa dầm nước xiết thì sao? Điều đáng khâm phục hơn nữa là Sinh làm việc này không phải chỉ một ngày. Sinh cõng bạn trong mười năm liền. Không phụ lại tình cảm và công lao giúp đỡ bạn của Sinh, Hanh nhiều năm liền là học sinh tiên tiến, có năm Hanh còn tham gia Đội tuyển học sinh giỏi cấp huyện.
Suốt bậc Phổ thông, chúng em chỉ học mười hai năm, thế mà Sinh đã cõng Hanh mười năm. Ở góc trời miền núi xa xôi của tỉnh Tuyên Quang sáng ngời một tình bạn cao cả, cảm động như thế thật đáng khâm phục. Xin hãy cho em gửi tình cảm yêu thương, kính phục và trân trọng của em đến với cả hai anh.
Đề 13Em hãy kể một câu chuyện về nhân vật có nghị lực (có thật trong lịch sử Việt Nam)
• Chú ý giới hạn đề bài:
– Chu đô: nhân vật có nghị lực là người có thật trong lịch sử.
Gợi ý tìm nhân vật:
– Mai An Tiêm trong “Sự tích quả dưa hấu”
– Sơn Tinh (Tản Viên).
BÀI LÀM 1
(Sự tích quả dưa hấu)
Mỗi độ xuân về, mọi nhà đều dâng hoa quả thờ cúng tổ tiên. Theo tục lệ từ ngàn xưa, bàn thờ ông bà của gia đình em cũng có một quả dưa hấu. Nhìn quả dưa hấu em nhớ đến ông Mai An Tiêm, một người có nghị lực và có công phát hiện, trồng giống dưa đỏ ngon lành này.
Mai An Tiêm vốn là một người bị bán làm nô lệ cho vua Hùng. Ông khỏe mạnh, khéo léo, chăm chỉ lao động lại có đức độ nên được vua Hùng tin yêu gả con gái cho. Từ khi trở thành con rể vua Hùng, cuộc sống của Mai An Tiêm trở nên giàu sang và có uy thế hơn trước. Song, không vì thế mà ông sao nhãng lao động. Ông tin vào luật nhân quả của nhà Phật, đã nói với vợ:
– Giàu sang này là nhờ ở kiếp trước cả.
Vợ Mai An Tiêm đem câu nói đó nói với vua Hùng. Hùng Vương cả giận, đày ông và gia đình ra bãi biển Thanh Hóa, vùng đất Nga Sơn ngày nay. Lúc ấy, vợ chồng An Tiêm đã có hai con: một trai một gái.
Bước chân lên đảo hoang vắng, chỉ nghe rừng cây lao xao và gió biên ào ạt, vợ An Tiêm vô cùng lo sợ, còn hai con bé bỏng thì òa khóc. An Tiêm bình tĩnh an ủi vợ:
– Nàng đừng lo, còn hai bàn tay này, ta còn làm lụng nuôi gia đình được.
Ông cùng vợ chặt cây dựng nhà và bắt tay vào việc khai khẩn đất hoang.
Một hôm, đang cuốc đất khai hoang, ông trông thấy một đàn chim từ phía Tây bay lại, nhả một số hạt đen trên nền cát ẩm. Ông theo dõi mấy ngày sau thì thấy hạt nảy mầm thành cây. Tuy không biết là cây gì nhưng ông cùng gia đình ra sức chăm bón cho cây nhanh tươi tốt. Rồi cây ra dây leo, bò lan đầy bãi, ra hoa, kết trái thành quả tròn đẹp. Quả chín có màu xanh đen thẫm, vân đen bóng mờ mờ. Mai An Tiêm bổ ra thấy ruột đỏ, ăn vào ngon ngọt và giải khát. Từ đấy, ông ra sức chăm trồng, lấy quả ăn, còn khắc tên mình vào quả, thả xuống biển. Các thuyền buôn bắt được, ghé đảo đổi lương thực, vật dụng cho ông để mua dưa. Ông trồng dưa hấu đầy khắp đảo và buôn bán với dân thuyền mà trở nên giàu có. Nhân dân khắp nơi hay tin, đổ xô về đảo khai hoang và trồng dưa hấu. Cái đảo hoang, nơi An Tiêm bị đày trở nên một vùng đất trù phú. Được tin đó, vua Hùng cho người mời ông về và giống dưa đỏ được phổ biến. Nhân dân ta tôn Mai An Tiêm là ông tổ nghề trồng dưa đỏ.
Trong hoàn cảnh bị đày trên đảo hoang, ông Mai An Tiêm vẫn bình thản đối mặt với mọi khó khăn, tự mình khai khẩn đất hoang để trồng trọt và nuôi sống gia đình, còn phát triển được giống dưa quý. Câu chuyện “Sự tích quả dưa hấu “mãi mãi là câu chuyện ấm áp đâu xuân để chúng em kính tưởng tổ tiên và biêt ơn ông Mai An Tiêm, người trồng giống dưa đỏ ngon lành này.
BÀI LÀM 2
(Sự tích Sơn Tinh – Tản Viên)
Truyện cổ tích kể rằng: Sơn Tinh là một vị thần đã giúp nhân dân ta chống lại lũ lụt. Sơn Tinh là người có thật, ông rất giỏi và kiên cường, rất có công trong việc giúp dân phòng chống bão lụt và trị thủy.
Sơn Tinh là nhân vật nổi tiếng thời các vua Hùng. Truyền rằng, ông nhà nghèo, nhờ cứu con vua Thủy Tề thoát chết mà được Long Vương tặng một chiếc gậy thần ước gì được nấy ông ngụ tại núi Tản, được nhân dân gọi là Tản Viên.
Vua Hùng thứ mười tám có một cô công chúa tên là Mị Nương, xinh đẹp tuyệt trần. Công chúa đến tuổi lấy chồng. Sơn Tinh và Thủy Tinh (con trai vua Thủy Tề) đều đến hỏi. Vua Hùng rất khó xử vì cả hai chàng trai đều rất giỏi. Cuối cùng, nhà vua nói:
– Ngày mai, ai đem được voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao đến sớm hơn sẽ được gả công chúa.
Sáng sớm hôm sau nhờ gậy thần, Sơn Tinh đem đủ lễ vật đến trước và đưa công chúa về núi Ba Vì ở Hà Nội ngày nay.
Thủy Tinh đến sau, biết Sơn Tinh đã cưới được Mị Nương, giận lắm. Thủy Tinh bèn cho nước dâng lên làm lụt, hô phong hoán vũ, sai lũ ba ba, thuồng luồng, quái vật đến đánh Sơn Tinh để đòi công chúa. Nhờ gậy thần giúp, nước dâng đến đâu, Sơn Tinh làm cho núi cao đến đấy ông lại cùng nhân dân dùng lưới, đinh ba, gậy gộc… giết hết lũ quái vật Thủy Tinh thua đau, đành rút quân về. Thủy Tinh căm hận Sơn Tinh, năm nào cũng dâng nước đánh Sơn Tinh. Sơn Tinh cùng nhân dân làm đê điều, đắp đập ngăn sông trị thủy, làm kè chống bão, chống lũ rừng và thủy triều dâng cao. Ông giúp dân chống lũ lụt, canh tác theo mùa màng để tránh nạn lụt hàng năm, Sơn Tinh có công lớn trong việc xây dựng nền nông nghiệp và thủy lợi nước ta. Trong nhiều năm, ông kiên trì cùng dân đắp đê ngăn lũ lụt, quyết bảo vệ mùa màng và tính mạng của nhân dân. Ông được nhân dân tôn làm thần, lập đền thờ ở núi Tản Viên. Chuyện về cuộc đời ông đã trở thành huyền thoại cổ tích.
b. Chủ đề ước mơ:
Uớc mơ đẹp
Đề 1 Em hãy kể một câu chuyện (đã nghe, đã đọc, được thầycô giáo kể) nói về ước mơ đẹp.
Hướng dẫn chọn chuyện kể:
Chương trình học có hai câu chuyện:
– “Ở Vương quốc Tương Lai” (Xem bài mẫu T2 – tuần 8).
– “Lời ước dưới trăng” (chú dề ước mơ và nhân hậu) (Xem bài mẫu ở chủ đề nhân hậu.)
Chú ý:
Chuyện “Lời ước dưới trăng” thể hiện hai chủ đề: ước mơ và nhân hậu.
1. Chị Ngàn là một cô gái nhân hậu.
2. Thể hiện ước mơ: làng của Ngàn có tập tục dỗ thương: tục ước nguyện ở giếng làng. Điều đó thể hiện khát vọng cháy bỏng của dân làng, của các cô gái về một tương lai tốt đẹp. Khi kể, nội dung chuyện kể không thay đổi, chỉ thay đổi mở bài, kết luận .
– Mở bài: Giới thiệu tập tục nói lời ước của dân làng và nhân vật Ngàn trong câu chuyện.
– Kết bài: Nêu ý nghĩa của câu chuyện: nói lên ước mơ tốt đẹp của chị Ngàn dành cho cho Yên, mẹ chị Yên.
Các em có thể tham khảo mở bài, kết bài mẫu sau đây:
• Mở bài:
Mong muốn điều tốt lành cho chính mình và cho mọi người là ước mơ chính đáng của mọi tầng lớp nhân dân. Bạn nhỏ trong câu chuyện sau đã giúp chị Ngàn nêu được ước nguyện của mình.
• Kết luận:
Để biến lời ước của chị Ngàn trở thành hiện thực, em nghĩ bạn nhỏ và chị Ngàn cần vận động bà con láng giềng giúp mẹ chị Yên chữa bệnh. Em xin cầu chúc cho mẹ chị Yên được dân làng giúp đỡ mau chóng khỏi bệnh. Nếu em được ước theo tập tục nói trên, em sẽ ước cho cuộc sống ngày nay nâng cao hơn nhân dân ta sống bình yên, hạnh phúc hơn.
– Truyện cổ tích: “Viên ngọc ước”.
BÀI LÀM
(Chuyện “ Viên ngọc ước ”)
Có một câu chuyện kể về mọi ước mơ của con người đều được toại nguyện. Đó là chuyện “ Viên ngọc ước”
Chuyện xảy ra xưa lắm, vào năm trời hạn hán, thiên tai lũ lụt, mùa màng thất bát đói kém khắp nơi. Đê là con trai của một nhà nghèo đông con nên cậu phải đi ở đợ cho một lão trọc phú để giúp bố mẹ nuôi đàn em. Lão trọc phú giao cho Đê chăn dắt cả đàn trâu. Một hôm, do sơ xuất. Đê để lạc mất con trâu lão chủ quý nhất đàn. Cậu chạy bộ khắp nơi tìm kiếm nhưng tìm khắp nơi mà chẳng thấy trâu đâu. Đê sợ bị chủ phạt đền nên cậu không dám về nhà, lang thang khắp nơi đến lúc chân mỏi rã rời đành dừng lại nghỉ. Đê đang mơ màng chợt choàng tỉnh vì thấy đau nhói khắp mình. Hoá ra lũ quạtưởng anh đã chết nên kéo đến mổ xác. Đê vờ nằm im rồi bất ngờ tóm được một con. Quạ bật thốt tiếng người van xin:
– Xin tha cho tôi tôi sẽ biếu anh một vật quý.
Nói rồi, quạ nhả vào tay Đê một viên ngọc nhỏ sáng lấp lánh và dặn:
– Đây là viên ngọc màu nhiệm nhất thế gian. Anh muốn ước điều gì sẽ được toại nguyện. Xin hãy giữ gìn ngọc cẩn thận.
Rồi quạ bay di. Đê ngắm nghía viên ngọc, cậu buột miệng:
– Ngọc ơi, ta muốn tìm thấy con trâu bị lạc để trả lại cho ông chủ.
Ngay lúc ấy, con trâu quý của lão trọc phú lững thững đi đến trước mặt Đê. Đê mừng rỡ reo lên:
– Ôi quả là viên ngọc thần kì.
Đê cẩn thận cất viên ngọc quý vào túi rồi dắt trâu về trả cho lão chủ. Từ ngày có ngọc quý. Đê trở nên sung sướng, giàu có. Đê xây nhà, mua ruộng, tìm thầy dạy chữ cho các em. Không chỉ lo cho gia đình, Đê còn ước có nhiều gạo, tiền đê giúp bà con xóm giềng. Thời gian thấm thoắt, Đê trở thành một chàng trai khỏe mạnh, cha mẹ giục anh cưới vợ. Một hôm, chàng nói với viên ngọc:
– Ngọc ơi ta muốn có một người vợ đẹp.
Lời ước vừa dứt thì ngoài ngõ đã có tiếng bà mối đến bảo:
– Ở làng bên có nhà giàu đánh tiếng muốn gả con gái cho anh.
Đê theo bà mối đến xem mắt cô gái. Thấy cô gái mày ngài mắt phượng, dung nhan diễm lệ, chàng bằng lòng cưới cô gái về làm vợ. Cô vợ chẳng chịu làm gì chỉ theo chồng dò hỏi xem viên ngọc diệu kì cất chỗ nào. Rắp tâm muốn lấy cắp ngọc quý cô ta chuốc rượu cho chồng say bí tỉ. Trong cơn say, Đê lảm nhảm nói ra nơi để ngọc cho vợ biết. Cô vợ chờ chồng ngủ say mê man lấy trộm viên ngọc rồi lẻn về nhà cha mẹ đẻ. Đê tỉnh dậy, biết mất ngọc lại chẳng thấy vợ đâu, chàng sang nhà bố mẹ vợ để tìm, nhưng vừa đến cổng, bố mẹ vợ đã xua chó ra cắn đuổi.
Chán ngán cho nhân tình thế thái, Đê vừa đi vừa than:
– Lòng người qua khó dò! Vợ mình còn thế nữa là người thiên hạ!
Đột nhiên có một cụ già cầm một bông hoa trắng, một bông hoa đỏ đưa cho Đê. Cụ già bảo:
– Con đừng buồn, hãy mang bông hoa trắng này cài vào cửa nhà bố mẹ vợ, rồi đợi đến khi nào họ cần thì đưa bông hoa đỏ ra giúp. Lúc đó, con sẽ lấy lại được vợ và viên ngọc.
Đê chưa cả cảm ơn cụ già đã biến mất.
Sáng hôm sau vợ Đê thấy có bông hoa lạ cài cửa bông hoa thật đẹp, những cánh hoa lung linh kì ảo, hoa tỏa hương thơm ngát khắp nhà.
Mọi người ngửi hương thơm ấy đều khỏe khoắn hơn duy chỉ có vợ chồng lão nhà giàu cùng con gái bị đau đầu và ngứa mũi. Họ ra sức gãi, càng gãi, mũi càng sưng to và dài ra. Ba người vô cùng hoảng sợ vì cài mũi của họ không ngừng dài ra như cái vòi voi con. Lão nhà giàu lo sợ, vội cho người đi mời thầy thuốc nhưng không ai chữa được. Đê đợi cho nhà vợ hoảng hốt, rối ren gần như tuyệt vọng mới thủng thỉnh bước vào nhà vợ, chàng không nhịn nỗi cười khi thấy cái mũi kì dị của ba người. Chàng nói:
– Chỉ tại cha sai con gái lấy trộm ngọc của con mà ra nông nỗi này. Nếu cha trả ngọc, trả lại vợ cho con thì cái mũi sẽ lành lặn như cũ.
Lão nhà giàu đành phải ưng thuận. Đê đưa bông hoa đỏ ra cho họ ngửi. Chỉ trong chốc lát “cái vòi voi con” co lại, trở thành cái mũi nguyên hình như xưa.
Từ đó, vợ Đê ngoan ngoãn, nghe lời chồng, chăm chỉ làm ăn. Họ sống với nhau đầm ấm, thuận hòa. Vợ chồng Đê, nhờ viên ngọc ước, cứu giúp rất nhiều dân chúng khó khăn, nguy khốn.
Khi Đê đã là một cụ già râu tóc bạc phơ thì con quạ năm xưa bay đến kêu to:
– Quạ đây, quạ đây, mau trả ta viện ngọc! Trả ta viên ngọc!
Cụ Đê vội lấy viên ngọc trả lại cho quạ. Quạ ngậm viên ngọc, bay vút lên cao, biến mất. Từ đó đến nay, không biết bao nhiêu người đi tìm nhưng chưa ai tìm được viên ngọc ước ấy.
Nếu em có một viên ngọc ước như câu chuyện trên, em sẽ ước cho hành tinh Trái Đất của chúng ta mãi mãi tươi xanh và thanh bình, hạnh phúc.
Đề 2 Hãy kể một câu chuyện về một ước mơ đẹp giúp íchcho đời của một nhân vật có thật, ước mơ đó đã được thực hiện trong thực tế.
BÀI LÀM 1
(Chuyện “Anh em nhà Wright với ước mơ chế tạo máy bay”)
Ngày xưa, con người chỉ có thể đi từ nơi này đến nơi khác bằng cách đi bộ đi ngựa và ghe thuyền. Những phương tiện ấy ngày một được cách tân nhưng việc đi lại của con người vẫn tốn rất nhiều thời gian. Người ta bắt đầu mơ ước đến một phương tiện di chuyển nhanh hơn. Người ôm ấp ước mơ đó nhiều nhất và biến điều đó thành hiện thực là anh em nhà Rai (Wright).
Anh em nhà Rai sống ở bang Ohio, nước Mỹ. Người anh là Uynbua Rai (Wilbur Wright), sinh năm 1867, người em là Orơoen Rai (Orwell Wright) sinh năm 1871. Anh em nhà Rai từ nhỏ đã rất thông minh, thích lắp ráp đồ chơi, máy móc cơ khí và phi hành. Hai anh em đều ấp ủ ước mơ chế tạo ra một “chiếc xe bay”. Một hôm, cha đi công tác xa về mua cho hai anh em một món đồ chơi rất lạ, hai anh em chưa thấy bao giờ, đó là “chuồn chuồn bay” cấu tạo của “chuồn chuồn bay” rất đơn giản gồm một que và ba cánh quạt tạo thành, phía dưới có một sợi dây thun, chỉ cần kéo căng sợi dây thun rồi thả tay ra là “chuồn chuồn bay” bay được lên trời. Từ đó, ước mơ chế tạo một chiếc xe bay càng nung nấu hai anh em. Hai anh em đều nghĩ: sức mạnh nào đã thổi “chuồn chuồn bay” bay lên trời. Ước mơ cháy bỏng đó là niềm đam mê thôi thúc hai anh liên tục làm nhiều thí nghiệm. Hai mươi năm sau, sau bao vất vả tìm tòi, nghiên cứu, thử nghiệm, nguyện vọng đó của họ cuối cùng đã biến thành hiện thực. Năm 1903, anh em nhà Rai đã phát minh ra chiếc máy bay đầu tiên trên thế giới, thực hiện được mộng tưởng bay lên trời xanh của mình và của loài người.
Nhờ có ước mơ chân chính và cao cả, các nhà khoa học đã đem lại những thành tựu to lớn, phục vụ cho hạnh phúc của toàn nhân loại. Kế thừa ước mơ của anh em nhà Rai. em ước mơ mình học giỏi, trở thành phi công giỏi, lái máy bay bay khắp bầu trời, giúp mọi người có thể đi nhanh và an toàn.
BÀI LÀM 2
(Chuyện “ước mơ bay như chim và phát minh ra chiếc dù của Lu-i Lê-nô-măng”)
Khi người ta ấp ủ một ước mơ gì đó, đơn giản chỉ là người ta mơ ước thực hiện điều đó mà thôi, còn khi ước mơ đã kết trái rồi, có đem lại lợi ích như thế nào, con người cũng không tính toán trước hết được. Em nghĩ ước mơ bay như chim của Lu-i Lê-nô-măng là như thế.
Lu-i Lê-nô-măng sinh ra trong một gia đình trí thức người Pháp. Từ lúc nhỏ, Lu-i Lê-nô-măng đã mơ tưởng: “Nếu con người có thể biết bay như chim thì chăng cần phải làm cầu thang”. Khi ông nói với các bạn suy nghĩ đó của mình, mọi người đều cười, cho ông là mơ tưởng viển vông. Nhưng không vì thế mà ông từ bỏ ước mơ của mình. Trải qua nhiều năm nghiền ngẫm, nghiên cứu, thí nghiệm, năm 1783, Lê-nô-măng đã thiết kế ra chiếc dù có ý nghĩa thực dụng đầu tiên trên thế giới, ông quyết định làm thí nghiệm nhảy dù từ trên tháp cao. Ngày ông biểu diễn thí nghiệm, người ta kéo tới vây quanh tháp đông nườm nượp. Trước tiên, Lê-nô-măng buộc một hòn đá nặng hơn trọng lượng một con ngựa vào chiếc dù rồi thả nó rơi từ tháp cao. Mọi người rất sửng sốt vì chiếc dù không lao nhanh xuống mà từ từ rơi xuống mặt đất. Sau đó, Lê-nô-măng đeo dù nhảy ra từ tháp cao. Chiếc dù bung ra và ông bay như một con chim rồi đáp xuống mặt đất an toàn. Mọi người mừng rỡ, hoan hô vang dội. Thế là ước mơ bay được như chim của Lê-nô-măng thành hiện thực.
Ứng dụng của chiếc dù tiện lợi đến không ngờ: người ta làm dù để cứu thoát phi công và hành khách khi máy bay gặp nạn; người ta còn dùng dù để thả thực phẩm cứu trợ khi bão lụt, tai nạn xảy ra; dùng dù để đặt chân đến những vùng đất xa xôi chưa tiện đường đi để nghiên cứu, thám hiểm. Và trong quân đội các nước trên thế giới, binh chủng thiện chiến: lính nhảy dù ra đời… Còn nhiều ứng dụng khác của chiếc dù mà em không thể kể hết được.
Không phải chỉ có một mình Lê-nô-măng ước mơ bay được như chim. Jean Pière Blanchard (Giăng Pi-e Blăng-sa), người Pháp, cũng ước mơ như Lê-nô-măng, nhưng Blăng-sa đã chế tạo ra khinh khí cầu. Anh em nhà Rai cũng mong muốn bay như chim và chế tạo ra máy bay. Các thiết bị này đều rất hữu ích cho con người trong đời sống cũng như trong khoa học. Các nhà phát minh sáng chế thật đáng khâm phục. Em rất kính trọng những ước mơ và thành tựu của các nhà khoa học ấy.
Ước mơ viễn vông, phi lý
Đề 1 Em hãy kể lại câu chuyện “Điều ước của vua Mi-đát”em đã học.
BÀI LÀM
Ước muốn quá độ của con người là tham vọng xấu xa, phi lí. Kết quả của những điều ước tham lam ấy chỉ đem lại đau khổ mà thôi, dù cho điều ước ấy là của một ông vua.
Chuyện xảy ra từ thời xa xưa lắm ở xứ sở Hy Lạp. Một lần, thần Đi-ô-ni-đốt đi qua vương quốc của vua Mi-đát. Vị thần tặng vua một điều ước. Mi-đát là một ông vua rất tham lam nên nói ngay:
Xin thần ban phép cho tay tôi chạm vào vật gì, vật đó đều biến thành vàng.
Thần Đi-ô-ni-đốt gật đầu ưng thuận. Vua Mi-đát thử bẻ một cành sồi, cành đó liền biến thành vàng. Vua hái một quả táo quà táo đó cũng biến thành vàng. Nhà vua sung sướng vô cùng. Chỉ khi đến giờ ngự tiệc, nhà vua mới hiểu ra rằng mình đã xin thần Đi-ô-ni-đốt một điều ước kinh khủng. Tất cả những đồ ăn, thức uống, hoa quả trên bàn tiệc thơm phức, hấp dẫn vô cùng nhưng khi vua Mi-đát đưa tay vào để ăn thì mọi thứ đều biến thành vàng. Nhà vua không thể nào nuốt vàng để sống. Bụng đói cồn cào vua Mi-đát quỳ xuống cầu khấn thần Đi-ô-ni-đốt:
– Xin thần tha tội cho tôi. Xin người hãy lấy lại điều ước để tôi được ăn và sống.
Thẩn Đi-ô-ni-đốt hiện ra và phán:
– Nhà ngươi hãy đến sông Pắc-tơn mà tắm, phép màu sẽ biến mất và nhà ngươi sẽ rửa được lòng tham.
Mi-dát làm theo lời dạy của thần và thoát khỏi điều ước xuẩn ngốc, tham lam của mình. Tỉnh ngộ, nhà vua hiểu rằng, lòng tham không thể đem lại hạnh phúc.
Thực tế ngày nay cũng cho thấy lòng tham không đem lại cho con người hạnh phúc. Vì con người tham lam khai thác cây rừng mà hạn hán, lũ lụt xảy ra; vì con người tham lam tranh giành quyền lực bằng vũ khí mà chiến tranh tàn khốc xảy ra, còn làm ảnh hưởng đến môi trường sống, sức khỏe…. Câu chuyện kể trên là điều nhắc nhở con người cần hạn chế lòng tham của mình.
Đề 2 Em hãy kể một câu chuyện nói về ước mơ viễn vông, phi lí (chuyện kể em được học, đọc hay nghe thầy cô giáo kể).
BÀI LÀM
Đôi khi con người không bằng lòng với những gì mình đang có, họ sinh ra ước mơ điều nọ, điều kia. Nếu đó là những điều ước xa vời, viển vông thì nó chẳng những không đem lại lợi ích cho họ mà đem lại những mối lo toan, sợ hãi chán chường. Chuyện kể “Ba điều ước ” sẽ chứng minh điều đó.
Ngày xưa, có chàng trai khỏe mạnh tên là Rít làm nghề thợ rèn. Ngày nọ, chàng gặp một ông tiên cho chàng ba điều ước. Chàng nghĩ trên đời này chỉ có vua là hạnh phúc, giàu có nhất, thế là chàng ước mình được làm vua. Phút chốc, Rít thấy mình ở trong cung điện tráng lệ; quan quân, binh lính, hộ vệ ra vào khúm núm cung nghinh còn mình thì đai mũ sang trọng đang ngự ở bệ rồng. Sống trong lầu son gác tía, ăn đồ ăn cao lương mĩ vị, xem cung phi mĩ nữ múa hát mua vui, kẻ hầu người hạ tấp nập khiến Rít làm việc gì cũng nhọc mệt nên chàng đâm chán chường. Được mấy ngày, Rít bỏ cung điện ra đi thơ thẩn rong ruổi trên đường dài. Ngày kia, Rít gặp một đoàn người buôn bán giàu có. Rít bỗng nảy ý muốn mình có thật nhiều tiền. Điều ước thứ hai linh nghiệm tức khắc. Rít trở thành thương nhân giàu có tiền muôn bạc ức. Lần này thì Rít khổ thật sự vì tiền của Rít làm kẻ trộm tham lam dòm ngó. Chúng rình rập muốn cướp tiền của Rít. Rít sống trong cảnh lo sợ, tiền bạc cũng chẳng làm chàng vui. Chàng bỏ xứ sở buôn bán sầm uất đó, lang thang sang một vùng đất khác. Ngước nhìn những đám mây bồng bềnh trôi trên bầu trời, Rít đột nhiên ao ước được bay như mây. Điều ước cuối cùng ứng nghiệm. Chàng hay như mây đi khắp mọi nơi ngắm nhìn cảnh đẹp của quê hương đất nước và nhiều phong cảnh trữ tình khác. Bay mãi rồi cũng chán, chàng nhớ cảnh quê nhà và cái lò rèn đỏ lửa. Đám mây đưa chàng trở về nơi chôn nhau, cắt rốn của mình. Rít lại làm nghề rèn. Chàng rèn cuốc, rựa cho bà con phát nương, làm rẫy. Sửa một cái lưỡi cày hư, mài một lưỡi hái cũng làm chàng cảm thấy vui. Có chàng rèn dụng cụ bà con không phải đi xa mua dụng cụ nữa. Bà con yêu thương, quý trọng chàng vì chàng tuy không trồng lúa nhưng cái lò rèn của chàng hữu ích cho bà con xiết bao. Cuối cùng, Rít hiếu lao động có ích như thế nào và tình yêu của dân làng dành cho chàng chính là hạnh phúc quý giá nhất. Nó ở ngay trong đời sống hằng ngày của chàng, không phải mơ tưởng viển vông đâu xa.
Câu chuyện trên khẳng định ước mơ viển vông, phi lí không đem lại lợi ích thiết thực cho con người. Hạnh phúc của con người chính là niềm vui trong lao động, trong tình làng nghĩa xóm như Bác Hồ đã dạy chúng em: “Học tập tốt, lao động tốt, đoàn kết tốt”. Đó là cơ sở cho hạnh phúc chân chính của con người mà học sinh chúng em phải rèn luyện, tu dưỡng
c. Chủ đề về tài trí
Đề 1 Em hãy kể một câu chuyện cổ tích (trong chương trìnhđã học) ca ngợi về tài trí của con người.
Bài làm
Để xây dựng cuộc sống hạnh phúc, bình an, loài người luôn cần những nhân vật tài ba thao lược, có khả năng phi thường. Những người kiệt xuất đó đi vào chuyện kể dân gian với sắc thái li kì, được nhân dân yêu mến xây dựng hình tượng như những vị anh hùng cứu thế. Em xin được đưa mọi người về thời xa xưa, nơi non cao, ở đó dân tộc Tày của nước ta sinh sống, có ”Bốn anh tài”.
Ngày ấy, ở bản kia, có một chú bé nhỏ người nhưng ăn một lúc hết chín chõ xôi. Người dân đặt tên cho chú là Cẩu Khây, Cẩu Khây lên mười, sức mạnh đã bằng trai mười tám, mười lăm tuổi Cẩu Khây đã tinh thông võ nghệ. Hồi ấy, trong vùng có một con yêu tinh chuyên bắt người và súc vật. Làng bản trở nên tan hoang, tiêu điều, dân chúng bị yêu tinh giết hại nhiều không kể xiết. Thương dân bản, Cẩu Khây lên đường diệt trừ yêu tinh.
Cẩu Khây đi ngang qua một cánh đồng khô cạn Cẩu Khây thấy một cậu bé vạm vỡ đang đóng cọc, đắp đập, dần nước vào ruộng bằng nắm tay của mình. Mỗi quả đấm của cậu bé giáng xuống, cọc tre lún xuống cả gang tay. Tên cậu bé ấy là Nắm Tay Đóng Cọc. Nắm Tay Đóng Cọc hăng hái xin theo Cẩu Khây diệt yêu tinh.
Hai người tiếp tục đi thì nghe tiếng tát nước ầm ầm. Cả hai rất ngạc nhiên khi thấy một cậu bé đang lấy vành tai tát nước suối để tưới cho thửa ruộng cao bằng mái nhà. Nghe Cẩu Khây nói chuyện, Lấy Tai Tát Nước xin cùng hai bạn lên đường.
Đi được ít lâu, ba người gặp một cậu bé lấy móng tay đục gỗ thành lòng máng dẫn nước vào ruộng. Móng Tay Đục Máng sốt sắng xin được làm em út đi theo diệt yêu tinh.
Bốn anh tài tìm tới nơi yêu tinh ở. Bản làng vắng teo, chỉ còn mỗi bà cụ bị yêu tinh bắt chăn bò cho nó. Bà cụ nấu cơm cho bốn anh em ăn. Ăn xong, bốn cậu bé lăn ra ngủ. Sáng sớm yêu tinh đập cửa. Biết yêu tinh đánh hơi thấy thịt trẻ con mà đến, bà lão giục anh em Cẩu Khây chạy trốn, Cẩu Khây nói:
– Bà đừng sợ, anh em chúng cháu đến đây để bắt yêu tinh đấy.
Cẩu Khây hé cửa, yêu tinh thò đầu vào. Mắt nó xanh lè, lưỡi nó dài như quả núc nác. Nắm Tay Đóng Cọc đấm liền một cái làm gãy hết hàm răng của yêu tinh. Yêu tinh bỏ chạy. Bốn anh em cẩu Khây đuổi theo, cẩu Khây nhổ cây bên đường làm côn đánh yêu tinh. Yêu tinh đau quá thét lên, giông bão nổi lên ầm ầm, trời tối sầm lại. Yêu tinh phun nước ngập cả cánh đồng. Lấy Tai Tát Nước tát nước còn Móng Tay Đục Máng ngả cây khoét máng khơi dòng nước chảy đi. Phút chốc, mặt đất lại cạn khô. Yêu tinh thua, đành phải quy hàng. Từ đấy, bản làng được bình yên.
Câu chuyện cho em thấy lực lượng tài trí bảo vệ bình yên cho nhân dân chính là thanh thiếu niên. Em xin rèn luyện, học tập để trở thành thiếu niên khỏe mạnh, tháo vát, sẵn sàng cống hiến sức trẻ cho công trình xây dựng và bảo vệ trật tự an ninh của đất nước; xứng đáng với lời kêu gọi của Tố quốc: “Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên.”.
Đề 2 Hãy kể một câu chuyện (trong chương trình em đãhọc) về một nhân vật tài trí lỗi lạc có thật trong lịch sử, trong thời đại ngày nay
Hướng dẫn chọn chuyện kể:
– “Ông Trạng thả diều” (Tập đọc 4 – tuần 11).
– “Anh hùng Lao động Trần Đại Nghĩa” (Tập đọc 4 — tuần 21).
– “Nhà toán học Pu-xoun vù món quà tặng cha” (Luyện từ và câu bài “Dấu gạch ngang” Tuần 23).
Chú ý: Các em có thể đọc thêm về tiểu sử và sự nghiệp của các nhân vật trên trong tác phẩm “Danh nhân Lịch sử Việt Nam” (NXB Giáo dục); “Thời niên thiếu những nhân vật kiệt xuất” (NXB Mĩ thuật).
BÀI LÀM 1
(Chuyện “Ông Trạng thả diều ”)
Danh nhân hào kiệt nước ta đời nào cũng có nhưng nổi tiếng thần đồng đỗ đạt Trạng Nguyên khi tuổi còn thiếu niên chỉ có có duy nhất ông Trạng Hiền.
Vào đời vua Trần Thái Tông, có một gia đình nghèo sinh được một người con trai đặt tên là Nguyễn Hiền. Hiền thông minh, dĩnh ngộ, từ nhỏ đã biết tự mình làm diều chơi và rất say mê thả diều. Lên sáu tuổi, chú học một ông thầy đồ trong làng. Thầy rất kinh ngạc vì Hiền học một biết mười lại có trí nhớ lạ thường. Hiền vừa đi học, vừa chơi diều vẫn thuộc làu làu cả hai mươi trang sách. Vì nhà quá nghèo nên Hiền phải bỏ học. Ban ngày, Hiền đi chăn trâu và mặc trời mưa nắng thế nào cũng đứng ngoài lớp nghe giảng nhờ.
Tối đến, Hiền đợi bạn học xong thì mượn vở về học bài. Đèn sách của chú không có gì ngoài vở chính là lưng trâu, nền cát, bút là ngón tay hay mảnh gạch vỡ, đèn là vỏ trứng thả đom đóm vào trong. Nghèo khổ và vất vả như thế nhưng tài học của Hiền rất xuất sắc. Bài văn thơ phú của Hiền rồng bay phượng múa, ý tứ sâu sắc, điển tích xác đáng khiến bạn và thầy rất nể phục. Bận chăn trâu, bận học nhưng Hiền vẫn đủ thời gian chơi diều, cánh diều của Hiền vẫn bay cao, tiếng sáo diều vi vút tầng mây.
Rồi vua mở khoa thi, Hiền đỗ Trạng Nguyên khi mới mười ba tuổi. Đó là Trạng Nguyên trẻ nhất nước ta.
Ông Trạng Nguyễn Hiền vừa là người có tài năng lỗi lạc, vừa là người có ý chí kiên trì vượt khó. Ông là tấm gương sáng cho mọi thiếu nhi noi theo. Em hứa cố gắng học tập để đỗ đạt thành danh, cống hiến khả năng của mình để xây dựng Tổ quốc.
BÀI LÀM 2
(Chuyện “Anh hùng Lao động Trần Đại Nghĩa”)
Năm 1972, đế quốc Mỹ đem bom B52 tấn công Thủ đô Hà Nội và một số vùng ven Thủ đô nhằm làm suy giảm lực lượng hậu phương nước ta trong kháng chiến chống Mỹ. Máy bay B52 của Mỹ được mệnh danh là “pháo đài bay”, bất khả xâm phạm, gần như chưa một phi cơ tiêm kích nào đối địch được và chưa bao giờ bị bắn rơi. Nhưng trên bầu trời miền Bắc lúc ấy, “pháo đài bay” của Mỹ lần đầu tiên chịu gãy cánh, rơi trên đất miền Bắc Việt Nam. Người làm nên kì tích đó chính là anh hùng Lao động Trần Đại Nghĩa.
Giáo sư Trần Đại Nghĩa tên thật là Phạm Quang Lễ, ông sinh năm 1913 và mất năm 1997. Quê hương ông ở tỉnh Vĩnh Long, miền Tây Nam Bộ. Ông được gia đình nuôi ăn học chu đáo. Năm 1935, sau khi học xong bậc Trung học ở Sài Gòn, ông sang Pháp du học, ông là người thông minh, say mê khoa học và có khả năng học tập, làm việc đáng kinh ngạc. Ông theo học cả ba ngành kĩ sư cầu cống, kĩ sư điện, và kĩ sư hàng không. Không chỉ làm việc cho chuyên ngành mình đã theo học, ông còn nghiên cứu tỉ mỉ kĩ thuật chế tạo vũ khí.
Ông gặp Bác Hồ trên đất Pháp, cảm phục đức độ và hoài bão giải phóng dân tộc của Bác, nghe theo tiếng gọi của trái tim người con Việt, năm 1946, ông rời bỏ cuộc sống đầy đủ tiện nghi ở nước ngoài, theo Bác Hồ trở về nước. Ông được Bác Hồ đặt tên mới là Trần Đại Nghĩa và giao nhiệm vụ chế tạo vũ khí phục vụ công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Ông đảm trách chức vụ Cục trưởng cục Quân giới, lãnh đạo và cùng các đồng sự, chiến sĩ miệt mài nghiên cứu, chế tạo vũ khí có sức công phá lớn như súng ba-dô-ca, súng không giật, bom bay tiêu diệt xe tăng và lô cốt của giặc. Khi Mỹ dùng máy bay B52 bắn phá, thả bom trải thảm miền Bắc, ông nghiên cứu cải tạotên lửa phòng không, nâng chiều cao quỹ đạo bay của đạn tên lửa, bắn rơi máy bay B52 của Mỹ, buộc đế quốc Mỹ phải ngừng tấn công miền Bắc, tham dự và thực hiện hội nghị đàm phán Pa-ri năm 1973, lập lại hòa bình tạm thời ở Việt Nam cho đến ngày giải phóng dân tộc 1975. Chiến công bắn rơi máy bay B52 Mỹ của bộ đội phòng không Việt Nam gây tiếng vang chấn động thế giới, là công sức đóng góp to lớn của Giáo sư Trần Đại Nghĩa. Bên cạnh những cống hiến xuất sắc cho sự nghiệp quốc phòng, Giáo sư Trần Đại Nghĩa còn có công lớn trong việc xây dựng nền khoa học trẻ tuổi của nước nhà. Ông là Chủ nhiệm ủy ban Khoa học và Kĩ Thuật nhà nước trong nhiều năm liền. Năm 1948, ông được phong Thiếu tướng. Năm 1952, ông được tuyên dương Anh hùng Lao động, được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh và nhiều huân chương cao quý.
Để ghi nhớ công ơn to lớn của ông đối với Tổ quốc, để tỏ lòng thán phục và tự hào về tài năng của Giáo sư Trần Đại Nghĩa, tên ông được dành đặt cho các trường bậc Trung học, nơi đào tạo các học sinh giỏi cho đội tuyển Quốc gia. Học sinh chúng em phải chăm chỉ học tập và học xuất sắc đế kế tục sự nghiệp khoa học của Giáo sư Trần Đại Nghĩa.
Đề 3 Hãy kể một câu chuyện (đã nghe, đã đọc) về một nhân vật tài trí lỗi lạc.
BÀI LÀM 1
(Chuyện kể về nhà văn hóa, nhà toán học lỗi lạc Lương Thế Vinh)
Một trong những Trạng Nguyên giỏi nhất nước ta thời trước là ông Lương Thế Vinh.
Lương Thế Vinh sinh năm 1442, người thôn Cao Hương, xã Thiên Bảo (nay là thôn Cao Phương, xã Liên Bảo, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định). Ngay từ nhỏ, ông đã nổi tiếng thông minh, sắc sảo, được xem là thần đồng, học đâu nhớ đấy. Thuở nhỏ, gia đình Lương Thế Vinh nghèo, nhà ông làm nghề nông, không đủ ăn nên cha mẹ ông phải vay nợ phú ông. Ngày nọ, phú ông đến nhà Lương Thế Vinh đòi nợ. Cha mẹ Vinh đi vắng cả, chỉ có Vinh đang chơi nặn đất với bạn. Phú ông hỏi:
– Bố mẹ mày đi đâu?
Lương Thế Vinh cười trả lời:
– Bố tôi đi giết người sống, mẹ tôi đi cứu người chết.
Phú ông giật mình, gặng hỏi nhưng Lương Thế Vinh không đáp. Tò mò thôi thúc, phú ông hứa:
– Nếu mày nói thật, ta sẽ xóa hết nợ cho!
Vinh rất khôn ngoan, Vinh nói:
– Nếu vậy phải có bằng cớ. Xin ông hãy ghi dấu vân tay vào cái bát đất này.
Phú ông làm theo, Vinh trả lời:
– Bố tôi đi nhổ mạ, mẹ tôi đi cấy lúa.
Mấy hôm sau, phú ông lại đến đòi nợ. Vinh đem cái bát đất ra đối chứng, dấu vân tay vẫn còn nguyên vẹn, phú ông đành than thở và khen ngợi:
– Ngươi còn bé thế này mà đã có cơ mưu như vậy, ngày sau tất làm nên bậc danh thần.
Năm hai mươi hai tuổi, ông thi đỗ Trạng Nguyên, nên còn có tên gọi là Trạng Lường. Lương Thế Vinh là quan đại thần của triều đình, rất giỏi về nho học và là người không ngừng học tập trong thực tế. Ông thường về nơi có tranh chấp ruộng đất, đo đạc đất đai, vẽ và tính toán cụ thể, giúp nông dân hòa giải việc mâu thuẫn. Thực nghiệm vất vả, ông đã tìm ra các quy tắc tính toán diện tích các thửa ruộng có hình dạng khác nhau. Ông tìm ra cách tính ẩn số, bình phương khai phương… và viết thành cuốn Đại thành toán pháp. Ông giữ các chức quan giáo dục, lâm Hàn lâm viện thị giảng, Nhập thị kinh diên, làm tư vấn ở Sùng Văn Quán, giữ chức Sái phu (sửa chữa và bình phẩm thơ văn) trong hội Tao Đàn của vua Lê Thánh Tông, ông không ham công danh phú quý, tính tình cương trực, thẳng thắn, hóm hỉnh, khôi hài. Khi về già, ông sống bình dị ở quê hương. Lịch sử ghi nhận ông là nhà văn, nhà toán học, nhà nghiên cứu Phật học, nhà giáo tận tụy, trang nghiêm của sĩ tử và nhân dân.
Lương Thế Vinh chẳng những là một Trạng Nguyên tài giỏi mà còn là một nhân tài kiệt xuất, hết lòng vì dân, vì nước. Em rất tự hào được học tập trong ngôi trường mang tên ông.
BÀI LÀM 2
(Chuyện kểvề Bill Gates)
Hôm nay em nhận được một lá thư rất vui. Trong thư bạn kể cho em nghe về Bill Gates, người sáng lập ra tập đoàn Microsoft nổi tiếng thế giới.
Bill Gates là doanh nhân nổi tiếng người Mỹ, người đi tiên phong trong lĩnh vực phần mềm máy vi tính. Ông đã sáng lập ra tập đoàn Microsoft, công ti phần mềm lớn nhất thế giới với hệ điều hành MS DOS và phần mềm Windows. Nhờ hệ điều hành này, loài người có những bước tiến bộ đột phá về máy tính giúp ích cho nghiên cứu, thám hiểm, y học rất nhiều. Bố mẹ Bill Gates đều là những người trí thức, tài giỏi. Thuở bé, Bill Gates đã nổi tiếng thông minh xuất chúng. Khi mới bảy tuổi, cậu bé Bill Gates đã thích đọc sách về khoa học công nghệ. Cuốn “Bách khoa tri thức thế giới” là một trong những cuốn sách mà lúc nhỏ Bill Gates yêu thích. Một lần, Bill Gates phát hiện máy vi tính ở phòng máy, từ đó, cậu bắt đầu suy nghĩ về vật hình khối ấy. Thay vì gõ phím để máy thực hiện các điều mình muốn tìm biết, Bill Gates ưu tư về nguyên tắc làm việc của máy tính, cậu luôn suy nghĩ: vì sao máy tính có tốc độ làm việc nhanh như vậy. Tự mình suy nghĩ và nghiên cứu, cậu đắm mình trong phòng máy hàng giờ, hàng ngày. Bill Gates tìm kiếm tài liệu có liên quan đến máy tính, phân tích và sáng tạo. Chẳng bao lâu, Bill Gates trở thành một chuyên gia về máy tính. Vừa sáng tạo vừa kinh doanh, Bill Gates là “người khổng lồ” trong lĩnh vực công nghệ phần mềm máy tính trên thế giới.
Ngày nay chúng em có thể gõ phím máy tính để sử dụng chức năng tìm kiếm của nó trên mọi lĩnh vực. Biết sử dụng máy vi tính một cách tích cực, em có thể tự học, tự rèn rất nhiều. Giải trí bằng các chương trình trò chơi trên máy vi tính có nhiều lợi ích nếu chúng em biết tự chủ học hỏi thay vì say mê quên học. Em hết sức biết ơn ông Bill Gates đã sáng lập ra công ty phần mềm hữu dụng như thế. Em sẽ cố gắng học tin học thật giỏi để có thể trở thành kĩ sư công nghệ phần mềm sau này.
d. Chủ đề: Vẻ đẹp muôn màu
Đề Hãy kể một câu chuyện (em đã được nghe, được đọc)ca ngợi cái đẹp hay phản ánh cuộc đấu tranh giữa cáiđẹp với cái xấu, cái thiện với cái ác.
Phân tích đề:
– Mệnh lệnh đề: kể một câu chuyện (văn kể chuyện).
– Chủ đề truyện kể:
1. Ca ngợi cái đẹp.
2. Phản ánh cuộc đấu tranh giữa cái đẹp với cái xấu.
– Giới hạn đề bài:
• Có thể chọn một trong hai chủ đề trên khi lựa chọn nội dung câu chuyện.
• Chuyện em đượcnghe, được đọc nên có thể kể những chuyện ngoài chương trình học.
• Câu chuyện là truyện kể, được ghi trong tác phẩm, văn bản.
Gợi ý:
1. Các truyện ngợi ca cái đẹp:
– Cái đẹp của tự nhiên (“Chim họa mi ” – Truyện cổ An-đéc-xen).
– Cái đẹp của phẩm chất con người (“Cô bé Lọ Lem ” – Truyện Co Grim, “Cô gái nói ra hoa, ra ngọc” – Truyện cổ Việt Nam).
– Truyện giáo dục về cái đẹp, cái xấu (“Con vịt xấu xí” – Truyện An-đéc-xen).
2. Các truyện nói về cuộc đấu tranh giữa cái đẹp với cái xấu, cái thiện với cái ác:
– “Tấm Cám, Sọ Dừa”(Truyện dân gian Việt Nam)
– “Cây Khế” (Xem bài mẫu đề số 1).
– “Cây tre trăm đốt” (Đềsố 3 – bài làm 2).
– “Gà trống và Cáo”(Xem bài mẫu tiết 1 – tuần 8).
BÀI LÀM 1
(“Cô gái nói ra hoa, ra ngọc” – Truyện cổViệt Nam)
Giải nhất cuộc thi kể chuyện cổ tích thường niên của trường em năm nay thuộc về lớp bốn A. Câu chuyện đạt giải là chuyện “Cô gái nói ra hoa, ra ngọc ” – truyện cổViệt Nam. Chuyện kể về một cô gái hiền lành, nhân hậu được đền bù xứng đáng.
Ngày xưa có một cô béđẹp người, đẹp nết; cô hiền lành, nhân hậu và đảm đang việc nhà. Cô bé sớm mồ côi mẹ, phải sống với bố và mẹ kế. Bà mẹ kế hung dữ có một cô con gái riêng. Bố cô làm lụng nuôi sống gia đình chẳng để ý đến bà vợ kế đanh ác hà hiếp con gái. Bà mẹ kế cưng chiều cô con gái riêng vừa xấu người vừa xấu nết bao nhiêu thì đày đọa con chồng bấy nhiêu. Cô bé mồ côi ấy làm tất cả việc nhà và còn phải gánh nước, chặt củi… toàn những việc nặng nhọc. Với bản tính hiền lành và rất giỏi việc nhà, cô bé ấy chịu thương chịu khó lẳng lặng làm tất cả không than vãn một lời, cô thương bố vất vả nặng nhọc nên không muốn bố biết tí gì. Không chỉ thế, cô bé đối xử với mọi người một lòng thương yêu, hòa nhã. Trước hai mẹ con bà mẹ kế đỏng đảnh và ác độc,cô bé im lặng làm việc, chẳng nói một lời.
Cho đến một hôm,trời nắng chang chang, mặt đường như bốc lửa, cô múc đầy hai thùng nước toan đặt gánh lên vai để gánh về nhà thì có một bà lão gây còm, héo hắt,ăn mặc rách rưới đi về phía cô. Bà lão xin cô nước uống. Vội vàng, cô thả cây đòn gánh xuống sân giếng, dìu bà lão ghé vào bóng cây gần giếng. Mắt bà lão kèm nhèm, mặt mũi đen xì bụi đất, người bà lão bốc mùi hôi thối. Cô ái ngại xót thương bật thốt:
– Nắng nóng quá! Bà ngồi tạm đây, con múc nước giếng mới sạch và mát cho bà nhé!
Nói đoạn, cô quảy gánh trở về giếng nước. Cô múc lên một gàu nước mát, đến cạnh bà lão:
– Bà ạ,chẳng có một cái ly, cái chén gì ở đây cả. Tay con rửa sạch rồi, con vốc nước mát cho bà uống nhé!
An cần, cô dùng tay vốc nước đưa lên miệng bà lão. Bà lão chép môi uống nước. Phải vài lần như thế, bà lão mới qua cơn khát. Bà lão thở dài khoan khoái:
– Bà đỡ mệt rồi. Quả tiếng đồn không sai, cô quả là một cô bé hiền lành, đôn hậu.
Bà lão cầm đôi tay nhỏ bé của cô:
– Con sẽ trở nên xinh đẹp và ta ban cho con một phép màu: mỗi lời con thốt từ miệng sẽ nở ra hoa và ngọc bởi tấm lòng của con chính là tinh hoa thơm ngát dâng đời và vốn quý ngọc ngà của nhân loại.
Chớp mắt, bà lão hoá vầng hào quang, biến mất. Cô bé ngẩn ngơ tưởng như mộng như mơ. Nhìn gánh nước, cô sực tỉnh quảy gánh về nhà. Vềđến nhà, cô nghe mụ dì ghẻ chì chiết:
Có mỗi gánh nước, mày trốn biệt ngoài giếng làm gì mà giờ này mới gánh về.
Cô lễ phép:
– Thưa dì…
Chưa nói được lời thưa, hai mẹ con bà mẹ kế và chính cô vô cùng kinh ngạc khi thấy từ miệng cô những đóa hoa thơm ngát và những viên ngọc lấp lánh rơi ra. Bà mẹ kế vặn hỏi,cô thật thà kể lại câu chuyện mình gặp bà lão ăn xin. Trưa hôm sau,bà mẹ kế bảo cô để cho cô chị con riêng của bà đi gánh nước. Cô chị lười biếng nào muốn làm cái chuyện nặng nhọc ấy nhưng thấy cô em trở nên xinh đẹp nên cũng muốn gặp bà lão. Cô chị múc nước vào thùng xong thì bà lão xuất hiện. Bà lão cũng phều phào mấy tiếng xin nước uống. Cô chị ghêtởm nhìn bà lão:
– Bà chân tay dơ bẩn thế này uống nước trong thùng làm tôi mất công múc thùng nước khác bây giờ. Gàu đây, bà tự múc nước mà uống.
Bà lão khua gậy, lần đi,miệng lẩm bẩm:
– Người đâu mà độc ác, dữ dằn. Ngươi sẽ nhận hậu quả vìlòng dạ ích kỉ, độc ác của mình.
Cô chị vội vã gánh nước về nhàđể tránh xa bà lão dơ bẩn. Vừa đặt gánh xuống, bà mẹ đon đả:
– Sao hả con, con có gặp bà già đó không?
Cô chị ngúng ngấy, trề môi:
-Xì…
Cô vừa “xì” một tiếng, một mùi hôi thối tanh nồng từ miệng cô bốc ra và rắn,rết,cóc, nhái nhảy ra từ miệng cô. Hai mẹ con hốt hoảng nhảy tránh rắn rết. Cô chị bụm lấy miệng, càng than khóc thì rắn rết, cóc nhái lại càng nhảy ra, lổm ngổm đầy nhà. Xóm giềng không chịu nổi rắn rết nhảy ra từ miệng cô con gái riêng bà mẹ kế. Ai nấy đều lánh xa họ. Tủi hổ, hai mẹ con dắt díu nhau đi đâu mất tăm. Cô bé mồ côi hiền đức đem số ngọc rơi ra bán đi lấy tiền nuôi cha già và bà con nghèo khổ.Tiếng lành đồn đến tai Hoàng tử, Hoàng tử về đến làng. Chàng nhìn thấy nhan sắc thùy mị dịu dàng của cô sinh lòng yêu mến và cưới cô làm vợ.
Câu chuyện ca ngợi cô bé mồ côi hiền lành nhân đức và răn đe những ai ăn ở độc ác, bất nhân. Những hoàn cảnh đau khổ, bất công ngày nay vẫn tồn tại dù xã hội loài người đã tiến bộ,bình đẳng rất nhiều. Em sẽ học tập, rèn luyện tính cách nhân hậu, biết chia sẻ với người nghèo khổđểgóp phần nào công sức nhỏ bé củaem làm giảm đi những đau khổ, bất công của xã hội.
BÀI LÀM 2
(“Tấm Cám ” – Truyện dân gian Việt Nam)
Chiến đấu với cái ác,cái xấu để giành lại hạnh phúc chân chính là cuộc đấu tranh của cô Tấm trong câu chuyện dân gian “Tấm Cám”.
Ngàyxưa, có đôi vợ chồng nọ sinh một cô con gái ngoan hiền, đặt tên là Tấm. Năm Tấm lên mười tuổi, mẹ Tấm mất. Bố Tấm cưới một bà vợ kế. Bà mẹ kế của Tấm có một cô con gái riêng tên Cám. Cám lười nhác, tính tình đỏng đảnh, được mẹ cưng chiều nên chỉ rong chơi không làm gì cả. Tấm bị mẹ kế bắt nạt, hành hạ đủ điều, làm đủ việc nhà: giặt giũ, cơm nước, chăn trâu…
Một hôm,mẹ kế bảo cả hai chị em Tấm Cám đi bắt cá. Tấm chăm chỉ mò cua, bắt cá nên được một giỏ đầy. Cám cả buổi chỉ rong chơi nên chả có con nào. Đểtranh công của Tấm, Cám nghĩ cách lấy cá của Tấm, cô ta bảo Tấm:
“Chị Tấm ơi, chị Tấm!
Đầu chị lấm,
Chị hụp cho sâu
Kẻo về mẹ mắng “
Tấm tưởng thật, nghĩ mình mò tôm bắt cá mình mẩy dính bùn sình nên xuống sông tắm cho sạch. Ởtrên bờ, Cám trút cá của Tấm sang giỏ của mình rồi về nhà trước. Tấm tắm rửa xong lên bờ thấy giỏ chỉ còn một con cá bống bé xíu. Về đến nhà,Tấm buồn rầu chịu mẹ kế mắng. Tấm đem con cá bống thả xuống giếng nuôi. Mồi bữa cơm, Tấm nhịn bớt đem cơm ra giếng cho cá bống ăn:
“Bống bống bang bang
Bống bống bang bang
Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta
Chở ăn cơm hâm cháo hoa nhà người ”
Bống bơi lên ăn cơm rồi lặn xuống đáy giếng, một thời gian sau, mẹ con Cám rình bắt cá Bống ăn thịt. Cám đem xương cá Bống vứt ở ngoài sân. Trưa hôm đó, chăn trâu về, Tấm đem cơm cho Bống. Tấm gọi Bống mãi chẳng thấy Bống đâu chi thấy một cục máu đỏ nổi lên mặt nước. Thương Bống, Tấm ôm mặt khóc. Bụt hiện ra bảo:
– Con đem xương cá Bống chôn ở bốn góc giường, đừng vứt đi đấy!
Tấm vâng lời nhặt xương Bống bỏ vào hũ chôn như lời Bụt dặn.
Ngày nọ,nhà vua mở hội. Nhân dân cả nước nô nức lụa là, xe ngựa đi dự hội. Mẹ kế đồ hai thúng thóc, một thúng đậu trộn lẫn bắt Tấm nhặt bao giờ nhặt xong mới được đi dự hội. Tấm nhìn thúng đậu, òa khóc. Bụt hiện ra, gọi chim đến, sai chim nhặt thóc và đậu giúp Tấm. Bụt sai Tấm đào chân giường chỗ chôn xương Bống đem hũ ra. Lạ thay, mấy cái hũ đựng xương Bống ngày trước bây giờ đựng toàn quần áo, lụa là, trang sức, hài thêu. Bụt bảo Tấm thay quần áo ấy đi dự hội. Tấm mặc đồ đẹp, đeo vòng vàng, đi hài vào.
Cô Tấm thùy mị nết na hằng ngày vốn đã xinh nay còn trở thành người đẹp như tiên giáng trần. Tấm đến hội,được vua đón tiếp ân cần. Vui hội xong,Tấm xin vua ra về. Tấm đi qua cầu ao đánh rơi một chiếc hài, quân lính nhặt được dâng vua. Tấm về nhà cất quần áo ở hũ chôn ở giường. Tấm không dự hội nữa vì hài thiếu mất một chiếc. Mấy ngày hội liền, vua trông mong Tấm đến dự nhưng không thấy Tấm đâu. Vua buồn rầu và ra lệnh cho quan quân tổ chức thư hài, ai đi vừa chiếc hài thêu đó sẽ được làm hoàng hậu. Mọi cô gái đổxô đi thử hài. Đểngăn Tấm đi thử hài,bà mẹ kế lại đổ thóc chắc vào đống lép,bắt Tấm sàng sẩy, nhặt ra. Bụt lại hiện lên gọi chim đến nhặt giúp. Vì phải thu dọn thóc và lép cho gọn gàng, Tấm đến sân dinh muộn, suýt tí nữa thì quan quân mang chiếc hài sang làng khác. Cô Tấm ướm bàn chân bé nhỏvào vừa in chiếc hài thêu xinh đẹp. Vua rước Tấm về Hoàng cung, phong làm Hoàng hậu. Tấm vốn hiền hậu,xinh đẹp,nết na,vua rất đẹp lòng và yêu Tấm lắm. Đốn ngày giỗ cha, Tấm xin vua về nhà cúng giỗ. Bà mẹ kế bảo Tấm trèo cau bẻlấy một buồng bày lễ cúng, Tấm vâng lời. Khi Tấm trèo lên câycau,hai mẹ con dì ghé chặt cho cau ngã. Tấm nghe tiếng chặt cau liền hỏi vọng xuống:
– Dì làm gì dưới gốc cau vậy?
Mụ dì ghẻ nói dối:
– Dì đuổi kiến cho con đấy!
Cau ngã,Tấm rơi xuống ao chết. Dì ghẻ lấy áo quần của Tấm cho Cám mặc rồi đưa Cám vào triều thế chị,nói dối là Tấm bỏ đi đâu mất rồi. Cám xấu xí,người bẩn và hôi, vua rất buồn bực, không ngó ngàng gì đến Cám. Tấm chết oan,hồn biến thành con chim vàng anh đến hoàng cung, hót bên song cửa. Vua buồn bực,ngắm Vàng Anh tự dưng thấy lòng nhẹ nhõm, vua bảo:
“ Vàng ảnh vàng anh,
Cóphải vợ anh
Chui vào tay áo “
Vàng Anh bay lên chui ngay vào tay áo vua. Vua yêu vàng anh lắm,truyền lính làm một cái lồng đẹp,suốt ngày vui với Vàng Anh. Vàng Anh thấy Cám giặt áo cho vua,bèn hót:
“Giặt áo chồng tao
Phải giặt cho sạch,
Phơi áo chồng tao
Phải phơi bằng sào
Chớ phơi bờ rào
Rách áo chồng tao. ”
Cám ghét Vàng Anh lắm, một ngày nhân vua đi săn bèn bắt Vàng Anh ăn thịt. Cám đem đổxương chim ngoài vườn thượng uyển. Ngaychỗ ấy lập tức mọc lên một cây xoan đào cành lá xum xuê. Đi săn về vua chẳng thấy Vàng Anh đâu trong lòng thương nhớ đi tha thẩn trong vườn. Vua đến gốc xoan đào, cành lá xoan tự dưng lòa xòa phe phẩy che mát cho vua, lá cây vờn tóc vua rất âu yếm. Vua yêu cây xoan đào, truyền mắc võng ở đó cho vua nghỉ mệt. Cám bị vua bỏ bê, thù ghét cây xoan đào lắm sai quân lính chặt cây xoan lấy gỗ làm khung cửi dệt vải. Cám ngồi dệt cửi lấy làm đắc ý, nào ngờ khi thoi chạy, khung cửi lại kêu lên:
“Kẽo cà kẽo kẹt
Lấy tranh chồng chị
Chị khoét mắt ra ”
Cám hoảng sợ, chặt khung cửi đốithành tro, đem đổ tro ngoài thành hoàng cung. Ngay chỗ tro ấy mọc lên một cây thị tươi tốt. Cây thị có duy nhất một quả, chín vàng ươm, thơm lừng nhưng không ai hái được. Có một bà lão mỗi ngày đều ghé nghỉ mát dưới gốc cây thị. Thị chín thơm, gió đưa hương thơm ngát làm bà khỏe khoắn. Bà lão mở miệng túi hứng quả thị, lầm rầm nói:
“ Thị ơi thị
Thị rụng bị bà
Bà đểbà ngửi
Chứ bà không ăn “
Quả thị rơi nhẹ nhàng vào túi bà. Bà lão đem thị về nhà cất trong ú gạo. Mỗi ngày đi làm về,bà rất ngạc nhiên thấy nhà cửa gọn gàng, cơm canh cósẵn, quả thị tươi tắn lạ lùng. Bà lão rình xem, Bà thấy một cô gái đẹp bước ra từ úgạo liền biết ngay là cô gái ấy ẩn trong quả thị. Rón rén, bà đi thật nhẹ đến ú gạo, xé tan vỏ thị không cho cô gái chui vào. Cô gái trong vỏ thị ấy chính là Tấm, từ đó, Tấm nhận bà lão làm mẹ nuôi. Bà lão đem số tiền dành dụm,mở một hàng nước chè ngay tại nhà.
Ởhoàng cung, vua biết Cám chặt cây xoan, giận lắm, bỏ hoàng cung đi chơi quanh thành cho vơi buồn bực. Một bữa,vua ghé quán nước của mẹ nuôi Tấm. Vua nhìn thấy những miếng trầu têm cánh phượng rất khéo bèn hỏi bà lão:
– Trầu này do ai têm vậy?
Bà lão tâu:
– Thưa bệ hạ, trầu này do già têm đấy ạ!
Vua ngắm nghía những miếng trầu sinh nghi ngờ vì Tấm, vợvua ngày trước cũng têm trầu như vậy. Vua gặng hỏi mãi, bà lão đành thú thật là do con gái bà têm. Vua dòi bà đưa con gái đến. Tấm vén màn bước ra chào vua. Nhận ra vợ mình, nhà vua vô cùng mừng rỡ đưa Tấm về cung. Tấm về cung ở ngôi Hoàng hậu như trước. Vua đuổi Cám về quê với mẹ. Tấm làm vợ vua, hạnh phúc hơn xưa.
Chịu nhiều gian nan,khổ sở, cuối cùng Tấm vẫn giành lại được hạnh phúc của mình. Đấu tranh với cái ác đểbảo vệ bình an là đạo lý hợp với lẽ công bằng. Em kiên quyết đấu tranh với mọi thói xấu, lòng tham đềrèn luyện thành người học sinh tốt. Noi gương cô Tấm, em hứa sẽ dũng cảm bảo vệ lẽ công bằng.
e. Chủ đề về khám phá thế giới (du lịch):
Đề bài:Em hãy kể một câu chuyện cổtích về một danh lam thắng cảnh (hoặc một di tích lịch sử) mà em biết.
Gợi ýchọn chuyện kể:
– “Sự tích Hồ Ba Bể”.
– “Sự tích Hòn Vọng Phu”.
– “Sự tích Núi Ngũ Hành”
– “Sự tích Thành Cô Loa” (di tích lịch sử).
– “Sự tích Hồ Gươm” (di tích lịch sử).
BÀI LÀM 1
“Sự tích Hòn Vọng Phu” (tỉnh Bình Định) .
Hè vừa qua, em được ba mẹ đưa đi nghỉ mát ở Nha Trang. Từ bãi Hòn Chồng ngắm về phía Bắc,em trông thấy ngọn núi cao hướng Tây Bắc giống hình người trông ra biển. Ba em liền giải thích đó chính là núi Vọng Phu. Gió biển lồng lộng, mát rượi, em gối đầu lên tayba, nghe ba kể“Sự tích núi Vọng Phu”.
Ngày xưa. ở một cùng quê nọ,có một đôi vợ chồng nghèo sinh được hai người con: một trai, một gái. Người con trai càng lớn càng hiếu thảo, biết giúp đỡ cha mẹ làm việc nhà và chăm sóc em gái. Một hôm, cha mẹ đi làmxa,hai anh em ở nhà chơi với nhau. Đến chiều, cha mẹ vẫn chưa về, người em đói bụng mếu máo khóc. Anh trai liền dỗdành em và chặt mía cho em ăn. Chẳng may trong lúc róc mía, lưỡi dao tuột ra khỏi chuôi, văng vào đầu em gái. Em bé gái ngã lăn ra bất tỉnh, máu chảy lênh láng. Anh trai hoảng sợ vô cùng, chạy trốn biệt không dám về nhà. Em gái may mắn được một cụ hàng xóm cứu sống.
Cậu con trai bỏ nhà trốn biệt hơn mười năm trời, làm đủ nghề để kiếm sống, lưu lạc nhiều nơi. Một ngày, cậu con trai, lúc này đã đôi mươi, đến một làng chài. Chàng gặp một ông lão đánh cá tốt bụng nhận chàng học nghề đi biển. Ông già không có con nên nhận chàng làm con nuôi. Từ đó, hai người một già một trẻ sống nương tựa, hạnh phúc bên nhau. Một hôm đi biển trở về, chàng gặp một cô gái đan lưới ở bãi biển. Cô gái cũng là người lưu lạc từ nơi xa đến, cô mồ côi cha mẹ chẳng ai thân thích, cô đan lưới để kiếm sống. Thế là dần dà, chàng trai khỏe mạnh và cô gái dung nhan thùymị, phúc hậu ấy yêu nhau. Họ cưới nhau và một năm sau sinh được một bé trai kháu khỉnh. Mỗi ngày, chồng ra biển đánh cá thì vợ ởnhà trông con và vá lưới, đan lưới. Hai vợ chồng sống êm đềm, hạnh phúc. Một ngày biển động dữ đội, chồng không ra biển đánh cá được nên ở nhà cùng vợ vá lưới. Cơm nước xong, vợ xõa tóc nhờ chồng bắt chấy. Chồng thấy vợ có một vết sẹo trên đầu, ngạc nhiên hỏi nguyên do. Người vợ kể đầu đuôi câu chuyện:
– Anh trai của thiếp trong khi róc mía cho thiếp ănrủi ro bị văng lưỡi dao vào đầu thiếp. Thiếp được một bác hàng xóm cứu chữa kịp thời nhưng khi hồi phục, thiếp biết anh mình do hoảng sợ đã đi mất tăm, cha mẹ tìm khắp nơi nhưng không thấy. Cha mẹ dần già đi, thương nhớ anh mà mất sớm. Thiếp lưu lạc đến đây và gặp chàng.
Người chồng nghe vợ kể mà rưng rưng nước mắt. Vợ nghĩ chồng thương nên khóc, còn chồng đau xót nhận ra anh đã lấy phải chính người em gái ruột của mình. Mấy ngày sau, người chồng chuẩn bị ra khơi chài lưới và nhủ lòng sẽ đến nơi thật xa. Chàng ôm con, từ biệt vợ. Từ hôm ấy, chàng đi biệt không về. Người vợ ở nhà mong chồng, mỗi chiều đều bồng con lên mỏm núi ngóng đợi. Hai mẹ con đứng lặng chờ mong cho đến khi hoá đá. Đỉnh núi ấy là đỉnh Đe Hy thuộc huyện Phú Cát, tính Binh Định. Người dân đặt tên cho núi là Hòn Vọng Phu để ghi nhớ sự tích ấy. Mây mờ che phủ, Hòn Vọng Phu non xanh thẫm,nước của biển bao la tạo nên một thắng cảnh non sông thật đẹp. Sự tích của núi cũng đẹp, sắt son, thương cảm, thủy chung như tình vợ chờ chồng.
Em yêu cảnh đẹp nhìn từ xa và thật sự xúc động khi nghe về sự tích của Hòn Vọng Phu. Lớn lên, chắc chắn em sẽ đi du lịch đến vùng núi xinh đẹp ấy.
f. Chủ đề Tình yêu – Cuộc sống
Đề bài:Em hãy kể một câu chuyện về một ngưòi có tinh thần lạc quan yêu đời (chuyện đã nghe, đã học hoặc nghe cô giáo kể).
BÀI LÀM
(Chuyển kểvềBác Hồ)
Bác Hồ kính yêu của chúng em không chỉ là người nhân hậu, tài ba lỗi lạc mà còn là người rất lạc quan yêu đời. Chuyện kể về Bác Hồ là cả một kho tàng không đếm xuể, em chỉ xin kể mẩu chuyện nhỏ về tính lạc quan của Bác khi Bác bị cầm tù ở Quảng Châu – Trung Quốc.
Tháng tám năm 1942, trên đường sang Trung Quốc, Bác Hồ bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt và giam giữ hơn một năm trời. Chính quyền Tướng Giới Thạch cấu kết với thực dân Pháp muốn giam cầm và kết án Bác để loại bỏ người lãnh đạo cách mạng của Việt Nam và Đông Dương. Bác đã đấu tranh đến cùng để phán bác lại luận điệu gian trá, trơ trẽn của chính quyền thực dân. Bác Hồ bị cầm tù rất kham khổ, thiếu thốn trăm bề. Bác bị mắc rất nhiều bệnh: chân đau,người ghẻ lở. Thế nhưng, người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc,Bác Hồ của em vẫn tin tưởng vào ngày thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Khi địch hỏi cung, phỏng vấn, đó là lúc Bác dùng lí lẽ sắc bén và ý chí của mình để đập tan âm mưu quỷ quyệt của địch. Ở trong tù, Bác vẫn suy nghĩ, làm việc. Giặc càng xảo quyệt, Bác càng bình tĩnh chỉ đạo mọi việc của Đảng và cách mạng một cách tài tình. Bị giam cầm nhưng bác vẫn cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên. Trăng sáng, Bác để tâm hồn được ánh trăng tưới mát. Trong tù, tâm hồn thi ca của Bác vẫn dâng tràn:
Ngắm trăng
Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.
Bác chỉ ngắm được trăng qua khe cửa vì Bác đang bị giam cầm nhưng tinh thần lạc quan, yêu thích thiên nhiên của Bác thoát ra ngoài chấn song của nhà tù, đã bay khắp không gian, vũ trụ cùng với ánh trăng.
Tinh thần lạc quan, yêu đời của Bác Hồ là tấm gương sáng đểchúng em học tập và thêm yêu kính Bác. Em cần phải phấn đấu tự chủ và lạc quan trong mọi hoàn cảnh sống, học tập và làm việc của mình đểrèn luyện ý chí hiện nay và mai sau.
III. KỂCHUYỆN CHỨNG KIẾN HOẶC THAM GIA (KỂ CHUYỆNXẢY RA TRONG THỰC TẾ):
Đề 1: Em đã có lần làm việc tốt: giúp đỡmột người phụ nữbế con và mang hành lý. Em hãy kể lại câu chuyện ấy.
BÀI LÀM
Ngày hôm ấy là một ngày oi nồng, nóng bức. Tan học về, trời bắt đầu chuyển giông. Em vội vã rẽ nhanh vào con hẻm nhà mình thì thấy một chị bế em bé độ mười tháng tuổi một tay kéo va li và đang rảo bước.
Đến ngay cạnh người phụ nữ mới thấy chị mệt thế nào: tóc chị bết mồ hôi, một tay bế con còn kẹp thêm một túi xách nhỏ, tay kia chị kéo cái va-li độ hai chục kí. Chị phụ nữ còn trẻ, chị mặc áo sơ-mi màu vàng mơ, khoác một áo khoác nhẹ. Còn em bé mới xinh làm sao, em bé đội một cái mũ vải ren bèo màu hồng. Được mẹ bế trên tay nhưng chắc hai mẹ con đi bộ cũng xa nên bé hơi khó chịu, nó cho tay vào mồm mút và đang muốn khóc quấy. Em vội thưa:
– Chị về đâu hả chị? Chị đưa em kéo va-li giúp cho!
Chị dừng lại nhìn em:
– Sắp mưa rồi, chị sợ cháu mắc mưa. Nhà ba chồng chị ở trong hẻm này nè, cũng gần đây thôi.
Trong đầu em chợt loé lên một ý nghĩ, em buột miệng:
– Ba chồng… hay chị là…
– Chị là con dâu chú tổ trưởng khu phố này đấy, em biết chú ấy không?
Em reo lên:
– Em biết ngay mà. Em ở sát nhà ba chồng chị. Em tên Hưng. Chị bế cháu đi, đưa giỏ để luôn trên va-li, em kéo cho.
Chị phụ nữ cười, thở phào một cái:
– May mà gặp em. Em giúp chị nhé!
Em xốc lại chiếc cặp trên vai, kéo va-li giúpchị. Chị bế cháu bé lúc này trông thong thả hơn. Rảnh tay không xách giỏ, chị vỗ nhè nhẹ vào lưng em bé, nó ngừng mút tay, tròn xoe đôi mắt lay láy nhìn em. Hai chị em rảo bước vì trời bắt đầu mưa nhẹ. Về đến nhà em, cũng sát ngay nhà chú Tuân, em reo to:
– Chú Tuân ơi, tin vui, tin vui!
Chú Tuân mở cánh cổng chấn song, vui mừng kêu lên:
– Sao không điện cho ba di đón?
Chú đưa tay đỡ ngay em bé, nó nhào người sang tay chú ngay. Chị phụ nữ rút khăn tay lau cho em bé, cười vui vẻ:
– Gớm, mút tay bẩn mới ghê chứ! Thưa ba, con đi xe bus xuống trạm đây rồi, sợ ba bận nhiều việc hay trở trời đau chân. Chân ba có bị đau nhiều không ba?
Chú Tuân cảm động nhìn con dâu, bảo: “Ba khỏe.”. Em kéo va-li và giỏ vào trong phòng khách nhà chú Tuân xong, vòng tay chào chú và chị. Chú Tuân bắt tay em như người lớn, chú vui vẻ, điệu đàng:
– Cảm ơn “Dũng sĩ Tiền phong” nghen. Thay quần áo rồi sang nhà chủ ăn kẹo nha.
Em trả lời: “Vâng ạ!”, chào chú và chị lần nữa, thơm em bé một cái thật kêu rồi về nhà mình.
Em vừa đi vừa hát, lòng tràn ngập niềm vui vì đã làm được một việc tốt. Em còn vui vì một điều nữa: chú Tuân có con dâu và cháu về chơi vui vẻ hơn vì chú sống có một mình, còn em sẽ có em bé để nựng thích ghê. Làm được việc tốt em thấy mình trưởng thành lên rất nhiều.
Đề 2: Em có lần làm một việc sai trái trong gia đình, em hãykểlại câu chuyện ấy.
BÀI LÀM
Năm ấy em học lớp hai. Em đã làm một việc sai: cắt rách quần. Lúc ấy em bị bố phạt đứng ờ góc nhà, đến bây giờ em còn nhớ mãi.
Hồi ấy, xem Ti-vi, chương trình “Thời trang hip-pi qua các thời đại ”, em nhìn thấy nhiều kiểu nhà, kiểu xe, kiểu quần áo kì lạ trên màn hình. Chẳng những kì lạ, những kiểu nhà, xe, quần áo được gọi là “thời trang hip-pi’’ đó rất nhiều màu sắc, có cái nom cũng vui mắt. Các kiểu quần áo đầu được cắt tua tà ở bâu áo, lai quần. Tóc tai người mẫu thì bù xù, đánh rối như con bù nhìn rơm vậy. Kiểu tóc của người mẫu chả làm em thích tí nào nhưng các kiểu quần có tua lại làm em cảm thấy thích. Chiều hôm ấy, em lấy kéo cắt ống quần bộ đồ ở nhà. Em cắt từng tua nhỏ dài gần mười xăng-ti-mét. Em vừa cắt xong cái thứ ba thì bố và anh trai em đi làm về. Anh trai em sửng sốt:
– Em làm cái gì vậy bé? Sao cắt hết quần vậy?
Em đưa cái quần cho anh xem, hồn nhiên nói:
– Em cắt quần thành kiểu hip-pi.
Bố em đặt cặp sách xuống nền nhà, kêu lên:
– Chà, con thật hư, làm hỏng hết quần áo lấygì mà mặc. Bố không cho phép con ăn mặc như thế đâu nhé! Con bắt chước ở đâu vậy?
Em ỉu xìu, nín thinh. Anh trai nhắc:
– Kìa, bố hỏi, em không thưa bố à?
Em nói lí nhí:
– Dạ, con xem ti-vi thấy thời trang hip-pi bố ạ!
Bốthở phào một cái, cười rồi nghiêm mặt giảng giải:
– Hip-pi vui nhộn không phải là nét văn hoá của người Việt mình. Con đừng bắt chước như thế nhé. Con phải bị phạt rồi đây.
Anh trai em thay bố,bảo em đứng vòng tay ở góc nhà một giờ. Luật phạt ở gia đình em lỗi nhẹ nhất là vòng tay ở góc nhà. Anh em đem cặp cất vào góc nhà rồi ra hành lang thu xếp những cái quần mà em đã cắt. Bố đang điện thoại cho mẹ vì mẹ đang đi công tác sắp về. Em nghe bố nói:
– Àem,nếu đủ thời gian em ghé siêu thị mua cho con gái vài bộ đồ nhé. Nhà thiết kế này làm hỏng hết đồ rồi.
Nhắc đến mẹ. em thương mẹ quá. Mẹ đi công tác vất vả lại còn phải mua quần áo cho em,vừa tốn thời gian, vừa tốn tiền bạc. Sự bắt chước nông nổi của em đã gây không ít thiệt hại cho gia đình.
Giờ ăn bố xoa đầu em: “Nếu con muốn thiết kế thời trang phải học cho thật giỏi, không phải bắt chước là được đâu con ạ!”. Em hối hận thưa: “Con xin lỗi ạ, con sẽ không làm hư hỏng đồ đạc nữa ạ.”.
Cái lỗi ngày ấy là một kỉ niệm luôn nhắc nhở em phải suy nghĩ, cân nhắc trước khi làm một việc gì đểtránh sai lầm và thiệt hại cho mình và cho cả mọi người.
Đề 3: Em đã có lần làm việc tốt giúp đỡbạn, em hãykểlạiviệc làm ấy.
Xem bài văn mẫu Tiết 2 – tuần 13.
Đề 4: Em đã có việc làm giúp đỡngười tàn tật (hay chứng kiến một việc làm của người khác giúp đỡngười tàn tật). Em hãy kểlại câu chuyện ấy.
Giới hạn bài:Có thể kể việc chính mình làm hoặc việc làm của người khác mà em đã chứng kiến.
BÀI LÀM 1
(Việc làm của chính mình)
Xem bài văn mẫuTiết 2 — tuần 13
BÀI LÀM 2
(Việc làm em chứng kiến)
Cuối tuần qua, trên đường đi học về, em trông thấy việc làm tốt của một bạn thiếu nhi trạc tuổi em. Cử chỉ,nét mặt cũng như việc làm của bạn ấylàm em nhớ mãi.
Chiều thứ sáu, đường phố đông nghịt. Trên vỉa hè,người người đi lại như mắc cửi. Trên đường, xe chạy tấp nập,ồn ã. Những người bán hàng đêm đang nhanh tay bày hàng ra lề đường. Phố xá chiều cuối tuần có nét hối hả hơn thường ngày. Em xốc cặp,rảo bước về hướng nhà mình. Đường về nhà em ngang qua một trạm xe bus. Đang đi, em nhìn về phía bên kia đường thấy lố nhố một đám người đang muốn băng qua đường đến trạm xe bus mà không được. Thắc mắc, em nhìn kĩ họ. Đó là những người khiếm thị vì hầu hết họ đều đeo mắt kính đen, thảo nào họ không sang đường được vì xe chạy rầm rập, không ngừng. Chỗtrạm xe bus ở cách xa cột đèn đỏnên việc băng qua đường phải lựa lúc dù đã có vạch kẻ đường. Những người khiếm thị không phải đi hai tay không, họ đi bán những sản phẩm tự tay làm: chổi đót,tăm tre và cả đũa ăn nữa. Tuy đồ mang theo không nhiều nhưng cũng đủ làm họ lúng túng.Vừa lúc ấy,một bạn học sinh trạc tuổi em chạy đến. Bạn ấy cúi chào rồi hỏi những người khiếm thị gì đó và họ gật đầu. Bạn học sinh ấy mặc đồng phục Tiểu học quần xanh áo trắng như em vậy. Lúc này em đã đến gần nhà hơn nên thấy rõ bạn ấy đeo huy hiệu măng non dưới bảng tên trường. Khuôn mặt bạn ấy tuấn tú,trán rộng và cao. Bạn ấy dắt tay một người đầu tiên xuống đường rồi cũng rất nhanh nhẹn và ân cần, bạn ấy lấy tay những người khác dặt lên vai người đi trước, giống như học sinh đang xếp hàng vậy. Đoạn, bạn ấy mạnh dạn đưa cao tay lên. huơ lia lịa cái khăn quàng đỏra hiệu xin đường. Những chiếc xe máy chạy chậm lại nhường đường cho bạn ấy. Bạn ấy nắm lấy tay người đầu tiền và dẫn đoàn người khiếm thị qua đường an toàn. Khi tất cả mọi người đã đứng yên dưới mái che của trạm xe bus, em cũng vừa đi tới sát ngay đó. Những người lớn trầm trồ,chỉ trỏ, khen bạn nhỏ nhanh trí và biết giúp đỡ những người khiếm thị. Bác xe ôm nói:
– Tụi bác ởđây mà còn chưa làm được như con. Con đáng khen lắm, con học trường nào vậy?
Bạn ấy cười, bẽn lẽn:
– Dạ, con học trường Kim Đồng.
Lại có bác xe ôm khác nói:
– Đểbác đưa mấy anh chị này lên xe bus cho. Con yên tâm về đi. Tụi bác cũng phải góp công một chút chứ xấu hổquá.
Mọi người cùng cười xòa vui vẻ ấm áp làm sao. Bạn ấy chào mọi người rồi quay trởlại hướng bên kia đường. Em đã kịp biết được bạn ấy học lớp năm,trường Tiểu học Kim Đồng. Bạn ấy giỏi thật.
Việc làm của bạn nhỏ là tấm gương sáng đểem học tập. Không chỉ học tập tấm lòng yêu thương giúp đỡ người tàn tật của bạn ấy mà chúng em còn phải học tập tác phong nhanh nhẹn, mạnh dạn,xử lý nhanh công việc, có như thế mới mong tự chăm sóc cho bản thân mình và giúp đỡ người khác.
Đề 5: Kể một câu chuyện em được chứng kiến hoặc trực tiếptham gia thể hiện tinh thần kiên trì vượt khó.
BÀI LÀM 1
(Việc làm của chính mình)
Đầu năm lớp ba, ba mẹ chuyển công tác nên em cũng phải chuyển trường lên thành phố học. Em được xếp vào lớp ba một, là lớp bồi dưỡng học sinh năng khiếu của trường, cuộc chiến đấu kiên trì vượt khó của em bắt đầu từ đây.
Ở trường huyện, em đã là học sinh giỏi nhưng chưa phải là học sinh năng khiếu. Mặc dù em được mẹ kèm cặp và bản thân mình tự học thêm khá tốt, em vẫn chưa thế bắt kịp các bạn ở lớp năng khiếu được rèn luyện từ lớp một. Kìthi kiểm tra sát hạch đầu tiên, em xếp cuối lớp: đứng thứ hai mươi tám trong lổng số hai mươi tám học sinh. Từ bé, đi học, em chỉ xếp nhất lớp, vậy mà… Em nhìn phiếu kiểm tra, lòng buồn tủi làm sao. Một số bạn nhìn em có vẻchế nhạo nữa. Trên đường về nhà, em miên man suy nghĩ và hạ quyết tâm phải tăng tốc học các môn Toán và Tiếng Việt. Phải chọn cho mình từng nấc tiến. Mỗi kì kiểm tra, em chọn hai bạn trước mình, lấy đó làm mục tiêu phấn đấu. Học sinh lớp năng khiếu cứ hai tuần lại có một bài kiểm tra xếp loại. Cứ hai tuần một, em tiến lên có số điểm tổng các môn bằng số điểm hai bạn xếp hạng trên mình. Muốn vậy, em phải học tập chăm chỉ, làm rất nhiều toán nâng cao, toán dành cho học sinh giỏi Olympic. Tổng kết học kì một, em xếp hạng tốt hơn: thứ mười hai trên hai mươi tám bạn. Một số bạn trước đây hay coi thường, chế nhạo em giờ đây cũng không chọc ghẹo em nữa. Em thật sự không giận các bạn ấy. Mẹ em dạy: “Chỉ có học tập giỏi, hạnh kiểm tốt mới khẳng định nhân cách của mình. Con phải học tập thật xuất sắc!”. Nhớ lời mẹ dạy và nhờ mẹ kèm cặp, chăm sóc, em tiến bộ rất nhanh. Mẹ em bận công tác, phần lớn em cũng phải tự học. Mẹ tuy không thể có thời gian giảng tỉ mỉ cho em các đề bài nhưng mẹ mang về cho em rất nhiều sách toán, tài liệu hay. Nhờ vậy, cuối năm, em xếp hạng sáu trên hai mươi tám học sinh lớp năng khiếu và lọt vào danh sách chính thức của đội tuyển học sinh giỏi Toán. Năm lớp bốn này, đội tuyển lớp em sẽ tham gia các kì thi học sinh giỏi cấp Quận, Thành phốvà Quốc gia. Em sẽ cốgắng đạt thành tích tốt để thầy cô và cha mẹ vui lòng.
Nhìn lại chặng đường một năm rèn luyện tu dưỡng đã qua, em rất vui vì quá trình ấy có kết quả tốt đẹp. Nhớ những lúc mày mò tìm phương pháp giải toán, em lại thấy tinh thần dâng lên niềm hăng say học hỏi. Toán khó như thách đố em và cũng nhờ toán mà em tự học, tự rèn, có tinh thần tự chủ rất tốt. Em sẽ cố gắng học giỏi hơn nữa để có kết quả tốt trong các kì thi tới.
BÀI LÀM 2
Khi em chuẩn bị lên lớp ba, kinh tế gặp khó khăn, bố em mất việc ở thành phố nên cả nhà chuyển về quênội sinh sống. Gia đình em lâm vào cảnh khó khăn khiến việc học của em cũng lắm gian nan vất vả.
Từ nhà nội đến trường không có tuyến xe cộ nào cả. Em phải đi bộ ba ki-lô-mét đường làng để đến trường. Những ngày nắng ráo còn đỡ, ngày mưa thì đường lầy lội, đất sét nhão nhoét dưới chân trơn trượt, rất khó đi. Ba em làm việc cho nhà máy gần Uỷ ban xã còn mẹ em làm kế toán cho Uỷ ban.
Ba mẹ em cũng bận cả ngày nên em phải tự chăm sóc mình, giúp bà nội trông coi đàn gà, đàn vịt, tự học và tự đến trường. Quen ở thành phố từ bé, lúc đầu em khổ sở vô cùng với việc đi bộ, nhưng dần em cũng quen. Chỉ khổmột chút là nếu trời mưa thì phải đi học sớm hơn vì đường làng trơn trượt, việc đi bị chậm lại. Một năm lớp ba trôi qua,em quen dần và ngày càng nhanh nhẹn trong mọi việc: lùa vịt vào khung rào, cho gà ăn, đi học không phiền ba mẹ đưa đi nữa. Và cái quan trọng nhất là em thấy mình trưởng thành hơn trước, không phải vì những việc khó khăn ấy mà em học tập sa sút, em vẫn học tập tốt như mọi khi. Em đã tập đi xe đạp vững vàng. Cuối năm lớp ba, em đã đi xe đạp đến trường. Em đang cốgắng rèn luyện đểtham dự kìthi học sinh giỏi cấp trường và huyện sắp đến.
Hôm nay ba đi công tác thành phố về. Ba đặt lên bàn mấy quyển sách toán lớp bốn dành cho học sinh giỏi, ba nói: “Khó khăn rèn giũa con người con ạ. Ba mong con cố gắng học tập tốt”.Em thương ba quá, da ba đen sạm đi. Em sẽ cố gắng học lập đểlớn lên có thể giúp gia đình, đểcả nhà em sẽ có tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn.
BÀI LÀM 3
(Chuyện em chứng kiến)
Nam là một học sinh trường miền núi. Đầu học kìhai lớp bốn, cậu đạt điểm tuyển vào đội tuyển học sinh giỏi và được triệu tập học tập trung tại lớp bồi dưỡng của huyện để chuẩn bị kì thi học sinh giỏi tỉnh: Khó khăn mà Nam vượt qua không phải là nhỏ.
Nhà Nam rất nghèo. Mờ sáng, ba mẹ cậu đã vác cuốc lên rẫy, tối mịt mới về. Nam học buổi sáng theo chương trình bình thường ở trường Tiểu học miền núi.Buổi chiều Nam học lớp bồi dưỡng của huyện. Huyện cách nhà Nam hai mươi mốt ki-lô-mét. Không một ai đưa đón cậu vì nhà cậu không có phương tiện, xe cộ gì cả. Maythay, có một tuyến xe bus từ xã cậu ở về huyện, mỗi ngày xe chỉ chạy bốn chuyến. Thế là vượt qua tất cả trở ngại vì thiếu thốn mọi phương tiện, Nam học xong chương trình ở trường, cậu về nhà ăn nhanh bữa cơm trưa rồi chạy vội ra bến xe bus. Một giờ trưa, cậu đã có mặt tại lớp học. Cậu phải đến sớm như vậy vì không có chuyến xe nào kháccả. Thời gian chờ đến giờ học, cậu ngồi ôn bài. Buổi học kết thúc, Nam vội vã chạy ra bến xe bus. Cậu trở về nhà bàng chuyến xe lúc mười bảy giờ của phố huyện. Không chỉkhó khăn về mặt xe cộ. Nam còn thiếu thốn rất nhiều thứ: sách vở, giấy bút… Nam tiết kiệm và tận dụng từng mảnh giấy, dù chỉbé bằng bàn tay. Lớp học bồi dưỡng của huyện kéo dài hơn hai tháng. Nam đã có kết quả kì thi tỉnh của cậu: Nam đạt giải ba học sinh giỏi tỉnh. Tinh thần vượt khó và thành tích của Nam trong một hoàn cảnh khó khăn như vậy thật đáng khâm phục.
Tổng kết năm học, bạn Hồ Kì Nam,học sinh trường Tiểu học miền núi huyện em nhận hai phần thưởng: phần thưởng học sinh giỏi ở lớp và phần thưởng học sinh giỏi tỉnh. Cậu nhận được học bổng một năm do một công ty ở quê em tài trợ. Nam là tấm gương sáng cho tất cả học sinh chúng em noi theo. Buổi phát thưởng được tổ chức long trọng tại hội trường Ban giáo dục huyện. Ra về,em vẫn nhớ mãi khuôn mặt rám nắng, vầng trán cao và đôi mắt sáng của Nam rạng rỡ trong cờ, sao,hoa,bằng khen và đèn màu lễ đài.
Đề 6: Lớp em được nhà trường đưa đi tham quan viện bảo tàng thành phố. Em hãy kểlại lần tham quan ấy.
BÀI LÀM
Sau kì kiểm tra giữa học kì hai lớp ba, lớp em được nhà trường tổ chức đưa đi tham quan gian viện bảo tàng thành phố. Cùng đi với lớp em, ngoài cô giáo chủ nhiệm còn có thầy phụ trách Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh.
Sáng thứ năm hôm ấy bầu trời trong trẻo, nắng mai chiếu sáng trên các vòm cây của sân trường, chim hót líu lo. Chúng em mặc đồng phục, quần áo thẳng nếp, khăn quàng đội viên trang nghiêm, xếp hàng ngay ngắn trước văn phòng trường. Đúng tám giờ sáng, một chiếc xe bus đỗ xịch trước trường. Cô giáo đưa chúng em ra xe. Xe chạy qua hai đại lộ lớn,rẽ vào trung tâm thành phố và dừng lại trước một tòa nhà sơn màu trắng, đồ sộ, kiến trúc theo kiểu Pháp rất đẹp. Tấm biển lớn ởtrên tòa nhà khắc dòng chữ: “Viện bảo tàng thành phố Hồ Chí Minh”. Bao bọc tòa nhà nghiêm trang ấy là hàng rào chấn song sơn màu đồng kim nhũ. Cổng bảo tàng làm bằng sắt, từng chi tiết hoa văn của chấn song tuyệt đẹp như một tác phẩm nghệ thuật. Cả lớp xếp hàng trật tự đi vào đại sảnh. Chúng em đi trên lối đi lát gạch men,băng qua một sân cỏxanh mướt. Cô thuyết minh đón chúng em ở đại sảnh và đưa chúng em vào phòng trưng bày. Chúng em không đủ thời gian đểxem tất cả các phòng trưng bày. Cô thuyết minh giảng cho chúng em nghe về các đồ vật được trưng bày tại đây: trống đồng, những đồng tiền cổ qua các thời đại, giáo mác làm bằng đá, bằng đồng. Giọng cô thuyết minh hấp dẫn,lôi cuốn giúp chúng em hiểu rõ hơn về các cổvật. Chúng em được chiêm ngưỡng các lọ sứ men xanh cổđại, có những cái lọ từ xa xưa nhưng nét men sứ vẫn còn rất đẹp.
Nếu như không được nghe cô thuyết minh giới thiệu và giảng giải, chúng em đã không thểbiết được giá trị của chúng. Viện bảo tàng rất lớn, phòng nọ nối dài phòng kia bằng những dãy hành lang dài rộng, lát gạch bóng loáng. Chúng em chỉ xem một phòng trưng bày cổ vật là đến giờ ra về. Cả đoàn chào cô thuyết minh, vui vẻ ra xe.
Chuyến tham quan viện bảo tàng đã mở mang thêm nhiều kiến thức lịch sử cho chúng em. Viện bảo tàng là một công trình kiến trúc đẹp có nhiều hoa văn tinh tế sắc sảo, trang trí cho tòa nhà một nét uy nghi tráng lệ. Em rất tự hào vì thành phố em ở có được một viện bảo tàng lớn và đẹp như thế. Em hy vọng sẽ được tham quan viện bảo tàng nhiều lần nữa đểcó kiến thức phục vụ cho việc học tập của chúng em.
Đề7: Em đã có một ước mơ đẹp. Hãy kểlại điều mong ướcđó.
BÀI LÀM
Mẹ em là ysĩ khoa sản. Năm em học lớp ba, mẹ mởmột phòng khám phụ sản đỡ sinh tại nhà. Hằng ngày giúp mẹ bê dụng cụ ykhoa cho mẹ khám sản phụ hay đem đi sát trùng, trong em liền nảy nở một ước mơ: em sẽ làm y sĩ điều dưỡng.
Từ bé, em đã quen nhìn những chiếc áo blue trắng của mẹ giặt phơi sau một ngày làm việc ở bệnh viện. Thỉnh thoảng em còn theo mẹ vào bệnh viện nơi mẹ làm việc.Các dãy hành lang dài,phòng bệnh nối phòng bệnh, khoa này tiếp nối khoa kia với đầy bệnh nhân là chỗít ai thích vào. Nhưngmẹ em là y sĩ, ở bệnh viện mẹ làm công việc giúp sản phụ sinh con đỡ đau đớn hơn và đón tiếp một em bé ra dời. Các bác sĩ trong bệnh viện đi lại nhẹ nhàng trên hành lang, làm việc rất chuẩn xác để khám, cấp cứu cho bệnh nhân là một hình ảnh đẹp. Em đã được nghe nhiều mẩu chuyện vui buồn giữa mẹ và các đồng nghiệp của mẹ. Nhờ đó mà em biết đến những thương tâm, đau khổcủa các bệnh nhân. Họ đau bệnh và cần được chữa bệnh. Khi họ bị những cơn đau quằn quại, khiếp đảm hành hạ thìngoài người thân trong gia đình, y bác sĩ và những nhân viên điều dường là những vị thần xoa dịu nỗi đau cho họ.
Em mong muốn trở thành y sĩ điều dưỡng để chăm sóc bệnh nhân. Ước mơ thật giản dị xuất phát từ tình thương khi em nhìn thấy cái đau khủng khiếp của người bệnh. Muốn thực hiện ước mơ của mình, em phải học thật giỏi và rèn luyện tính nhẫn nại,dịu dàng khéo léo như mẹ của em.
Mẹ em thường nói: “Không phải ước mơ nào cũng trở thành hiện thực, con phải có quyết tâm, có tấm lòngmới theo học ngành y được và phải học thật giỏi”. Em sẽ cố gắng thực hiện ước mơ của mình. Một ngày trong tương lai, em sẽ trở thành đồng nghiệp của mẹ, giúp đỡ mẹ và cả những bệnh nhân đau ốm cần chăm sóc, chữa trị.
Đề 8: Em hãy kể lại lại một chuyến dã ngoại mà lớp em (hay nhà trường) tổ chức.
BÀI LÀM
Hằng năm, trước khi nghỉ hè, trường em thường tổ chức cho học sinh các lớp đi du lịch dã ngoại. Năm lớp ba, lớp em được đi chơi Suối Tiên.
Từ mờ sáng, chúng em đã tập trung tại sân trường. Bạn nào cũng ăn mặc gọn gàng, mang ba lô cá nhân trên vai, đi xăng-đan hoặc giầy vải. Chúng em mang theo thức ăn và nước uống. Cô y sĩ ở phòng y tế trường cũng đi với cả lớp. Khi xe bus đến, cô giáo và các bạn tổ trưởng đưa thức ăn và nước uống lên xe. Thầy Tổng phụ trách còn mang theo cả đàn ghi-ta, mấy tấm lều bạt và một chiếc máy quay hình nhỏ. Xe khởi hành lúc bảy giờ rưỡi, xuyên qua xa lộ rồi nhập vào dòng xe cộ trên quốc lộ Một A. Một giờ sau, xe dừng sát cổng khu du lịch Suối Tiên. Cả đoàn lịch kịch chuyển đồ đạc mang theo xuống những xe đẩy nhỏ, đẩy vào cổng. Suối Tiên là một khu du lịch lớn của thành phố. Ở đây, cảnh thiên nhiên được các kiến trúc sư tô điểm thiết kế rất kì vĩ, vừa tôn nét đẹp tự nhiên của suối, núi rừng vừa pha lẫn cảnh sắc hoành tráng của văn hoá dân tộc Việt. Trên các mỏm đá cao, núi đá được đẽo, khắc tạc thành những con rồng lớn. đuôi uốn khúc rất uy dũng. Trong khu du lịch có hồ bơi, hồ nuôi cá heo. Chúng em được xem cá heo biểu diễn, chơi bóng và chúng còn biết làm toán nữa. Sau khi chúng em xem cá heo làm xiếc xong, thầy cô giáo cho chúng em sinh hoạt tập thể. Những tấm lều bạt thầy phụ trách mang theo được trải ngay ngăn dưới bóng cây. Bạn Chi đội trưởng làm người dẫn chương trình, thầy phụ trách đệm đàn cho chúng em hát. Cô giáo em tươi tắn, gọn gàng trong bộ đồ thể thao, cô tươi cười động viên các bạn còn e lệ nhút nhát xung phong hát giúp vui. Cô vỗ tay bắt nhịp cho cả lớp hát bài “Em là mầm non của Đảng”. Đểkết thúc chương trình sinh hoạt tập thể, cô giáo chủ nhiệm của em và thầy phụ trách cùng song ca bài “Reo vang bình minh “. Cả đoàn ăn trưa dưới bóng cây mát rượi. Sau đó chúng em giũ sạch lều bạt,dùng ba lô cá nhân làm gối, nghỉ trưa. Đúng mười bốn giờ, chúng em thức dậy, vệ sinh cá nhân rồi được các thầy cô dẫn đi xem suối và các trò chơi, gặp cảnh đẹp, thầy phụ trách lớp em lại bấm máy quay ghi hình. Chúng em ra xe trở về lúc mười sáu giờ. Trên xe, bạn Chi đội trưởng đề nghị cô ysĩ hát một bài vì lúc nãy cô chưa hát lần nào. Chúng em vỗ tay hoan hô, yêu câu cô hát. Cô hát thật hay,giọng cô trong, mạnh. Xe chạy về thành phố trong tiếng hát ấm áp của cô y sĩ và tiếng vỗtay theo nhịp của chúng em. Buổi dã ngoại kết thúc thật vui.
Sinh hoạt dã ngoại giúp chúng em được vui chơi, giải trí, tham quan nhiều phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp,mở mang nhiều kiến thức về đời sống, ứng xử. giao tiếp. Mỗi một lần đi dã ngoại., chúng em thấy yêu thiên nhiên và thân thiết với bạn bèmình hơn. Chúng em đều thấy mình lớn thêm, mạnh dạn và đoàn kết hơn.
Đề 9: Em vừa tham gia hội trại thiếu nhi. Em hãy kể lại buổi hội trại đó.
BÀI LÀM
Hội trại Thiểu nhi của các trường Tiểu học thường được tổ chức vào trước Tết Nguyên đán, nhân dịp mừng Đảng – mừng Xuân ngày mùng ba tháng hai hàng năm. Năm nay, hội trại lại được tổ chức ngay ở trường em. Tất cả các bạn khối bốn và năm đều được tham dự.
Chúng em chuẩn bị cho ngày hội trại từ nhiều hôm trước: lều dựng trại, tre dựng cổng trại, giấy màu cắt dán,trang trí đèn màu. Các tiết mục thể thao, văn nghệ được tập luyện và tổng dượt kĩ càng. Chúng em tập trung tại sân trường từ rất sớm, ngay vị trí đã được phân công dựng trại của lớp mình. Đúng bảy giờ, hiệu lệnh chuông vang lên, báo lệnh bắt đầu dựng trại. Trại chỉ huy được dựng giữa sân trường. Bao bọc thành hình chữ Uquanh trại chỉ huy là trại của các lớp. Thời gian dựng và trang trí trại là một giờ đồng hồ. Đúng tám giờ,tất cả các trại đều đồng loạt hoàn thành. Sân trường chỉ sau một giờ đã trở thành bãi trại cờ sao rực rỡ, dây ruy băng trang trí treo từ trại chỉ huy đến tận cổng trường, cổng trường treo cờ đỏ Tổ quốc và cờ Đảng Cộng sản Việt Nam với hàng chữ vàng dán trên băng rôn đỏ thẩm: “Nhiệt liệt chào mừng quý vị đại biểu”, cổng trường rộng mở và ngay cổng, một cổng chào bằng tre lá trang trí nghệ thuật mang hàng chữ “Hội Trại Mừng Đảng – Mừng Xuân”. Khi chuông reo dài, chúng em tập trung tại trại của mình, xếp hàng ngay ngắn đón quý vị đại biểu và tất cả cùng tham gia lễ khai mạc trại. Sau lễ khai mạc,ban chỉ huy trại chấm giải “Trại đẹp nhất Hội Xuân”. Chúng em được ăn sáng bằng thức ăn nhẹ trong vòng nửa tiếng. Hiệu lệnh trại lúc này được thay bằng tiếng trống. Một hồi trống dài báo hiệu các trò chơi bắt đầu. Sân chơi ởgiữa khu vực trại. Đội chơi của các lớp lần lượt tham dự các trò chơi: nhảy bao bố, kéo co, đi cà kheo, ngậm trứng, cướp cờ…. Khán giả xếp hàng hai bên sân chơi hò reo, cổ vũ. Tiếng trống thúc từng hồi, có lúc liên hồi, có lúc ngắt quãng, lúc dồn dập nghe tưng bừng, hồi hộp sôi động vô cùng. Đúng mười hai giờ trưa, chúng em ăn trưa. Sau giờ nghỉ trưa là hội thi nấu cơm nhanh. Đây là hội thi vui nhất vì mặt mũi thí sinh dính đầy nhọ nồi. Mỗi đội có ba bạn dự thi: bạn quạt, bạn nhóm lửa,nôn nóng chờ cơm chín vui đáo để.Hội thi nấu cơm cũng kết thúc cuộc thi các trò chơi. Chúng em ăn cơm chiều và chuẩn bị tham dự lửa trại, diễn văn nghệ. Mờ tối, sân chơi buổi sáng trở thành nơi sinh hoạt lửa trại, diễn văn nghệ. Khi lửa trại bừng cháy, màn sân khấu được kéo ra, đèn màu bật sáng. Toàn khu trại đẹp lung linh như những ngôi nhà trong truyện cổ tích “Nghìn lẻ một đêm”. Thầy Hiệu trưởng đọc bài phát biểu “Mừng Đảng – Mừng Xuân”, sau đó, buổi biểu diễn văn nghệ bắt đầu. Các tiết mục văn nghệ lần lượt được trình diễn.
Hay nhất là tiết mục “Táo quân” của lớp Năm A nhưng được mọi người vỗ tay lâu nhất vẫn là tiết mục độc tẩu ghi-ta của lớp Năm C. Chúng em vô cùng thán phục và tán dương khi bé Thủy, học sinh lớp hai trình diễn đàn Organ rất thu hút, hấp dẫn. Đúng hai mươi hai giờ, chương trình văn nghệ chấm dứt. Chúng em nghỉ đêm tại các phòng học. Mờ sáng hôm sau, chúng em nhổ trại rồi tập trung ở sân cờ để nghe Ban chỉ huy trại công bố giải thưởng và dự lễ Bếmạc trại. Chúng em ra về trong tiết trời mát mẻ. Gióxuân mơn man trên các cành lá. Muôn hoa khoe sắc đón một ngày mới và một mùa xuân đẹp đang về.
Hội trại Thiếu nhi là sinh hoạt vui chơi hổ ích. Chúng em phải biết phát huy mọi sở trường của mình mới giành được chiến thắng trong các trò chơi. Nhờ đó, chúng em được tập luyện nhiều lĩnh vực, rèn luyện sự thành thạo và nhanh nhẹn, ngoài ra còn được giải trí sau một học kì học tập chăm chỉ. Em rất thích tham dự hội trại
II.KỂCHUYỆN SÁNG TẠO
Đề 1: Kể lại câu chuyện “Nỗi dằn vặt của An-đrây-ca”bằnglời của cậu bé An-đrây-ca.
BÀI LÀM
Các bạn có bao giờ có một nỗi niềm suy tư buồn bã không? Tôi thì có đấy. Đó là câu chuyện buồn nhất cuộc đời tôi từ thời thơ ấu. chuyện ấy dằn vặt tôi đến mãi bây giờ.
Năm ấy tôi lên chín tuổi, sống với mẹ và ông. Ông tôi đã chín mươi sáu tuổi rồi nên rất yếu. Một buổi chiều, ông gọi mẹ tôi:
– Bố khó thở lắm!
Mẹ liền bảo tôi đi mua thuốc. Tôi nhanh nhảu đi ngay. Trên đường chạy đến tiệm thuốc, tôi gặp các bạn đang chơi bóng đá. Khi các bạn rủ tôi chơi bóng, tôi quên mất việc đi mua thuốc của mình. Thế là tôi nhập hội với các bạn. Chơi được một lúc, tôi chợt nhớ lại lời mẹ dặn. Tôi vội chạy đi mua thuốc rồi vội vã chạy về nhà. Vừa vào phòng ông, tôi hoảng hốt thấy mẹ khóc nấc. Ông tôi đã qua đời. “Chỉ vì mình mải chơi bóng, mua thuốc về chậm trễ mà ông mất”, tôi òa khóc và kể cho mẹ nghe việc tôi chơi bóng. Mẹ an ủi tôi:
– Không, conkhông có lỗi. Chẳng thuốc nào cứu nổi ông con đâu. Ông đã mất từ lúc con vừa ra khỏi nhà.
Nhưng tôi không nghĩ vậy. Tôi hội hận quá. Giá như tôi đừng mải chơi bóng, mua thuốc về kịp thì ông tôi vẫn còn sống thêm được ít năm nữa. Đêm đó, tôi ngồi dưới gốc cây táo do ông trồng khóc nức nở khôn nguôi.
Nỗi buồn của tôi là một kinh nghiệm đau xót. Sau một thời gian dài, việc gì cũng nguôi ngoai nhưng mỗi khi chợt nhớ, tôi vẫn nghe đau nhói trong tim. Các bạn chớ ham chơi như tôi mà đểxảy ra điều đáng tiếc nhé!
Đề 2: Kể lại câu chuyện “Vua tàu thủy Bạch Thái Bưởi”bằnglời của một chủ tàu người Pháp hoặc người Hoa.
BÀI LÀM
Khi nước Pháp đặt nền móng bảo hộ Việt Nam đi vào ổn định, tôi bắt đầu chuyển hướng kinh doanh sang Việt Nam. Là người Pháp, được hưởng nhiều ưu tiên, tôi nhanh chóng mở ngay công ty vận tải đường biển. Hơn hai mươi năm làm ăn phát đạt thì công ty tôi gặp một đối thủ: ông Bạch Thái Bưởi, một chủ tàu người Việt.
Bưởi xuất thân nghèo khổ, mồ côi cha từ bé nên phải bán hàng rong với mẹ. Tuy vậy, Bưởi có khuôn mặt khôi ngô và tư chất thông minh. Nhờ vậy, Bưởi được nhà họ Bạch nhận làm con nuôi. Do đó, Bưởi có họ Bạch. Năm hai mươi mốt tuổi, Bạch Thái Bưởi làm thư ký cho một hãng buôn. Anh nhanh chóng nắm vững kiến thức về thương mại và bắt đầu kinh doanh độc lập. Bưởi kinh doanh đủ mọi ngành: buôn gỗ, buôn ngô, mở hiệu cầm đồ, lập nhà in, khai thác mỏ… Có lúc anh cũng khánh kiệt gia sản nhưng anh vẫn không hề nản chí.
Bạch Thái Bưởi mở công ty vận tải đường thủy khi những con tàu của người Hoa gần như độc chiếm các đường sông miền Bắc. Chủ tàu người Pháp chúng tôi chủ yếu kinh doanh ở miền Nam, cũng ít bị ảnh hưởng hơn nhưng thật sự chúng tôi: chủtàu Pháp, Hoa và Bưởi đang ở trên thương trường cạnh tranh khá quyết liệt. Bạch Thái Bưởi có phương pháp vận động khách hàng rất hay: ông cho người đến các bến tàu diễn thuyết. Bưởi khích lệ,tinh thần dân tộc Việt rất cao nên hầu hết khách đi tàu đều đến ủng hộ ông. Họ rất thích biểu ngữ”Người ta thì đi tàu ta” của ông và tình nguyện giúp đỡ ông. Khách đi tàu gom tiền xu vào những ống tiết kiệm ông Bưởi cho treo trên tàu để quyên góp, trợ sức cho chủ tàu. Khi bổ ống, tiền đồng rất nhiều còn tiền hào và tiền xu thì nhiều vô kể. Khách đi tàu của ông Bưởi mỗi ngày một đông. Nhiều chủ tàu người Hoa sau một thời gian cạnh tranh phải bán lại tàu cho ông Bưởi. Chúng tôi rút vào kinh doanh ở miền Nam vì ở miền Nam, chúng tôi được nhiều quyền lợi ưu tiên hơn. Sau đó, ông Bưởi còn mua xưởng đóng tàu,thuê kĩ sư giỏi để trông nom. Công ty vận tải đường thủy của Bạch Thái Bưởi lớn mạnh có đến ba mươi chiếc tàu lớn nhỏ mang những cái tên của lịch sử Việt Nam như: Hồng Bàng, Lạc Long, Trưng Trắc, Trưng Nhị… Chỉ trong vòng mười năm, Bạch Thái Bưởi đã trở thành “một bậc anh hùng kinh tế” nổi tiếng khắp Việt Nam thời ấy.
Mặc dù thành công của ông Bạch Thái Bưởi là thất bại của chúng tôi nhưng tôi vẫn rất nể phục người doanh nhân bền chí, kiên trì, có nhiều sáng kiến như ông Bưởi. Ông đã làm cho những người Pháp, người Hoa phải e dè, cảm phục trí thông minh và chịu khó của người Việt. Ông Bưởi xứng đáng được tham gia vào thương trường rộng lớn như Đông Dương và thế giới.
Đề 3: Trong giấc mơ, em được một bà tiên cho ba điều ướcvà em đã thực hiện cả ba điều ước đó. Hãy kểlại câu chuyện ấy theo trình tự thời gian.
Xem bài mẫu Tiết 2 – Tuần 7.
Đề 4: Hãy kểlại câu chuyện “Vào nghề” bằng lời của nhân vật Va-li-a.
BÀI LÀM
Giáng sinh năm mười một tuổi, tôi được bố mẹ cho đi xem xiếc. Chương trình xiếc hôm ấy rất đặc sắc, có rất nhiều tiết mục nhưng tôi thích nhất là tiết mục “Cô gái phi ngựa đánh đàn”. Hình ảnh cô diễn viên biểu diễn tiết mục đó theo tôi về đến nhà và từ hôm ấy,tôi ao ước mình trở thành diễn viên biểu diễn tiết mục dó.
Một hôm,lúc đi ngang qua rạp xiếc, tôi nhìn thấy tấm biển tuyển diễn viên. Tôi cố thuyết phục bố mẹ cho tôi học nghề xiếc. Được bố mẹ đồng ý, tôi đến gặp ngay bác giám đốc để xin học nghề tại rạp xiếc. Bác giám đốc vui vẻ đồngývà vì tôi bày tỏ nguyện vọng muốn trởthành diễn viên tiết mục “Cô gái phi ngựa đánh đàn “nên bác giám đốc giao cho tôi việc quét dọn chuồng ngựa. Tôi ngạc nhiên quá đỗi nhưng rồi cũng vui vẻ nhận lời khi nghe bác giám đốc giải thích:
– Công việc của diễn viên phi ngựa đánh đàn bắt đầu như thế đấy, cháu ạ. Cái tháp cao nào cũng phải xây từ mặt đất lên.
Lúc bắt tay dọn dẹp chuồng ngựa sạch sẽ, tôi mới hiểu được mục đích của bác giám đốc khi phân công cho tôi làm công việc này: có dọn chuồng ngựa tôi mới dễdàng làm quen với chú ngựa và thực sự biết yêu ngựa, yêu tiết mục diễn của mình sau này.
Những ngày đầu dọn chuồng ngựa, tôi hơi nản chí nhưng nhớ đến hình ảnh cô gái phi ngựa đánh đàn tôi lại phấn chấn lên. Ít tuần sau, tôi quen dần với công việc và cảm thấy rất yêu quý chú ngựa. Đó là lúc bác giám đốc cho phép tôi học đến nghệ thuật biểu diễn. Sau một thời gian luyện tập, tôi đã trở thành diễn viên xiếc như mong ước. Mỗi lần tôi bước ra sân khấu, những tràng pháo tay nồng nhiệt lại vang lên. Chỉ trong nháy mắt, tôi đã đứng trên lưng ngựa, tay ôm cây vĩ cầm và tiếng đàn réo rắt,dìu dặt vang lên. Những tràng vỗtay nồng nhiệt của khán giả là phần thường vô giá dành cho tôi.
Trải qua nhiều vất vả, với quyết tâm cao và niềm đam mê nghệ thuật xiếc, tôi đã trởthành diễn viên xiếc nổi tiếng. Tôi sẽ cố gắng hơn nữa đểbiểu diễn hay hơn,trở thành ngôi sao trên bầu trời nghệ thuật xiếc để đáp lại tình cảm mà khác giả đã dành cho tôi.
Đề 5: Hãy kể lại câu chuyện “Nguời ăn xin” bằng lời kế của ông lão ăn xin. BÀI LÀM
Một ngàymùa đông giá rét,băng tuyết phủ trắng khắp nơi, tôi gặp một cậu bé đang đi trên phố.
Tôi đã già lọm khọm lắm rồi, bộ dạng thật thảm hại, đôi mắt tôi đỏ dọc, nước mắt lúc nào cũng giàn giụa. Đôi môi tôi tái nhợt vì rét, quần áo tả tơi, xơ xác. Chao ôi! Cảnh đói khổ đã biến tôi thành kẻ xấu xí biết dường nào. Cậu bé ấy có gì cho tôi không? Một cậu bé có tiền riêng trong túi không?
Nhưng tôi chẳng có gì để ăn, chẳng có một hào để mua một lát bánh mì. Tôi đành phải xin tiền một cậu bé. Tôi chìa bàn tay sung húp, bẩn thỉu ra trước mặt cậu bé. Tôi rên rỉ cầu cứu.
Cậu bé lục tìm hết túi nọ túi kia. Cậu bé không có tiền, không có đồng hồ, không có cả một chiếc khăn tay. Cậu bé chẳng có gì hết.
Tôi vẫn chìa tay ra, bàn tay tôi run rẩy, vì đói và vì lạnh. Cậu bé nắm chặt bàn tay run rẩy của tôi, giọng cậu tha thiết:
– Ông đừng giận cháu, cháu chẳng có gì đểcho ông cả!
Đột nhiên, tôi cảm thấy ấm cả lòng. Cậu bé chẳng có gì cho tôi nhưng bàn tay và câu nói của cậu là món quà chia sẻ chân thành. Tôi nhìn cậu bé chằm chằm bằng đôi mắt ướt đẫm. Đôi môi tái nhợt của tôi nở nụ cười và tay tôi xiết lấy tay cậu bé:
– Cháu ơi, cảm ơn cháu! Như vậy là cháu đã cho lão rồi – tôi nói bằng giọng khản đặc.
Cậu bé nhìn tôi,chắc có lẽ cậu cũng hiểu được tôi, hiểu được cảm xúc và lòng biết ơn của tôi trước tấm lòng của cậu.
Cậu bé ấy chẳng có gì để cho tôi nhưng cái nắm tay ấm chặt của cậu bé đã xoa dịu trái tim đau khổ của tôi, đã làm ấm lại các vết lạnh thâm tím trên da thịt tôi. Cậu bé đã tặng cho tôi tình thương của cậu và tôi cũng được dịp bày tỏsự biết ơn của tôi đối với cậu. Tình yêu của con người làm những người khốn khổnhư tôi cảm thấy vơi đi phần nào sự đau khổ, cảm nhận được hơi ấm hạnh phúc của tình người.
Đề 6: Trong vai bà cụ, em hãy kểlại câu chuyện “Nàng tiên Ốc”.
BÀI LÀM
Tôi là một bà lão nghèo khổ cô độc, gầy còm sống bằng nghề mò cua, bắt ốc. Cuộc sống cô độc đã xếp từng nếp nhăn trên da mặt tôi. Sự nghèo khổ in hằn trên áo quần vá chằng vá đụp của tôi. Tuổi già đè nặng trên thân thể gầycòm mòn mỏi của tôi. Hằng ngày, tôi vẫn phải lặn lội trên từng đám ruộng, bờ sông mò cua bắt ốc đế đổi lấy gạo.
Một hôm, tôi bắt được một con ốc màu xanh óng ánh. Con ốc nhỏ xinh vỏ màu xanh bạc, lấp lánh dưới ánh mặt trời. Con ốc đẹp quá, có người hỏi mua nhưng tôi không bán. Tôi thấy thương con ốc nên đem nó về thả trong chum nước để nuôi. Từ ngày tôi nuôi con ốc, nhà tôi xảy ra nhiều sự lạ: khi tôi đi làm về, cơm canh đã được dọn sẵn, nhà cửa sạch bóng, cỏ vườn đã được dọn sạch, lợn trong chuồng đã được ăn no. Tôi ngạc nhiên quá, lạ thật, ai đã giúp mình? Tôi tự hỏi rồi quyết chí rình xem. Một sáng, tôi đi ra đồng bình thường như mọi hôm nhưng nửa đường tôi quảy gánh về nhà, rón rén núp ở đầu hè. Từ trong chum nước, một cô gái mặc bộ màu xanh như màu vỏ ốc bước ra. Cô gái ấy đẹp như một nàng tiên: khuôn mặt trái xoan, đôi mắt đen láy nổi bật trên nước da trắng hồng, tươi tắn. Cô gái vén tay áo, dọn dẹp nhà cửa nhanh thoăn thoắt: cô cho lợn ăn, nhặt rau, quét sân. Cô gái nấu cơm, luộc rau. Nắng mai chiếu lên tấm áo lụa cô mặc lóng lánh màu vỏ ốc làm tôi sực tỉnh. Tôi len lén đến bên chum nước, đập tan vỏ ốc ra. Cô gái giật mình, chạy đến chum nước. Tôi ôm lấy cô, tha thiết:
– Già sống một mình buồn tủi làm sao! Con hãy làm con gái già nhé!
Từ đấy, hai mẹ con tôi sống bên nhau hạnh phúc, bình yên.
Đề 7: Hãy tưởng tượng và kểlại câu chuyện có ba nhân vật:bà mẹ ốm, người con bằng tuổi em và một bà tiên.
BÀI LÀM
Có những chuyện tưởng chừng như xảy ra ở thế giới thần tiên, nhưng thế giới thần tiên thì làm gì có ốm đau nghèo khổ. Chuyện em sắp kể cho mọi người nghe sau đây là câu chuyện xảy ra trong thế giới con người. Câu chuyện không có tựa đề, xảy ra từ lâu, lâu lắm rồi.
Ngày xưa, ở một làng chài nhỏ có hai mẹ con nhà kia thật nghèo khổnhưng họ sống êm đềm, hạnh phúc. Bà mẹ tần tảo vá lưới kiếm tiền nuôi con. Cậu con lên mười tuổi, mặt mũi khôi ngô, chăm học và rất lễ phép. Mọi người ai cũng thương mến hai mẹ con. Cuộc sống nghèo khổkhiến sức khỏe của bà mẹ ngày một mòn mỏi rồi ngày kia, bà lâm bệnh nặng. Cậu bé hết lòng chăm sóc mẹ và thay mẹ làm tất cả mọi việc kể cả việc vá lưới kiếm tiền. Đã một tháng trôi qua mà mẹ cậu vẫn chưa khỏi bệnh. Chút tiền ít ỏi mẹ dành dụm được cũng chẳng đủ thuốc thang. Mẹ cậu vẫn mê man trên giường bệnh. Trời chiều ảm đạm, gió biển lạnh buốt ùa vào mái lều. Cậu đem tất cả manh áo hai mẹ con có được đắp cho mẹ ấm, cố kéo tấm bạt che chỗ gió lùa rồi nâng mẹ dậy để mẹ uống bát thuốc cậu vừa sắc xong. Bà mẹ uống thuốc xong, nặng nề chìm vào giấc ngủ. Cậu bé vừa lau mồ hôi trên trán vừa vắt ócnghĩ cách mời thầy thuốc đến nhà chữa bệnh cho mẹ. Nhà chỉ có một cái nồi đồng là đáng giá có thể đổi lấy tiền. Đang miên man suy nghĩ, bỗng cậu nghe soạt một tiếng khẽ rồi căn lều bỗng ánh lên một tia sáng xanh tuyệt đẹp. Một bà tiên áo xanh hiện ra giữa cửa. Bà tiên mặc một chiếc áo lụa xanh da trời, cổ và tay áo viền kim cương óng ánh. Tóc bà búi cao để lộ gương mặt trắng hồng, hiền từ, phúc hậu. Bà tiên đến bên giường người bệnh, đưa bàn tay thon thả trắng muốt của mình vuốt trán mẹ cậu. Rồi, bà tiên lấy từ trong tay áo ra một nhánh lá chỉ nhỉnh hơn ngón tay cái, đưa và miệng mẹ cậu. Mẹ cậu chép miệng, ú ớ trở mình rồi mở bừng mắt. Kì diệu thay, mắt mẹ cậu sáng trong, khuôn mặt tươi tỉnh như chưa hề đau bệnh gì. Cả hai mẹ con cậu chưa kịp hiểu việc gì xảy ra thì bà tiên đã cất giọng dịu dàng:
– Thương hai mẹ con nghèo khổ nhưng hiền lành nên ta đến giúp. Con đã lành bệnh rồi, cố gắng làm lụng nuôi con nhé!
Mẹ cậu rưng rưng nước mắt, chắp tay lạy tạ bà tiên. Bà tiên cười:
– Con trai con là một đứa con hiếu thảo, hai mẹ con cố gắng bao bọc nhau nhé!
Cậu bé quỳ xuống lạy tạ. Thoắt cái, ánh sáng xanh chợt tắt, bà tiên biến mất. Căn lều trở lại tối om om như cũ. Mẹ cậu đến bên bếp lửa, bà đùn củi vào, củi bén lửa nổ lách tách. Căn lều sáng và ấm cúng hẳn lên. Cậu bé dụi mắt tưởng như mình ngủ mê. Mẹ cậu nắm tay cậu, hai mẹ con ngước lên trời chắp tay lạy tạ bà tiên áo xanh. Hai mẹ con sống đầm ấm, hạnh phúc như xưa.
Câu chuyện kết thúc thật đẹp, phải không các bạn. Làng chài hai mẹ con sống về sau trở nên một hải cảng sầm uất. Người ta nói rằng đó là do bà tiên áo xanh phù hộ cho dân làng và hai mẹ con cậu bé làm ăn phát đạt.
MỘT SỐ BÀI VĂN GIỚI THIỆU ĐỊA PHƯƠNG
Chương trình Tập làm văn lớp 4 có 2 tiết làm văn giới thiệu địa phương.
• Học kì I: Tiết 1 – Tuần 16.
• Học kì II: Tiết 2 – Tuần 20.
Các bài tập làm văn này được trình bày dưới thế loại văn kể chuyện. Hai tiết học này có thể phụ thuộc vào chỉ đạo chuyện môn của từng quận, huyện, tỉnh thể hiện được phong tục, lễ hội, phong trào của từng địa phương. Nếu địa phương nào không có chỉ đạo riêng thì tuân thủ đề bài do Bộ Giáo dục và Đào tạo soạn ở sách giáo khoa. Để cung cấp tư liệu cho các em làm văn,tác giả soạn hai tiết học này theo hai chủ điểm:
1. Phong tục – Lễ hội – Trò chơi.
2. Sự đổi mới và phong trào thực hiện lối sống mới hiện nay của địa phương.
LUYỆN TẬP GIỚI THIỆU ĐỊA PHƯƠNG
(Tiết 1 – Tuần 16)
1. Đọc lại bài “Kéo co” và cho biết bài văn ấy giới thiệu trò chơi của những địa phương nào. Thuật lại trò chơi đã được giới thiệu.
Bài “Kéo co”giới thiệu trò chơi kéo co của làng Hữu Trấp, huyện Quế Võ, tinh Bắc Ninh và làng Tích Sơn, thuộc xã Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
Mỗi làng đều có thể thức chơi và luật chơi kéo co khác nhau.
a) Trò chơi kéo co ở làng Hữu Trấp, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh:
Hội làng Hữu Trấp thường tổ chức thi kéo co giữa nam và nữ. Đó là nét đặc sắc chí có riêng ở vùng Hữu Trấp là vì thông thường người ta tổ chức hai đội thi đấu đều là nam cả hoặc đều là nữ cả. Nữ thi với nam thế mà có năm nữ thắng đấy! Nhưng dù bên nào thắng thì cuộc thi cũng rất là vui, đã thi thì phải ganh đua, đã là hội chơi thì phải có khán giả cổ vũ. Vì thế năm nào hội kéo co ở làng Hữu Trấp cũng vui tưng bừng.
b) Trò chơi kéo co ở làng Tích Sơn thuộc xã Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc:
Ởlàng Tích Sơn thuộc xã Vĩnh Yên,tỉnh Vĩnh Phúc trò chơi kéo co được tổchức thi giữa trai tráng hai giáp trong làng. Luật chơi kéo co ở đây cũng khác nhiều nơi là số người mỗi bên không hạn chế. Nhiều khi, có giáp thua keo đầu,tới giáp thứ hai, trai tráng trong làng kéo đến đông hơn nên có thể chuyển bại thành thắng. Kết thúc cuộc thi, dân làng nổi trống mừng bên thắng. Đây cũng là dịp đểcác cô gái trong làng bày tỏ tình cảm ưu ái, khen ngợi sự mạnh mẽ của những chàng trai thắng cuộc.
2.Hãy giới thiệu một trò chơi hoặc một lễ hội ởquê em. (Chú ý: Trong phần mở – bài, cần giới thiệu quê em ởđâu, có trò chơi hoặc lễ hội gì thú vị).
• Phân tích đề:
– Mệnh lệnh đề: giới thiệu (văn kể chuyện).
– Nội dung giới thiệu (kể): trò chơi hoặc lễ hội.
– Giới hạn đề:
+ Chọn hoặc là trò chơi hoặc là lễ hội.
+ Nêu rõ tên địa phương quê em.
3. Đọc bài văn “Nét mới ở Vĩnh Sơn” trang 19 – sách Tiếng Việt lớp 4–tập 2, trả lời các câu hỏi sau:
a) Bài văn giới thiệu những đổi mới của địa phương nào?
Bài văn giới thiệu những đổi mới trong sản xuất nông nghiệp và đời sống của nhân dân ởxã Vĩnh Sơn, huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định.
b) Kểlại những nét đổi mới nói trên:
Vĩnh Sơn là một xã miền núi thuộc huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định. Người dân sống chủ yếu là dân tộc Ba Na. Đây là xã có nhiều khó khăn nhất huyện, người dân nghèo đói quanh năm. Giờ đây, Vĩnh Sơn đã có nhiều đổi khác.
Nét thay đổi nổi bật là người dân ở Vĩnh Sơn đã biết trồng lúa một năm hai vụ thay vì phát rẫy,trỉa hạt như trước đây. Nghề thứ hai được phát triển đó chính là là nghề nuôi cá. Người dân đào ao thả cá, đi vào chăn nuôi với năng suất hai tấn rưỡi trên một héc-ta. Người dân Vĩnh Sơn không còn lo thiếu lương thực lúa gạo và xã đã có thể cung cấp cho thị trường cá với một số lượng đáng khích lệ.
Việc phát triển kinh tế đem lại cho người dân Vĩnh Sơn đời sống no đủ, thoải mái hơn: cứ mười hộ dân thì có chín hộ sử dụng điện, tám hộ có phương tiện nghe nhìn, ba hộ có xe gắn máy. Năm học 2000 – 2001, số học sinh đến trường tăng gấp rưỡi so với năm học trước.
Sự đổi mới của Vĩnh Sơn góp phần chung vào thành quả phát triển kinh tế và đời sống nhân dân nước ta.
4. Hãy kể về đổi mới ởxóm làng hoặc phố phường của em.
(Mẫu:Phát triển phong trào trồng cây gây rừng, phát triển chăn nuôi, phát triển nghề phụ,giữ gìn xóm làng hay phố phường sạch đẹp…)
Phân tích đề:
– Mệnh lệnh đề: Kể(văn kể chuyện).
– Nội dung kể: Sự đổi mới ở làng (hoặc phố phường của em).
– Giới hạn đề: Chọn một trong các nội dung mà đề bài gợi ý.
o CÁC BÀI VĂN MẪU
A. PHONG TỤC – LỄ HỘI – TRÒ CHƠI
Đề 1: Em hãy giới thiệu một lễ hội ở quê em.
BÀI LÀM 1
(Lễhội trái cây – Thành phốHồ Chí Minh)
Trái câycủa miền Nam đa dạng, phong phú,nhiều chủng loại, đó chính là mặt mạnh của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Hằng năm,lễ hội trái cây được tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh để tưởng nhớ tổ tiên, bái tạ trời đất và biểu dương thành quảkinh tế miệt vườn của bà con nông dân.
Lễ hội trái cây thường được tổ chức vào giữa hè: mùa quả chín, tại trung tâm quận 1. Ban tổ chức chuẩn bị cho khu vực lễ hội từ nhiều ngày trước: người ta treo cờ,đèn màu trang trí ởđoạn đường tổchức lễ hội rất đẹp. Đèn màu li ti nhiều tầng phối hợp nom xa như một bức tranh lung linh kì ảo,rực rỡ, nghệ thuật, ởquảng trường rộng, cổng chào được dựng rất lớn căng băng rôn, dán biểu ngữ “Kính chào quý khách”. Bên trong công chào, các gian hàng trái cây của từng tỉnh, từng vườn khu vực miền Tây Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long nối dài hai bên đến tận lễ đài. Lễ đài rất rộng, lộng lẫy cờ xí, hoa và các sản phẩm thủ công mỹ nghệ kết thành hình hai con rồng uốn khúc chầu hai bên. Từ chín giờ sáng, lễ hội khai mạc. Sau phần nghi thức là phần giới thiệu hội chợ triển lãm trái cây. Lễ hội chưa có gì sôi động nhưng đã có các khu vực trái cây đầy màu sắc: cam quả chín mọng, màu vàng, màu xanh, đủcác giống cam. Quýt cũng thế. Rồi sầu riêng, măng cụt, xoài, ổi, mãng cầu, chôm chôm… không biết cơ man nào là trái cây được bày biện ở các gian hàng. Thanh long hồng thắm đẹp quý phái cạnh những quả mãng cầu xanh mở mắt dáng dấp giản dị. Sầu riêng màu vàng cỏ, có gai nhọn, thơm nức bên cạnh những quảchôm chôm đầy lông đỏ, tua tua rất ngộ nghĩnh. Bưởi tròn trĩnh, bóng láng, trái xanh mướt, trái vàng mơ cũng xoay cao thành tầng, biểu dương lực lượng.
Cùng với màu sắc, hương thơm các thứ quả chín thoảng bay trong gió làm người đi xem lễhội cứ tường mình lạc vào xứ sở hoa trái thần tiên nào. Nắng hè rực rỡ được làm dịu mát đi bằng vô số dù và các khóm hoa lá trang trí mượt mà, nghệ thuật. Chương trình chuyển sang phần biểu diễn văn nghệ. Các sự tích trái cây được kể lại bởi một ông chủ vườn hoạt bát,khôi hài hay như một diễn viên lành nghề. Tiếp đó là phần dự thi mâm quả đẹp và ngon. Mỗi một địa phương sẽ trổ tài bày biện, đơm quả của địa phương mình sao cho đẹp, đầy tính dân gian và nghệ thuật. Các mâm quả sẽ được đưa lên lễ
đài và lần lượt được chấm điểm. Trời lúc này về chiều và đèn màu bật sáng. Người đi hội ngày một đông. Quang cảnh lễ hội lúc nàygtấp nập hẳn lên. Quả đẹp, trái thơm, đèn màu, hoa muôn sắc tạo nên cảnh trí nhộn nhịp, tưng bừng. Trái cây làm người ta thích, người ta có cảm giác no đủ và hạnh phúc. Mọi người tranh nhau mua trái cây ở các gian hàng. Giọng thuyết minh, giới thiệu của người dẫn chương trình làm lễ hội càng thêm sôi động. Các tiết mục văn nghệ được biểu diễn đến lúc bế mạc. Ban tổchức chức công bố giải “ Mâm quả đẹp”, người đi dự hội ra về trong cảm giác thoải mái, được ngắm nhìn các thứ quả ngon, thích mắt.
Lễhội trái cây đã trở thành truyền thống của nông dân miệt vườn. Một năm bón cây chăm quả, người nông dân triển lãm thành tích của mình trong ngày lễ hội. Lặng lẽ trong một năm dài, lặn lội vượt bao chuyến đò băng sông, họ đem về cho lễ hội,cho đời bao quả ngọt, thơm lành. Em rất thích xem lễ hội trái cây và chân thành biết ơn các bác nông dân đã trồng những quả ngon, bổdưỡng này.
BÀI LÀM 2
(Hội làng quê em)
Quê em là một xã vùng biển. Đó là xã Ninh Hà, huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Hội làng quêem thường được tổchức vào tháng ba âm lịch hàng năm.
Mờ sáng, đình làng đã đông nghịt người. Hầu hết là các chức sắc trong làng xã và các vị bô lão khăn đóng, áo thụng màu xanh dương trang trọng chuẩn bị tế lễ. Sân đình treo cờ đuôi nheo đầy màu sắc. Cổng chào trang trí hoa,treo băng rôn đỏthắm với hàng chữ màu vàng: “Kính chào quý khách”. Cửa chính ngôi đình mở rộng, cờ phướn rực rỡ, đèn màu thắp sáng. Bàn thờ tế lễ trời đất và thần làng trang nghiêm, được bày biện đầy đủvới hoa quả, phẩm vật. Cái đỉnh đồng giữa đình nghi ngút trầm hương. Sau một hồi trống, các chức sắc và các vị bô lão xếp hàng ngay ngắn giữa sân đình. Một đội thanh niên mặc áo thụng dài bê mâm ngũ quả trịnh trọng tiến vào sân đình, trước bàn thờ, vị chủ tế đọc lịch sử hình thành làng, đọc bài văn tế lễ rồi tất cả đồng bái lạy theo nhịp trống. Sân đình lúc này càng lúc càng đông. Sau phần tế lễ ở ngôi đình, chủ tế và các vị quan khách, chức sắc tiến hành dâng lễ ở ngôi miếu nhỏ thờ cá Ông, vị thần trợ giúp cho dân chài ở làng biển. Sau phần nghi thức này, một hồi trống dài báo hiệu trò chơi kéo co bắt đầu. Hai đội thanh niên trong xã chia thành hai bên. vịn chắc sợi thừng và rạp người kéo theo hiệu lệnh trống. Người xem reo hò cổ vũ, không khí náo nức tưng bừng. Trong bếp đình, thức ăn và hoa quả được phân phát cho dân làng và trẻ con. Giữa sân đình, các đội sản xuất trình diễn văn nghệ thật rôm rả, ấn tượng. Khán giả hoan hô vồ tay khích lệ các diễn viên không chuyên tạo nên những tràng cười rộn rã như pháo nổ. Đến quá trưa, hội làng kết thúc.
Trên đường làng, bà con về nhà lòng vui như tết. Có chị, có anh diễn văn nghệ, mặt còn lòe loẹt phấn son đang cười đùa đuổi nhau trên đường về. Tình làng, nghĩa xóm ấm nồng thêm lên, vui hơn trong ngày hội.
Hội đình làng quê em là ngày truyền thống tưởng nhớ tổ tiên, mọi người đều cảm thấy tình làng nghĩa xóm thêm khăng khít. Ngày hội cũng là ngày nhân dân ca hát, sinh hoạt văn nghệ sau bao ngày đi biển mệt nhọc. Em rất yêu quê emvà yêu ngày hội làng trang trọng mà thân thương này.
Đề 2: Hãy kể về một trò chơi đưọc tổ chức ở hội làng quê em(trò chơi dân gian).
BÀI LÀM 1
(Trò chơi kéo co)
Mỗi độ xuân về, mồng mười tháng Giêng là ngày xã Diên Điền, huyện Diên Khánh của em tổ chức hội làng. Hội làng bao giờ cũng có nhiều trò chơi. Trò chơi được nhiều người cổ vũ, đến xem đông nhất là trò chơi kéo co.
Ngay giữa sân đình, ở bãi đất rộng là sân chơi kéo co. Người ta rải vôi trắng làm vạch phân chia. Đội chơi là thanh niên trai tráng của mỗi làng. Thường một đội chơi từ tám đến mười người. Mỗi đội đều mặc đồng phục của đội mình. Họ mặc gọn gàng, khỏe, đẹp: quần soóc và áo thể thao. Hai đội chia đều hai bên ngay vạch phân ranh. Họ cùng nắm chắc một sợi thừng. Trọng tài đứng giữa vạch phân, bên cạnh hai đội. Sau tiếng còi, hiệu lệnh trống đổdài,mỗi đội gò lưng hết sức kéo sợi dây về phía đội mình. Chân các đấu thủ bám đất nhưng nếu chỉ hơi yếu sức một tí thì sẽ bị đội địch kéo trượt trên cỏ ngay. Tiếng trống thúc đổ từng hồi xen lẫn những tràng “cắc… cắc” khô đanh như thúc giục, hồi hộp. Có lúc một trong hai đội tưởng chừng như trượt dài về phía trước, bị địch thủ lôi qua nhưng rồi gắng sức bám lại được. Bà con hồi hộp cổ vũ: “Cố lên, cố lên”. Trống đổ từng hồi tạo không khí sôi động giằng co rất hồi hộp, náo nức. Trận đấu diễn ra trong vòng hai keo. Nếu keo đầu đã thắng mà keo sau thua thì hai đội hòa. Đội thắng là đội đều thắng cả hai keo, các thí sinh được nghỉgiải lao mười lăm phút và mỗi đội đều có quyền thay vận động viên nhưng không được tăng số lượng đã quy định ban đầu. Có đội ban đầu thua nên cho thay người khỏe hơn, vì thế mà hòa được ở keo sau. Dù thắng, thua hay hòa thì trò chơi cũng đều vui, tiếng hò reo, cổ vũ dậy trời.
Kéo co là trò chơi dân gian rèn luyện cơ bắp khỏe và sự phối hợp đồng sức nhịp nhàng rất vui. Hội làng năm nào em cũng thích xem kéo co và hò reo cổvũ đến khản cả giọng. Thế mà vui lắm đấy! Đi đâu xa, em nhớ quê là nhớ đến hội làng và trò chơi kéo co.
BÀI LÀM 2
(Trò chơi ném còn)
Cứ đến Tết Nguyên đán, phường mười một quận Gò vấp của em lại tổchức Hội Xuân và thi ném còn.
Sân chơi là bãi sân rộng của nhà văn hoá quận, giữa bãi cỏ rộng, người ta trồng một cái trụ cao độ hai mét. Đầu trụ gắn một khung tròn, đường kính chừng một gang tay em. Người tham dự trò chơi đứng ngay vạch kẻsẵn cách trụ chừng khoảng bốn mét, ném trái còn bằng nắm tay lọt vào khung còn ấy theo lệnh còi của trọng tài. Nếu còn lọt vào là thắng, ném trật thì không ghi được điểm nào. Vì khung tròn rất bé, cách cả đến bốn mét nên trái còn rất khó lọt vào khung. Ấy vậy mà có rất nhiều người ném chính xác. Người tham gia trò chơi không bắt buộc phải là người của ban tổ chức đề cử. Sau khi đội thi của tổ dân phố trong phường thi xong, khách vui xuân có thể ghi tên để được tham dự trò chơi. Được hay thua khi tham gia trò chơi là biết kết quả ngay, nếu người chơi thắng, ban tổ chức ghi điểm và tặng quà ngay cho người chơi. Vì thế, người vui xuân thường đổ về sân chơi ném còn đề thử tài “mắt tinh, tay khéo” của mình. Do vậy. sân ném còn lúc nào cũng đông, cũng vui, cũng có khán giả xung quanh vỗ tay khích lệ. Mồng ba Tết năm nào em cũng chơi ném còn do phường tổ chức.
Trò chơi dân gian dân gian ném còn là một trò chơi “thua nhiều hơn thắng”, vì vậy, người thắng được ban tổ chức hoan hô tưng bừng. Nhận quà thưởng của trò chơi ném còn thật đáng để tự hào! Năm nào em cũng đi chơi ném còn tuy chưa được lãnh giải lần nào. Tuy vậy, em cũng rèn luyện được sự khéo léo cho mình và nhất là được giải trí. được vui xuân thoải mái.
Đề 3: Địa phương nơi em đang sinh sống hay ởquê em có phong tục gì nổi bật, thú vị, em hãy kể về phong tục ấy.
BÀI LÀM
(Tục lệ “Múa đèn ” ở Tháp Bà Ponaga, Nha Trang. Khánh Hòa)
Tháp Bà Ponaga – Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa là một thắng cảnh nổi tiếng trong nước. Tục lệ”Múa đèn “là nghi thức không thểthiếu trong nhữngkì dâng hương tế lễtưởng niệm vị nữ thần Ponaga. Phong tục nàybắt nguồn từ dân tộc Chăm nhưng dần đã thành phong tục của người Kinh tại xứ trầm hương quê em.
Lệ “Múa đèn”chỉ tiến hành vào những ngày lễ hội lớn của Tháp Bà Ponaga, thường là vào tháng ba và tháng mười âm lịch hàng năm. Ban tổ chức phải chuẩn bị từ nhiều ngày với một kế hoạch chặt chẽ vì nhân dân trong tỉnh và du khách khắp nơi đổ về Tháp Bà nhiều không kể xiết. Họ đến Tháp Bà dâng hương cúng lễ vị nữ thần Ponaga và thưởng thức lễ múa đèn.
Lễ hội được tổ chức rất hoành tráng, trang trọng và thành kính. Tháp Bà treo đèn kết hoa rực rỡ. Trên từng lối đi theo từng bậc thang lên tháp, đèn lồng treo nối dài rung rinh trước gió. Lễ múa đèn được tổ chức vào buổi tối, trước đền thờ chính. Đội múa đèn là những cô thanh nữ, trang điểm lộng lẫy. Các cô gái mặc đồ vũ công lấp lánh kim sa như dát vàng. Vũ điệu múa mỗi năm mỗi khác nhưng tất cả đều có điểm chung là các cô đội mâm lễ vật trên đầu, hai tay là hai đĩa đèn nến, có cô đội nguyên một mâm đèn nến lung linh. Nhạc đệm cho vũ điệu múa đèn là nhạc lễ truyền thống. Với thân hình thon thả, thanh thoát, những cô gái múa đèn uốn lượn, nhún nhảy theo điệu nhạc, di chuyển theo đội hình múa mà vẫn giữ được ánh nến không tắt bao giờ. Ngọn nến đứng thẳng, lung linh kì ảo. Du khách sẽ được cảm nhận được một nền văn hoá lâu đời sáng rỡ của dân tộc Chăm mà người Kinh tiếp nhận và phát triển. Một nghệ thuật múa điêu luyện, tinh xảo không kém gì vũ điệu ba-lê của phương Tây. Những mâm nến, đĩa nến, hợp thành tượng bà nghìn mắt, nghìn tay, thành đuôi công, đuôi phượng diễm tuyệt. Khán giả theo dõi chăm chú, người ta nín thở mỗi khi đĩa nến úp ngược theo cánh tay vũ công. Bạn đoán rằng đèn sẽ tắt ư? Không, đèn không tắt đâu nhé. Chỉ bằng một cái lắc người, một động tác múa nhanh, dứt khoát, vũ công sẽ đưa đĩa đòn trở lại vị trí đứng và nến bừng cháy. Du khách vồ tayhoan hô không ngớt. Lệ múa đèn đã trở thành nét văn hoá riêng của lễ hội Tháp Bà mà không nơi nào so sánh được. Sau lễ múa đèn, lễ hội dâng trầu cau, hoa quả, hương trầm tưởng nhớ nữ thần Ponaga. Nhân dân cầu xin nữ thần hỗ trợ cho mùa màng thóc lúa và đất nước bình yên. Người người đổ về Tháp Bà đông nườm nượp, trầm hương nghi ngút, không khí thật thiêng liêng.
Tục lệ múa đèn ở Tháp Bà được nhân dân Khánh Hòa gìn giữ và phát triển nâng đến mức nghệ thuật, được nhà nước Việt Nam quan tâm khích lệ, trở thành nét văn hoá độc đáo của dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế. Em rất tự hào về quê hương Khánh Hòa của em về lễ múa đèn ở Tháp Bà. Dù đã đi nhiều nơi nhưng có lẽ không ở đâu có lễ múa đèn đẹp và trang trọng như ở quê em.
B. SỰ ĐỔI MỚI VÀ PHONG TRÀO THỰC HIỆN LỐI SỐNG MỚI HIỆN NAY CỦA ĐỊA PHƯƠNG
Đề 1Hãy kể về sự đổi mới ở xóm làng hoặc phố phườngnơi em đang sống.
BÀI LÀM 1
(Giữ gìn phố phường sạch đẹp)
Cùng với làn sóng người dân từ các tinh đổ về thành phố tìm kiếm việc làm, thành phố gia tăng dân số nhanh chóng, các đường phố, ngõ hẻm củaphường em ngập ngụa trong rác bẩn, người người chen chúc ở trong xóm trọ. Đó là hình ảnh của phường hai năm trước đây. Giờ đây, nếu bạn có dịp ghé đến phường mười hai, quận Gò vấp, thành phố Hồ Chí Minh, bạn sẽ thấy một cảnh quan sạch đẹp, quang đãng và văn minh hơn nhiều.
Ủy ban Nhân dân và các tổ dân phố chủ động họp dân cảnh báo về tình trạng dơ bẩn, thiếu vệ sinh trong đời sống cộng đồng. Phong trào vệ sinh đường phố bắt đầu. Cứ hai tuần một lần, mồi hộ nhà dân cử một lao động cùng cả khu phố dọn dẹp vệ sinh dưới sự chỉ đạo của tố trưởng dân phố.
Đoàn thanh niên xung kích dọn sạch các đống rác ở những nền nhà trống, chỗ được xem là bãi rác hoang mà người ta đổ rác vô ý thức. Các tổ an ninh kiểm tra ngặt hộ khẩu, đăng kí tạm vắng, tạm trú và theo dõi chặt chẽ tình hình an ninh trong phường. Đường phố như được khoác một cái áo mới, gọn gàng, sạch đẹp và lịch sự hơn. Đại lộ Quang Trung, con đường chính chạy ngang phường, sạch như ngày Tết. Hàng hoá của các tiệm bụôn bày biện gọn gàng, không có hàng rong, hàng quán lấn chiếm lòng lề đường. Tệ nạn hút chích, cướp giật đã giảm đi nhanh chóng. Mọi người dân đều có ý thức trật tự văn minh hơn trước. Chi đoàn thanh niên phường hướng dẫn thanh niên trong phường sinh hoạt theo lịch hàng tuần. Các em vui chơi hè bổ ích hơn như mỗi tháng hè thiếu nhi trong phường được đi dã ngoại một lần. Cán bộ hưu trí sinh hoạt tại câu lạc bộ hưu trí của phường. Phường em đang thực sự có nếp sống tiến bộ hơn.
Sự thay đổi tốt hơn của phường em góp thêm thành tích cho việc xây dựng thành phố ngày càng giàu đẹp, văn minh, lịch sự. Em mong muốn phường em giữ vững được nếp sống mới tốt đẹp này đổ mọi người dân yên tâm sinh sống, làm việc.
BÀI LÀM 2
(Phong trào trồng cây gây rừng)
Xuân Sơn là xã vùng cao thuộc tỉnh Khánh Hòa. Nạn chặt phá rừng vô tổ chức trước kia làm các cánh rừng lớn trở thành đồi trọc. Mười năm trở lại đây, xã Xuân Sơn phối hợp cùng hạt kiểm lâm huyện, mở rộng chiến dịch trồng rừng, phủ xanh các vùng đồi trọc.
Từ Thành phố Nha Trang theo Quốc lộ 1A, rẽ vào hương lộ hướng Tây Bắc, chúng ta sẽ gặp xã Xuân Sơn. Cảnh quan đầu tiên đập vào mắt mọi người là các cánh rừng keo mới được trồng trên các sườn núi gần quốc lộ. Từ thuở xa xưa, nguyên các cánh rừng ấy là rừng đại ngàn, cây cối cao to. Những năm 1978, 1979, người dân phá rừng khai hoang làm nương rẫy và những người khai thác gỗ trái phép đã biến các cánh rừng đó trở nên xơ xác, trơ sườn núi đá. Rừng khô thì suối cạn, hạn hán xảy ra, lũ rừng xảy ra liên miên đe dọa đời sống của cư dân hai bên sườn núi Xuân Sơn. Ủy ban xãXuân Sơn đã phát động nhân dân trồng cây gây rừng. Hạt kiểm lâm cung cấp cây giống, người dân được trợ cấp tiền, lương thực để trồng cây gây rừng, tái tạo lại màu xanh cho các vùng đồi trọc. Núi non bạt ngàn, rộng bát ngát mà phải trồng lại từng gốc cây khiến nhiều người dân ngần ngại. Đội lâm sản của xã di tích phong trồng trước mười hecta rừng làm thí điểm. Thấy có kết quả tốt, bà con ồ ạt đăng kí làm theo. Trong mười năm qua, xã Xuân Sơn trồng phủ kín gần hết diện tích đồi trọc, đem lại một khoản thu nhập khá ổn định cho người dân khi bán các đám rừng trồng đến mùa thu gỗ. Rừng mới trồng làm giảm đáng kể nạn phát rẫy bừa bãi.
Hôm nay, về đến xã Xuân Sơn, người ta bắt gặp nhiều hộ giàu lên nhờ trồng rừng, trồng các loại cây lấy gỗ. Xuân Sơn đang thay da đổi thịt từng ngày.
Cùng với việc gìn giữ môi trường, trồng rừng là một kế hoạch rất quan trọng. Ở trường, em tham gia rất tích cực vào các phong trào cổ động cho việc giữ gìn môi trường xanh của Trái Đất. Em sẽ cố gắng trở thành chiến sĩ xuất sắc trong việc tuyên truyền chủ trương trồng cây gây rừng của Đảng và Nhà nước.
BÀI LÀM 3
(Phát triển nghề phụ: tiểu thủ công mỹ nghệ xuất khẩu)
Bây giờ, mời mọi người hãy ghé thăm Ninh Hòa quê em, cái nôi của ngành sản xuất đồ mỹ nghệ làm từ lá băng buông, dây chuối, tre nứa. Trong mười lăm năm nay, ngành thủ công mỹ nghệ quê em thực sự chuyển mình, phát triển rất mạnh trong đời sống nhân dân.
Khởi nguồn từ một hợp tác xã nhỏ, hợp tác xã Mỹ Nghệ Ninh Hòa đã làm được chuyện lớn. Nắm vững nguồn nguyên liệu từ cây lá rừng: lát băng buông, tre nứa, tàu lá chuối, bẹ chuối, hợp tác xã Mỹ Nghệ cử xã viên đến các cơ xưởng lớn trong và ngoài nước để nghiên cứu việc sản xuất đồ tiểu thủ công từ các nguyên liệu nói trên. Thế là: nón lát, giỏ lát, làn hoa, đệm…., làm từ các nguyên liệu lá ra đời và ngày càng được phát triển một cách tinh xảo, nghệ thuật. Bạn có biết một bộ ghế sô-pha được thắt từ bẹ chuối phơi khô có giá trị bao nhiêu không? Sô-pha làm bằng bẹ chuối đánh bóng trị giá từ sáu mươi đến hai trăm triệu đồng tiền Việt Nam, một con số không thể ngờ phải không? Không chỉ dừng ở đó, sô-pha mỹ nghệ độc đáo này còn xâm nhập vào thị trường châu Âu, đem lại lợi nhuận không nhỏ cho hợp tác xã và nâng cao đời sống của xã viên. Tất cả sản phẩm của hợp tác xã đều làm bằng tay và vô cùng sắc sảo. Ngày nay, nếu ai đó ghé đến thăm hợp tác xã, sẽ được chứng kiến cảnh tượng làm việc tích cực của các xã viên. Trong xưởng dài, hàng trăm xã viên im lặng làm việc, Họ im lặng làm việc nhưng cảnh tượng ở đây lại rất sôi động: xe bốc chở nguyên liệu đến và sản phẩm mang đi luân chuyển hằng ngày. Ngoài xã viên chính thức làm tại xương, người ta còn cóthể thấy người dân còn nhận dây lát, dây chuối, tre nứa đã được qua khâu xử lý nguyên liệu, cần mẫn ngồi đan nón, đan giỏ, thắt ghế… đó là hình ảnh thường thấy ở Ninh Hòa quê em. Có khá nhiều gia đình xã viên giàu lên nhờ sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ. Mọi người trong huyện đều đăng kí nhận nguyên liệu của hợp tác xã và gia công tại nhà ngoài nghề nghiệp chính của gia đình họ. Hợp tác xã đã đem lại cho người dân quê em một việc làm phụ ổn định, có thu nhập tốt, nâng cao đời sống hằng ngày.
Ngoài việc thêm thu nhập, nhờ nghề tiểu thủ công nghiệp mỹ nghệ, nghề phụ này là một môn học rèn luyện sự khéo léo, tính kiên trì sáng tạo của con người. Nó giáo dục cho người dân tính thẩm mỹ, yêu cái đẹp, yêu lao động và yêu cuộc sống. Em rất thích ngắm nhìn đôi bàn tay của người dân quê em khi họ đan nón, thắt giỏ. Em tự hào quê em là một trong những nơi nổi tiếng sản xuất hàng mỹ nghệ.
PhầnII
VĂN VIẾT THƯ
NỘI DUNG THỰC HIỆN MỘT BỨC THƯ
Một bức thư thường có ba phần:
I. Phần đầu thư:
a) Địa điểm và thời gian viết thư.
(M: Hà Nội. ngày….tháng…năm…)
b) Lời thưa gửi:
(M: Ông bà kính thương)
II. Phần nội dung chính:
– Nêu mục đích, lý do viết thư.
– Thăm hỏi tình hình của người nhận thư.
– Thông báo tình hình của người viết thư.
– Nêu ý kiến cần trao đổi (thăm hỏi, chúc mừng, chia buồn hoặc công việc cần liên hệ).
– Tình cảm của người viết thư.
III. Phần cuối thư:
– Lời chúc, lời cảm ơn, hứa hẹn, lời chào.
– Chữ kí, tên hoặc họ và tên của người viết thư.
CÁC DẠNG TẬP LÀM VĂN VIẾT THƯ CỦA LỚP 4
Văn viết thư ở lớp 4 chỉ có một dạng viết thư cơ bản là thư thăm hỏi. Nội dung thăm hỏi gồm: chúc mừng, chia buồn, thăm hỏi tình hình.
YÊU CẦU VÀ CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH
MỘT BÀI TẬP LÀM VĂN VIẾT THƯ
I. Mục tiêu:
– Học sinh trình bày đúng hình thức các phần của một lá thư (gồm 3 phần).
– Viết các câu văn thăm hỏi gãy gọn, mạch lạc, bám sát yêu cầu của đề bài (Thăm hỏi điều gì? Chia buồn việc gì? Chúc mừng nhân dịp gì?).
– Lời thư bày tỏ được tình cảm chân thật của người viết. Các nội dung cần thông báo hoặc trao đổi phải được viết rành mạch, lễ phép, lịch sự.
– Kết thúc thư tự nhiên, viết câu chuyển ý ngắn gọn, lời chúc chân thành, thể hiện lối giao tiếp văn minh và tiến bộ.
II. Các bước tiến hành:
1) Phân tích đề văn:
– Mệnh lệnh đề: viết thư.
– Nội dung: Xác định nội dung yêu cầu của lá thư:
+ Thăm hỏi việc gì?
+ Chia buồn diều gì?
+ Chúc mừng nhân dịp gì?
– Xác định giới hạn đề văn.
2) Dàn ý văn viết thư Viết thư:
Dàn ý văn viết thư chính là các phần của lá thư. Các em cần ghi vào nháp những ý chính của từng nội dung mỗi phần của thư và vận dụng từ ngữ, câu để diễn đạt nội dung đó. Cần viết câu gãy gọn, ngắt câu đúng. Bài viết của các em nếu thiếu một trong ba phần của lá thư thì không phải là văn viết thư
CÁC BÀI VĂN MẪU
Đề 1Nhân dịp năm mói, hãy viết thư cho một người thân (ông bà, cô giáo cũ, bạn cũ…) để thăm hỏi và chúc mừng năm mới.
• Chú ý:
– Thư viết vào dịp năm mới nên thời gian gần Tết Nguyên đán, vào độ đầu tháng 2 Dương lịch.
– Nội dung tình hình trong gia đình phù hợp với thời gian gần Tết, thời tiết giáp Tết (VD: đã thi xong học kì I, mẹ làm mứt Tết, gió se lạnh…).
BÀI LÀM 1
(Thư gửi ông bà)
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 01 tháng 02 năm 2012,
Ông bà kính yêu!
Năm cũ sắp hết, mùa xuân đang về ông bà ạ. Tết này nhà cháu không về quê đón Tết cùng ông bà được nên cháu viết thư này thăm hỏi và chúc Tết ông bà.
Mùa đông năm nay ông bà có khỏe không? Ông bà có ăn được nhiều cơm không? Khi trời trở gió bấc nhiều. Bà nhớ đi tất cho chân đỡ nứt nẻ nhé! Cả ông cũng thế, ông cũng nhớ phải quàng thêm khăn cổ cho ấm để đỡ ho đấy ông ạ. Con Bê-tô bố cháu đem về quê dạo hè nay lớn nhiều chưa hả ông bà? Nó đã biết trông nhà chưa ạ? Ông bà nhớ nhắc em Phong tắm cho nó để kẻobẩn mà rụng hết lông đấy ông bà ạ. Bê-tô có giúp chú Hưng được việc gì không hả ông bà? Cháu lo nó không biết làm gì thì khổ chú chăm nó mệt lắm đấy ạ. Cháu nghe bố cháu kể Bê-tô khôn lắm, chú Hưng dạy cho nó biết nhiều việc. Tiếc quá, Tết này cháu nghỉ có ít ngày nên về quê không tiện, bố mẹ cháu bảo để hè về được nhiều ngày hơn. Cháu nhớ ông bà, các cô chú và em Phong, cá con Bê-tô nữa.
Cả nhà cháu đều bình thường. Cháu và em Ngân đều được xếp loại học sinh giỏi học kì I. Mẹ cháu đang bận gói quà gửi về biếu Tết ông bà đấy ạ! Cháu xin thay mặt cả nhà kính chúc ông bà một năm mới được nhiều sức khỏe, bình an và luôn luôn vui tươi, sảng khoái. Cháu kính chúc chú thím Hưng và các em một năm mới mạnh khỏe, làm ăn phát đạt, các em đều giỏi giang và nhiều niềm vui. Khi nào ông bà nhận được thư này và quà Tết mẹ cháu gửi biếu, ông bà nhớ điện thoại cho cháu ông bà nhé!
Cháu xin phép dừng bút. Cháu thơm ông bà thật kêu!
Cháu của ông bà
Nguyễn Nhã Nghiêm
BÀI LÀM 2
(Thư gửi cô giáo cũ)
Nha Trang, ngày 01 tháng 02 năm 2012
Cô kính thương!
Thấm thoắt, em chuyển về trường mới đã một học kì rồi. Em đã thi học kì I xong, mùa xuân đang về trên khắp nẻo đường đất nước. Thành phố biển quê em cũng rộn ràng chuẩn bị đón năm mới. Xuân về, em càng nhớ cô. Em viết thư này kính thăm cô và chúc Tết cô ạ.
Cô ơi. Sài Gòn chắc Tết đến rộn rịp lắm phải không ạ? Năm nay trường có tổ chức trại xuân không hả cô? Cô và gia đình có được khỏe không ạ? Em bé của cô đã biết đi chưa ạ? Đến lúc này, em bé chắc đã hơn một tuổi rồi, phải không cô? Chà, thích thật. Giá mà em còn học ở trong ấy, em tha hồ được nựng em bé. Cô đã theo lớp em lên lớp bốn, các bạn được học cô thật hạnh phúc. Em chuyển về quê được học ở trường sát bên nhà cũng tiện. Cô giáo mới năm nay của chúng em lớn tuổi hơn cô. Cô giáo mới tuy nghiêm khắc nhưng cũng hiền như cô đấy ạ. Trại xuân năm nay, lớp mình có được nhiều giải thưởng không ạ? Em nhớ trường cũ, nhớ cô và các bạn. Lớp mới của em cũng là lớp xuất sắc trong khối lớp bốn đấy ạ. Vì ở quê năm nay mưa bão nhiều nên hội trại xuân được dời sang hội trại ngày 26/03. Học kì I vừa rồi, các môn thi của em đều đạt điểm mười đấy cô ạ.
Chỉ còn hơn mười ngày nữa là Tết Nguyên đán rồi, em kính chúc cô cùng gia đình một năm mới an khang, thịnh vượng, nhiều sức khỏe và may mắn. Em cũng chúc em bé của cô ngày càng ngoan, giỏi. Nhờ cô chuyển lời emthăm hỏi các bạn lớp mình và chúc các bạn ấy học thật giỏi. Em xin phép dừng bút. Em kính chào cô ạ!
Học trò cũ của cô
Trần Thị Thiên Tường
BÀI LÀM 3
(Thư gửi bạn cũ)
Phú Thọ, ngày 1 tháng 2 năm 2012,
Hoàng Lân thân mến!
Chào cậu, người thành phố. Mình chào cậu như thế vì mình viết thư cho cậu từ vùng quê hương trung du của mình, khi xuân tràn về trên tất cả các chồi non đang nảy lộc, trên cành đào, cây mận trước nhà. Mình nhớ người bạn của mình và viết thư chúc Tết cậu đấy.
Thành phố gió cát của cậu chắc là mai vàng đã nở khắp vườn hoa công viên rồi chứ? Cậu và hai bác ở trong ấy có khỏe không? Năm nay cậu đón Tết ở trong ấy hay về quê đón Tết với ông bà? Trường của cậu có cắm trại xuân không? À, để mình nói qua về việc tại sao mình về quê hương trung du vì mình biết thế nào cậu cũng thắc mắc. Hà Nội là quê ngoại mình, Phú Thọ là quê nội mình. Bố mình vì yêu quê mà chuyển về sống ở quê chứ chẳng có lí do gì đặc biệt cả. Bố mình lại thích chăn nuôi bò sữa. Khi nào cậu về Hà Nội thăm ông bà của cậu, đi theo ông cậu lên quê mình chơi đi, cậu sẽ được thấy “nông trang bò sữa” của bố mình. Ông cậu, thỉnh thoảng vẫn lên đây đánh cờ tướng với ông mình đấy. Phú Thọ là quê hương rừng cọ, rất nhiều cây cọ nhưng phải đi xa một tí, ra khỏi thị xã cơ. Cậu nhớ bài tập đọc hồi lớp một của tụi mình không?
“Hương rừng thơm đồi vắng
Nước suối trong thầm thì
Cọ xòe ô che nắng
Râm mát đường em đi”
Quê nội mình đấy! Nhưng mà… mình ở ngoại ô thị xã, cũng chưa có cọ đâu, phải lên xa một tí!
Một tuần nữa là Tết rồi đấy, Hoàng Lân ạ. Hoa đào đã có cành nở nhiều và trời ấm hơn một tí. Trung du lạnh hơn Hà Nội và lạnh hơn thành phố Phan Rang của cậu nhiều lắm! Cô tiên Mùa Xuân đã cười khanh khách trong nắng nhạt, trong gió sớm rồi, mình chúc cậu và gia đình một năm mới thật nhiều điều may mắn, hạnh phúc, dồi dào sức khỏe, thật thịnh vượng. Riêng cậu kì thi nào cũng nhận được giải thưởng xuất sắc nhé!
Mình dừng bút nhé. Chào thân ái!
Bạn thân
Ngô Đình Lân
Đề 2Viết thư gửi một bạn ở trường khác để thăm hỏi và kể cho bạn nghe tình hình lớp và trường em hiện nay.
BÀI LÀM
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 5 tháng 10 năm 2012
Bạn Nguyệt Nhi thân mến!
Nhận được thư này của mình bạn có ngạc nhiên không? Bọn mình nhà chỉ ở cách nhau một khu phố, thế mà muốn kể chuyện gì đều phải viết thư, vì cứ nhập học là bọn mình có được gặp nhau đâu. Hôm nay, mình muốn kể cho bạn nghe về tình hình lớp mình và trường mình.
Năm nay lớp mình có nhiều thay đổi lắm Nhi ơi: có ba bạn phải về quê vì bố mẹ bạn ấy chuyển công tác. Chỉ vắng có ba bạn mà lớp mình buồn hẳn. Một thay đổi lớn nữa là chủ nhiệm lớp mình năm nay là thầy giáo, là thầy Dũng vẫn dạy Toán đội tuyển học sinh Tiểu học của quận mình đó. Được là học sinh của thầy giáo giỏi, lớp mình vui lắm. Thầy rất nghiêm khắc, các bạn hay đùa giỡn, lười học của lớp mình tiến bộ trông thấy. Giờ học thầy rất nghiêm nhưng giờ sinh hoạt ngoại khóa, thầy vui lắm. Thầy dạy chúng mình rất nhiều trò chơi. Lớp mình vừa kiểm tra chất lượng đầu năm học, chắc bên trường bạn cũng đã kiểm tra rồi chứ nhỉ? Bạn làm bài có tốt không? Trường mình đang phát động phong trào vở sạch chữ đẹp và làm kế hoạch nhỏ. Tuần nào lớp mình cũng có tiết học thêm luyện chữ đẹp. Thầy giáo của lớp mình viết chữ rất đẹp, Nhi ạ.
Lớp bạn ở bên ấy thế nào? Năm nay bạn vẫn làm lớp trưởng chứ? Trường bạn đã chuẩn bị Đại hội chi đội chưa? Thầy Toàn vẫn làm Tổng phụ trách trường bạn chứ? Bên trường bạn có gì vui, nhớ kể cho mình nghe nhé!
Mình dừng bút. Chúc bạn vui, khỏe, học giỏi, đạt nhiều thành tích tốt!
Chào thân ái
Bạn của Nhi Lê Thị Mai Anh
Đề 3Nhân dịp sinh nhật một người thân ở xa, em hãy viết thư thăm hỏi và chúc mừng người thân đó.
• Chú ý giới hạn đề bài:
Viết thư cho người thân (anh chị em họ, cô dì, chú bác, ông bà…).
BÀI LÀM
Huế, ngày… tháng… năm…
Dì Út yêu quý!
Vậy là dì đi học xa nhà đã hơn hai tháng rồi, cháu nhớ dì ghê, dì có khỏe không? Dì ăn cơm có no không? Dì học tập có căng thẳng lắm không? Bài vở có nhiều không hả dì? Năm nay dì đi học xa nhà, sinh nhật dì sắp đến rồi mà dì không về nhà được, dì có buồn không? Dì có tổ chức sinh nhật cùng với bạn bè không? Mẹ cháu nói sẽ gửi quà cho dì và sẽ chuyển tiền cho dì để dì có thể tổ chức buổi sinh nhật nho nhỏ với bạn bè nhưng ông ngoại rầy mẹ cháu đó. Ông ngoại bảo: “Sinh viên xa nhà, để bé út học tập rèn luyện cho quen. Không tổ chức sinh nhật một năm có sao đâu”. Mẹ cháu sợ dì buồn. Riêng cháu, cháu viết thư này chúc mừng sinh nhật dì. Có tổ chức tiệc sinh nhật hay không thì dì vẫn cứ thêm một tuổi. Một tuổi thêm năm nay đánh dấu cột mốc rất oách của dì nữa đó: dì đã trở thành sinh viên ngành dì yêu thích – ngành Dược phải không dì? Dì đừng buồn vì ở xa nhà dì nhé! Cả nhà rất tự hào về dì đó. Ông ngoại cũng nhớ dì lắm, ông nghiêm thế thôi chứ ông bảo: “Để ba mua cho bé út một món quà, ba chắc chắn nó sẽ thích”. Ông ngoại chẳng nói quà gì cả, hồi hộp thật đó dì.
Cháu xin chúc mừng sinh nhật dì nha. Chúc dì vui, thật khỏe, học thật giỏi. Cháu chúc dì có nhiều bạn mới tốt và vui. Cháu đi học đây dì ạ. Chiều nay cháu học bồi dưỡng Toán. Cháu sẽ cố gắng học giỏi như dì. Cháu xin phép dừng bút nhé!
Cháu chào dì
Cháu của dì
Vũ Việt Vân
Đề 4 Nghe tin quê bạn bị bão, hãy viết thư thăm hỏi và động viên bạn em.
BÀI LÀM
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày… tháng… năm…
Minh Ân thân mến,
Hay tin cơn bão số năm đổ vào quê bạn, mình vội viết thư thăm bạn ngay. Mình lo lắm, không biết tình hình bạn và gia đình ngoài ấy thế nào?
Ngày đầu của cơn bão, khi bão còn ở khơi xa, tin khí tượng cho biết Quảng Nam và Huế mưa như trút nước rồi. Mình chưa kịp liên lạc gì với bạn thì qua ngày hôm sau, bão đã thổi thẳng vào Tam Kì. Mình biết là thành phố của bạn thiệt hại nặng. Đường dây điện thoại nhiễu sóng không liên lạc được, chắc là lũ lụt không hề nhẹ chút nào. Ân ơi, bạn hãy cố gắng vượt qua nhé! Mảnh vườn nhà bạn chắc phải ngập lụt hết rồi. Nếu có phải di dời tránh nước lũ, mình cầu mong cho bạn và gia đình được an toàn. Nhân dân thành phố vàhọc sinh các trường học đang khẩn trương quyên góp tiền, quần áo và lương thực để cứu trợ miền Trung. Đài cũng đưa tin các chú bộ đội đã hỗ trợ nhân dân miền Trung rất tích cực. Vì thế Ân đừng lo lắng nhiều nhé! Khu vực nhà Ân ở gần thành phố, chắc cũng đỡ hơn những vùng quê khác nhỉ. Đã có những chuyến xe cứu trợ khởi hành về miền Trung từ ngày hôm qua, đồng bào thành phố đang chia ngọt sẻ bùi, tương thân tương ái với quê Ân, Ân đừng buồn nhé. Nếu Ân có gì cần, viết thư ngay cho mình, mình sẽ gửi ra cho Ân ngay, Ân nhé. Ân đừng ngại gì, nhớ đấy.
Mình dừng bút đây. Chúc Ân và gia đình bình an và vui vẻ!
Chào thân ái
Bạn của Ân
Hồ Bích Ngọc
Đề 5Nghe tin gia đình một người thân ở xa có chuyện buồn(có người đau ốm, người mới mất hoặc gặp tai nạn.)em hãy viết thư thăm hỏi và động viên người thân đó.
Giới hạn đề bài:
Viết thư cho người thân (anh chị em họ, cô cậu, dì dượng, chú thím…).
BÀI LÀM 1
Biên Hòa, ngày… tháng… năm…
Anh Quang thương mến!
Em vô cùng bàng hoàng đau xót khi hay tin bố anh đã mất. Em chỉ là cháu họ xa mà thấy lòng quặn đau, em hiểu anh đau buồn thế nào. Bác Quân, bố anh hiền lành, trong họ ai ai cũng mến. Anh Quang ơi, mất mát này anh em mình cũng chỉ biết chia sẻ cùng nhau nỗi buồn chứ biết làm sao. Bác Quân cũng đã làm xong nhiệm vụ với dân với xóm. Bác về hưu mà vẫn cùng xóm làng chung tay xây dựng quê mình. Giờ bác đã đến nơi an nghỉ của bác, anh em mình cũng nên tự hào có một người bác, người bố tận tụy với công việc, nhân đức với mọi người. Em không thể theo mẹ em về quê tham dự lễ tang của bố anh. Em xin gửi về anh sự chia sẻ chân thành và sâu sắc. Anh còn có chúng em, còn có những bà con bên cạnh, anh nhé! Mẹ anh chắc đau buồn lắm, anh cố gắng an ủi bác gái nghen. Bây giờ, anh là chỗ nương tựa của mẹ anh đó nên anh đừng đau buồn quá khiến mẹ anh sẽ lâu nguôi ngoai, cổ lên anh nhé, em xin phép dừng bút. Mong anh và gia đình vượt qua nỗi đau này. Em cầu nguyện hương linh bác Quân được an nghỉ bình yên, an nhiên siêu thoát, về nơi thiên đường.
Em họ của anh
Ngô Bách Tùng
BÀI LÀM 2
Đà Nẵng, ngày… tháng… năm…
Bé Tuân thương,
Chị vừa hay tin em bị gãy chân phải bó bột. Chắc là em của chị đau lắm. Em gắng chịu đựng, bố chị bảo chỉ đau nhiều mấy ngày đầu thôi, về sau đỡ hơn, chỉ hơi khó chịu vì bó bột lâu, cử động hơi khó còn thì chỗ bó bột hơi ngứa một tí thôi. Rồi đúng ngày tháo băng, bác sĩ sẽ cắt băng bột, lúc ấy chân lành, em phải tập đi cho cẩn thận nhé. Chị đang tuần kiểm tra giữa kì chưa về thăm em được, cuối tuần, chị sẽ theo mẹ về thăm em. Chú thím lo cho em dữ lắm đó nên em cố gắng chịu đựng nghen. May mà tuổi tụi mình còn nhỏ nên cũng dễ liền xương hơn. Mai mốt, em phải cẩn thận hơn đấy, đi qua đường phải xem trước xem sau cho kĩ càng. Cuối tuần chị sẽ mang cho em mấy quyển truyện xem cho đỡ buồn. Nằm một chỗ buồn hiu à, phải không? Nếu mẹ chị có về quê hằng tuần thì chị sẽ học bài kĩ ngày thử bảy để có thể về chơi với em vào chủ nhật, nghen. Coi vậy chứ ba tuần cũng qua nhanh lắm, em đừng có nản, sinh cáu gắt mà chú thím buồn đó. Bây giờ em chơi với Bê-tô đi, nó không biết nói tiếng người nhưng cũng thông minh và thương chủ lắm đó. Từ hôm em bị đau, nó có ở bên giường em không? Hồi nó ở với chị trên này, mỗi lần chị ốm là nó ở bên cạnh đó.
Chị dừng bút nhé! Em cố gắng ăn nhiều và uống giỏi thuốc cho chân mau liền xương nhé! Cuối tuần chị về thăm em. Chúc em mau bình phục.
Chị của em
Nguyễn Thị Đinh Lăng
Phần III
VĂN HỘI THOẠI
A. Mục tiêu:
– Các em tập làm quen với văn nói, diễn đạt suy nghĩ, ý muốn của mình một cách mạch lạc, thuyết phục.
– Các em biết vận dụng từ ngữ viết sang ngôn ngữ nói một cách diễn cảm bằng ngữ giọng và diệu bộ.
– Khi trình bày bài làm viết, biết sử dụng dấu câu hội thoại đe dẫn lời nói trực tiếp.
B. Các chủ đề hội thoại – Luyện tập – Bài mẫu:
I. Trao đổi ý kiến khi yêu cầu được giúp đỡ điều gì:
LUYỆN TẬP TRAO ĐỔI Ý KIẾN VỚI NGƯỜI THÂN
(Tiết 2 – Tuần 9)
ĐềEm có nguyện vọng học thêm một môn học năng khiếu , (họa, nhạc, võ thuật…). Trước khi nói với bố mẹ, em muốn trao đổi với anh (chị) để anh (chị) hiểu và ủng hộ nguyện vọng của em.
Phân tích đề bài:
Đây là tiết tập làm văn miệng (nói). .
– Để chuẩn bị nội dung trao đổi, các em đọc kĩ gợi ý ở sách Tiếng Việt 4 – tập 1. trang 95, viết rõ lời nói của từng vai, ghi chú điệu bộ, cử chỉ của từng vai.
– Trình bày bài viết theo mẫu ở vở Bài tập Tiếng Việt. Khi viết, sử dụng dấu câu hội thoại để dẫn lời nói trực tiếp (dấu hai chấm kết hợp với dấu gạch ngang đầu dòng hoặc kết hợp dấu ngoặc kép).
– Vai người trao đổi: em – anh trai hoặc em – chị gái.
– Khi thầy cô giáo cho thực hành đóng vai tại lớp để trao đổi, các em cần sử dụng cử chỉ, điệu bộ để lời nói được diễn cảm.
1. Bước chuẩn bị:
Em (hơi rụt rè): | – Anh Thắng này, em muốn xin bố mẹ cho đi học vẽ ở nhà văn hoá quận ghê, anh thấy có nên không? | |
Anh Thăng (ngạc | – Em học vào suất học nào? Một tuần, anh thấy em | |
nhiên, tròn mắt): | có rảnh buổi nào đâu? | |
Em (vui vẻ, cười): | – Có chứ anh, sáng thứ bảy em có học gì đâu. Em đăng kí học sáng thứ bảy. Em thấy lịch học ở nhà văn hoá ghi ở bảng thông báo mà. | |
Anh Thắng (hơi suy | – Ùm…, học vẽ, nghe cũng được đấy nhưng em có | |
nghĩ)ra vẻ nghĩ ngợi, nhíu mày: | xem kĩ học phí không? Đắt quá sợ bố mẹ không đủ tiền đó. | |
Em (mạnh dạn lên) – | Học phí không đắt đâu anh, có ba trăm nghìn | |
nói to hơn một chút: | đồng một khoá à. Em chịu khó tiết kiệm tiền quà sáng là đủ, không cần xin tiền bố mẹ cũng được mà. | |
AnhThắng(nhắc nhở): | – Ai đưa em đi học đây? Nói vậy chứ chăng lẽ mẹ để em cơm nguội hoài còn thì ba mẹ đi làm cả tuần, được nghỉ có ngày thứ bảy, chủ nhật mà còn phải dọn dẹp, lau nhà, đi chợ. Em tính xem sao cho ổn nói anh nghe thử, anh mới ủng hộ em được à nghen. | |
Em (sôi nổi) – nói rõ | – Em sẽ tự đi bộ, nhà mình gần nhà văn hoá quận | |
ràng, giọng điệu | mà anh. Mẹ sẽ cho phép em đi bộ. không có lối nào | |
mạnh dạn và tha thiết: | băng qua đường cả, rẽ phải hai cái hẻm là tới đường lớn. Tối thứ sáu em sẽ xếp đồ đạc giúp mẹ, lau bàn ghế, ti-vi; với lại học có hai giờ à, mười giờ sáng là em về rồi. Em phụ mẹ nhặt rau, phơi quần áo được mà. Còn tiền thì tiền bỏ ống của em đóng học phí cũng đủ. | |
Anh Thắng(ghẹoem | – Làm gì thì làm, không bắt anh lau bàn ghế thay | |
gái) – vênh mặt lên. | em à nghen. Anh có việc của mình rồi. Bây giờ em | |
vờ kênh kiệu: | tặng gì cho anh đây? | |
Em (mừng rỡ,dịu | – Biết mà, em biết anh sẽ ủng hộ em mà. Em không | |
dàng): | có tiền mời anh ăn kem nhưng trả công anh nè: đấm lưng hai trăm cái, chịu hông? | |
Anh Thăng (cười) | – Đã quá ta, anh đùa thôi. Anh bắt nạt em quá, tội ghê. | |
quàng vai em: | Trưa nay mẹ về, anh thưa mẹ trước cho, rồi em thưa sau cũng được. Có muốn mua màu với giấy vẽ thì nhớ thưa với mẹ luôn đi. | |
Em – vỗ tay: | – Hoan hô, cảm ơn anh nha. Em có giấy vẽ và màu tô rồi, không phải mua gì cả. | |
Cả hai anh em (đồng thanh): | – Anh em mình thương nhau ghê. | |
2. Trình bày bài viết:
BÀI LÀM
Ngoài các môn học ở trường, em rất thích học hội họa. Vẽ là niềm say mê riêng của em. Ba tháng một lần, nhà văn hoá quận có một lớp hội họa, em muốn xin bố mẹ cho đi học vẽ nhưng chưa dám thưa mẹ. Ngần ngại mãi, em đem việc này ra bàn bạc với anh trai em.
Em (hơi rụt rè): | – Anh Thắng này, em muốn xin bố mẹ cho đi học vẽ ở nhà văn hoá quận ghê, anh thấy có nên không? | ||
Anh Thắng (ngạc | – Em học vào suất học nào? Một tuần, anh thấy em | ||
nhiên, tròn mắt): | có rảnh buổi nào đâu? | ||
Em (vui vẻ, cười): | – Có chứ anh, sáng thứ bảy em có học gì đâu. Em đăng ký học sáng thứ bảy. Em thấy lịch học ở nhà văn hoá ghi ở bảng thông báo mà. | ||
Anh Thắng (hơi suy | – Ùm…. học vẽ, nghe cũng được đấy nhưng em có | ||
nghĩ) – ra vẻ nghĩ ngợi nhíu mày: | xem kĩ học phí không? Đắt quá sợ bố mẹ không đủ tiền đó. | ||
Em (mạnh dạn lên) | – Học phí không đắt đâu anh, có ba trăm nghìn | ||
nói to hơn một chút: | đồng một khoá à. Em chịu khó tiết kiệm tiền quà sáng là đủ, không cần xin tiền bố mẹ cũng được mà. | ||
AnhThắng (nhắc | Ai đưa em đi học đây? Nói vậy chứ chẳng lẽ mẹ | ||
nhở): | để em cơm nguội hoài còn thì ba mẹ đi làm cả tuần, dược nghỉ có ngày thứ bảy, chủ nhật mà còn phải dọn dẹp, lau nhà, đi chợ. Em tính xem sao cho ổn nói anh nghe thử, anh mới ủng hộ em được à nghen. | ||
Em (sôi nổi) – nói rõ | – Em sẽ tự đi bộ, nhà mình gần nhà văn hoá quận | ||
ràng, giọng điệu | mà anh. Mẹ sẽ cho phép em đi bộ, không có lối | ||
mạnh dạn và tha thiết: | nào băng qua đường cả, rẽ phải hai cái hẻm là tới đường lớn. Tối thứ sáu em sẽ xếp đồ đạc giúp mẹ, lau bàn ghế, ti-vi; với lại học có hai giờ à, mười giờ sáng là em về rồi. Em phụ mẹ nhặt rau, phơi quần áo được mà. Còn tiền thì tiền bỏ ống của em đóng học phí cũng đủ. | ||
Anh Thắng(ghẹo em | – Làm gì thì làm, không bắt anh lau bàn ghế thay | ||
gái) – vênh mặt lên, vờ kênh kiệu: | em à nghen. Anh có việc của mình rồi. Bây giờ em tặng gì cho anh đây? | ||
Em (mừng rỡ, dịu dàng | – Biết mà. em biết anh sẽ ủng hộ em mà. Em không có tiền mời anh ăn kem nhưng trả công anh nè: đấm lưng hai trăm cái, chịu hông? | ||
Anh Thắng (cười) | – Đã quá ta, anh đùa thôi. Anh bắt nạt em quá, tội |
| |
quàng vai em: | ghê. Trưa nay mẹ về, anh thưa mẹ trước cho, rồi em thưa sau cũng được. Có muốn mua màu với giấy vẽ thì nhớ thưa với mẹ luôn đi. |
| |
Em – vỗ tay: | – Hoan hô, cảm ơn anh nha. Em có giấy vẽ và màu tô rồi, không phải mua gì cả. |
| |
Cả hai anh em | – Anh em mình thương nhau ghê. |
| |
(đồng thanh): |
|
| |
Thế là cuộc trao đổi ý kiến của em và anh trai kết thúc tốt đẹp. Em đã được anh trai ủng hộ thì không sợ mẹ không đồng ý. Bố cũng sẽ ủng hộ em thôi vì bố luôn luôn động viên em vẽ, thay vì đi chơi trong xóm. Tác phẩm đẹp nhất của khoá học em sẽ dành để tặng mẹ.
II. Trao đổi ý kiến về nội dung, ý nghĩa của một đề tài:
LUYỆN TẬP TRAO ĐỔI Ý KIẾN VỚI NGƯỜI THÂN
(Tiết 1-Tuần 11)
Đề Em và người thân trong gia đình cùng đọc một truyện nói về một người có nghị lực, có ý chí vươn lên. Em trao đổi với người thân vê tính cách đáng khâm phục của nhân vật dó.Hãy cùng bạn đóng vai ngưòi thân để thực hiện cuộc trao đổi trên.
Đây là tiết Tập làm văn miệng (nói):
– Để chuẩn bị nội dung trao đổi, các em đọc kĩ gợi ý ở sách Tiếng Việt 4, tập 1, trang 109 — 110.
– Chọn truyện kể về người có ý chí, nghị lực, soạn rõ lời trao đổi của từng vai.
– Em có thể trao đổi với: mẹ, cha, anh, ông bà… (người thân của em).
– Khi thầy (cô) giáo cho thực hành đóng vai để trao đổi, các em cần tập nói diễn cảm và sử dụng cử chí thích hợp thể hiện lòng khâm phục của mình với nhân vật có ý chí, nghị lực đó.
Trình bày bài viết:
Hằng tuần, vào tối thứ sáu, em được thư giãn. Em có thể đọc truyện sách, chơi trò chơi một chút. Tối thứ sáu này. vừa ăn cơm xong mẹ hỏi em đọc bài tập, đọc “Vua tàu thủy Bạch Thái Bưởi” chưa. Em đáp: “Thưa mẹ rồi ạ! Ông Bạch Thái Bưởi là người có ý chí, nghị lực vươn lên ghê mẹ ạ”.
Mẹ: – Con hiểu thế nào là người có ý chí vươn lên?
Em: – Người có ý chí vươn lên là người có quyết tâm vượt lên khó khăn đểđạt được những điều tốt đẹp mà mình ước mơ, phải không mẹ?
Mẹ: – Đúng vậy đó con. Còn một thể hiện nữa của người có ý chí vươn lên là họ luôn luôn học tập, làm việc để tiến bộ, họ không nản chí trước thất bại hoặc bằng lòng tự mãn một hiện thực trì trệ qua ngày đoạn tháng. Họ là những người cầu tiến. Con nhận xét vềông Bạch Thái Bưởi đúng rồi đó. Mẹ muốn biết con dựa vào yếu tố nào mà có cảm nhận đó?
Em: – Thưa mẹ. ông Bạch Thái Bưởi xuất thân nghèo khổ, được nhà họ Bạch nhận làm con nuôi. Ông có ý chí tự lập, tự đứng ra kinh doanh. Khi buôn bán thất bại, ông không nản chí. Ông thất bại đến nỗi trắng tay vẫn xoay đủ mọi nghề. Còn nữa, con thấy ông cũng táo bạo: mở công ty đường thủy khi người Hoa đang độc quyền chiếm lĩnh thị trường. Ông Bạch Thái Bưởi giỏi quá chừng ấy chứ mẹ!
Mẹ: Con hiểu bài khá đó..Mẹ muốn con biết thêm là thời đó, nước ta còn bị thực dân Pháp đô hộ một doanh nhân như ông Bưởi là rất hiếm đấy con ạ! Ông không những chi làm giàu cho chính mình mà còn chứng tỏ cho người Hoa và người Pháp biết độc lập chủ quyền và sự thông minh kiên nhẫn của người Việt. Ông là một doanh nhân yêu nước đó con.
Em: “ Mẹ à. nhà cậu mình có hai chiếc tàu mà đời sống dư giả, giàu có rồi. Còn ông Bạch Thái Bưởi có đến ba mươi chiếc tàu thì ông ấy giàu to mẹ nhỉ? Nhưng điều làm con khâm phục là phương thức kinh doanh của ông. Ngày đó mà ông đã nghĩ ra cách cho người đến bến tàu diễn thuyết giống như bây giờ người ta quảng cáo, tiếp thị. ông kêu gọi người ta ủng hộ tiền đồng, tiền xu giống như bây giờ công ty huy động vốn trong dân, hay ghê hả mẹ?
Me: Con gái mẹ đọc bài có suy nghĩ, liên hệ đó. Học tập là phải như vậy nghe con. Vậy, nếu noi gương ông Bưởi, con thực hiện điều gì nào?
Em: – Thưa mẹ,ý chí cua ông Bưởi thật đáng khâm phục, nhưng con đâu có ước mơ trở thành doanh nhân, con sẽ giữ vững ýchí học tập khắc phục mọi khó khăn đểtrở thành bác sĩ. Con cũng có khó khăn chứ mẹ: là con thích làm bác sĩ mà còn có tính sợ nhiều thứ: sợ đau, sợ chuột… đó là khó khăn con phải vượt qua. Còn thi vào ngành bác sĩ phải thật giỏi nữa mẹ ạ.
Mẹ: – Con ngoan lắm, trước hết phải chăm học, có thành tích tốt là được.
Em:- Dạ. con xin nhớ lời mẹ dạy ạ.
Sáng thứ hai em mới học bài tập đọc “Vua tàu thủy Bạch Thái Bưởi” nhưng cuộc trao đổi ý kiến này đã giúp em hiểu rõ nội dung bài rồi. Chẳng những thế, em còn biết được một tấm gương về ý chí nghị lực của những người nổi tiếng.
Phần IV
VĂN MIÊU TẢ
TÌM HIỂU VỀVĂN MIÊU TẢ
I. Định nghĩa về văn miêu tả:
– Miêu tả là mô tả.
– Văn miêu tả: sử dụng từ ngữ, câu văn để mô tả hình ảnh, hoạt động, đặc điểm nổi bật của sự vật (đồ vật, cây cối, con vật. phong cảnh…) làm cho người đọc hình dung được sự vật đang được miêu tả.
II. Yêu cầu chung của một bài Tập làm văn miêu tả:
– Trình bày bài viết theo đúng dàn ý văn miêu tả.
– Nếu được hình ảnh bao quát và đặc điểm nổi bật của đối tượng được miêu tả.
– Nêu được hoạt động, sắc thái tình cảm của đối tượng được tả.
– Nêu được nhận xét, tình cảm của học sinh đối với đối tượng đang được miêu tả.
– Liên hệ được thực tế, bài học, tầm quan trọng, ích lợi của đối tượng được miêu tả trong đời sống con người.
– Sử dụng từ ngữ, hình ảnh chuẩn xác (có so sánh, nhân hóa…).
– Viết câu văn đúng, gãy gọn. mạch lạc, súc tích.
– Viết đúng chính tả, ngắt câu và sử dụng dấu câu đúng.
– Trình bày bài viết sạch đẹp, đúng quy định.
III. Phương pháp thực hiện các yêu cầu của bài Tập làm văn miêu tả:
1. Quan sát đối tượng tả.
a) Quan sát hình ảnh bao quát: bên ngoài đến bên trong (đồ vật), từ xa đến gần (cây cối), tầm vóc (con vật).
– Màu sắc, hình ảnh nổi bật.
– Kích thước?; Làm bằng gì? (đồ vật); Tuổi?; Già hay non? (cây cối, con vật).
b) Quan sát bộ phận chi tiết:
– Quan sát từng bộ phận của đồ vật.
– Quan sát từng bộ phận của cây cối (từ trên xuống dưới hoặc từ dưới lên trên: vòm lá, thân cây, cành, ngọn, chiếc lá, gốc, rễ – hoặc ngược lại). ,
– Quan sát từng bộ phận của con vật (đầu, mình, tứ chi, mắt. mõm…).
2. Ghi lại những điều quan sát được:
3. Vận dụng từ ngữ mô tả màu sắc, hình ảnh quan sát được. Các em cần liên tưởng những hình ảnh đẹp tương tự để mô phỏng, so sánh, ví von nhằm làm cho việc mô tả trở nên cụ thể sinh động; giúp người đọc hình dung được hình ảnh đối tượng đang được tả một cách sống động như xem một bức tranh vẽ.
Dùng từ láy, từ ghép để tả màu sắc, hình ảnh, tiếng động (dùng từ tượng hình, tượng thanh); dùng các tính từ chỉ mức độ để diễn đạt chính xác sắc thái của đối tượng được tả.
4. Lập dàn bài chi tiết:
5. Viết bài văn hoàn chỉnh:
IV. Cách viết các kiểu mở bài và kết bài trong bài văn miêu tả:
Bài Tập làm văn nào cũng có ba phần: mở bài, thân bài, kết luận. Các em sẽ lập dàn bài cụ thể theo từng thể loại bài đang học. Bài Tập làm văn miêu tả nào cũng có hai cách mởbài và kết bài:
Mở bài: – Mở bài trực tiếp.
– Mở bài gián tiếp.
Kết bài: – Kết bài mở rộng.
– Kết bài không mở rộng.
Mởbài:
1) Mở bài trực tiếp: giới thiệu trực tiếp đối tượng định tả.
2) Mở bài gián tiếp:
– Dùng hình ảnh khác để giới thiệu đối tượng tả.
– Nêu những mối tương quan xoay quanh đối tượng tả rồi giới thiệu đối tượng tả.
– Nêu sự vật tương tự với đối tượng tả và giới thiệu đối tượng tả.
– Có thể nêu bật tình cảm, cảm xúc để giới thiệu vật định tả.
Kết bài:
1) Kết bài không mở rộng:
– Nêu tình cảm, ích lợi cụ thể của em đối với các vật đang tả.
2) Kết bài mở rộng:
Nêu tình cảm tương quan của nhiều người đối với vật tả.
– Nêu bật được mối liên hệ thực tế của sự vật trong mọi phương tiện của cuộc sống.
3) Rút được hài học kinh nghiệm, việc làm cụ thể, ý nghĩa rộng rãi của đối tượng tả trong đời sống con người.
Nêu được mối tương quan của đối tượng tả với vật cùng loại (đồ vật với đồ vật, cây cối với cây cối, con vật với con vật…)
V. Cách viết từng đoạn văn trong bài văn miêu tả:
Thân bài của bài văn miêu tả nào cũng có nhiều đoạn văn thể hiện các phần của từng ý trong dàn bài. Tùy theo khả năng diễn đạt của các em, các em có thể trình bày bài viết của mình dài hay ngắn. Tuy tùy theo cảm xúc, quan sát và khả năng diễn đạt, các em vẫn phải tuân thủ theo quy định bắt buộc là phải tả được hình ảnh chung và đặc điểm nổi bật của đối tượng tả cũng như nói lên được lợi ích của nó. Cho nên, có thể chia phần thân bài ra làm bốn đoạn văn cơ bản sau:
– Tả bao quát hình dáng.
– Tả chi tiết đặc điểm nổi bật
– Nêu hoạt động của vật (hoặc con vật) đang được miêu tả.
– Nêu ích lợi, sự săn sóc, tình cảm của em đối với sự vật đang tả.
Để viết từng đoạn văn một cách mạch lạc, các em cần nắm rõ yêu cầu cụ thể của từng đoạn văn. Các em cần mở đầu đoạn văn bằng câu chuyển ý nhẹ nhàng, có liên hệ đến đoạn văn nối tiếp để bài văn có ý liên tục, tránh rời rạc, gượng ép.
Ví dụ: Đề bài: tả chiếc cặp sách bố mới mua cho em.
a) Viết đoạn văn tả hình dáng bạo quát của chiếc cặp.
“Chiếc cặp còn thơm mùi da mới, hình chữ nhật (câu mở đầu đoạn văn). Bề dài cặp bằng ba gang tay em, bề rộng độ hai gang tay. Nó dày khoảng năm phân khi chưa đựng quyển vở nào. Cặp làm bằng nhựa giả da màu đen bóng loáng. Nắp cặp hình thang, úp sát mặt cặp, đóng kín cặp bằng hai cái khoá mạ kền sáng loáng. Cặp vừa có quai xách, lại có cả dây đeo hẳn hoi (câu kết cho phần tả bao quát).”
b) Viết tiếp đoạn văn tả các bộ phận của chiếc cặp:
“Ấn nhẹ vào hai nút khóa, em mở ngay cặp (câu chuyển ý và giới thiệu phần tả chi tiết). Gặp gồm có hai ngăn chính và hai ngăn phụ nhỏ, được làm bằng nhựa giả da loại tốt, màu xám nhạt. Mỗi ngăn chính của cặp đựng vừa sít sao độ sáu quyển sách giáo khoa. Giữa hai ngăn của cặp có may một tủi nhỏ bằng hai bàn tay em. Em dùng túi nhỏ đó để dựng đồ dùng học tập con con như: tẩy, gọt bút chì… rất tiện. Đẹp nhất là ngăn may đắp bên ngoài cặp. Ngăn này được may chỉ nổi, kéo kín bằng một dây đeo có đính chùm xích ngôi sao bằng bạc, reo lanh canh như một cái chuông nhỏ xíu thật ngộ nghĩnh. Ngăn may đắp ngoài này dùng cất hộp viết mới tiện làm sao! Quai xách của cặp may bằng bốn lớp vải da chắc chắn, dài độ mười phân, đính giữa nắp cặp bằng hai khuy mạ kền màu trắng sáng. Dây đeo cặp rộng ba phân, dính từ đáy cặp đến nắp cặp, rộng vừa bờ vai nhỏ nhắn của em. Khi em đóng mở cặp, hai cái khoá cặp nhún nhẹ, vang tiếng lách cách thật vui tai (câu kết cho phần tả chi tiết).”.
VI. Gợi ý tìm hiểu hình ảnh, hoạt động của đối tượng miêu tả:
Đôi khi, các em gặp một đề văn miêu tả đồ vật, cây cối và con vật mà các em chưa trông thấy bao giờ. Hiện nay, đề văn chung theo chương trình có nhiều đểmở rộng để các em tự chọn (như tả đồ chơi mà em yêu thích, tả con vật gần gũi thân thiết với em nhất) nhưng hạn hữu có lúc các cm sẽ gặp đề khó như đã đề cập ở trên. Các em có thể tìm hiểu hình ảnh, hoạt động của đối tượng miêu tả thông qua:
– Màn ảnh nhỏ: Ti vi.
– Mạng internet.
– Tranh ảnh, sách báo.
– Đọc nhiều sách truyện thiếu nhi (nhờ thầy (cô) giáo hướng dẫn sách).
CHƯƠNG I. MIÊU TẢ ĐỒ VẬT
CÁC TIẾT LUYỆN TẬP
THẾ NÀO LÀ MIÊU TẢ?
(Tiết 1 – Tuần 14)
A. Mục tiêu:
– Học sinh nắm được định nghĩa văn miêu tả.
– Học sinh nhận xét được hình ảnh, tiếng động, mùi vị của đối tượng được tả với các giác quan tương ứng khi quan sát.
B. Nội dung
1) Đọc đoạn văn 1/140 sách Tiếng Việt 4, tập 1, nhận xét:
Đoạn văn miêu tả các sự vật sau: cây sồi, cây cơm nguội, lạch nước.
2) Các nét miêu tả cụ thổ ở đoạn văn trên:
Stt | Tên sự vật | Hìnhdáng | Màu sắc | Chuyển động | Tiếng động |
1 | Cây sồi | Cao lớn | Lá đỏchói lọi | Lá rập rình lay động như nhữngđốm lửa đỏ |
|
2 | Cây cơm nguội |
| Lá vàngrực rỡ | Lá rập rình lay động như những đốm lửa vàng. |
|
3 | Lạch nước |
|
| Nước chảy, trườn lên mấy tảng Róc đá trắng, luồn dưới gốc cây ẩm rách mục |
|
3) Qua những nét miêu tả trên, em thấy tác giả quan sát sự vật bàng mắt và tai.
• Ghi nhớ:
Miêu tả là vẽ lại bằng lời những đặc điểm nổi bật của cảnh, của người, của vật để giúp người nghe, người đọc hình dung được các đối tượng ấy.
C. Luyện tập:
1) Tìm những câu văn miêu tả trong truyện “Chú đất nung”
Những câu văn miêu tả trong truyện “Chú đất nung” là:
– “Đó là một chàng kị sĩ rất bảnh, cưỡi ngựa tía, dây cương vàng và một nàng công chúa mặt trắng, ngồi trong mái lầu son.”
– “Chiếc thuyền mảnh trôi qua cống ra ngòi. Gặp nước xoáy, thuyền lật, cả hai bị ngấm nước, nhũn cả chân tay.”
2) Em thích những hình nào trong đoạn trích dưới đây? Hãy viết từ một đến hai câu miêu tả một trong những hình ảnh đó.
(Xem bài “Mưa” trang 141, sách Tiếng Việt tập 1).
Gợi ý:
– Hình ảnh: “Cây dừa
Sải tay bơi”
• Các tàu lá dừa như cánh tay người bơi trong màn nước mưa.
– Hình ảnh: “Ngọn mùng tơi
Nhảy múa.”
• Mưa làm tươi cây cỏ, tưới mát cho rau màu. Những ngọn mùng tơi vui mừng nhảy múa đón mưa.
– Hình ảnh: “Bố em đi cày về
Đội sấm
Đội chớp
Đội cả trời mưa”
• Mưa tưới mát đồng ruộng. Bố em đi cày về vất vả trong mưa nhưng dẻo dai chịu đựng, lao động cần cù. Bố em đội sấm chớp, trời mưa cho luống cày đủ nước chuẩn bị mùa vụ.
CẤU TẠO BÀI VĂN MIÊU TẢ ĐỒVẬT
(Tiết 2- Tuần 14)
A. Mục tiêu:
– Học sinh nắm được cấu tạo bài văn miêu tả đồ vật gồm 3 phần: mở bài, thân bài, kết luận.
– Nắm được thứ tự miêu tả đồ vật.
B. Nội dung
1. Đọc bài văn “Cái cối tân ” trang 143, sách Tiếng Việt 4, tập 1, trả lời câu hỏi:
a) Bài văn tả cái gì?
– Bài văn tả cái cối xay lúa mới (cối xay tay).
b) Tìm phần mở bài, kết bài. Mỗi phần ấy nói điều gì?
– Mở bài: “Cái cối xinh xinh… gian nhà trống.”: giới thiệu cái cối xay lúa mới.
– Kết bài: “Cái cối xay cũng như… bước anh đi.”: tình cảm gắn bó thân thuộc của cái cối cũng như mọi đồ vật trong nhà với tác giả.
c) Các phần mởbài, kết bài đó giống với cách mở bài, kết bài nào đã học?
– Mở bài: mở bài trực tiếp.
– Kết bài: kết bài mở rộng. .
d) Phần thân bài tả cái cối theo trình tự như thế nào?
Trình tự miêu tả cái cối:
– Tá bao quát: Vành, áo cối (bên ngoài).
– Tả chi tiết: tai cối, răng cối, cần cối, chốt cối, thùng (các bộ phận của cối),
– Sự vận hành của cối (hoạt đông, cách sử dụng cối).
2. Theo em, khi tả một đồ vật, ta cần tả những gì?
Khi tả một đồ vật, ta cần tả những phần sau:
– Tả bao quát: hình dáng, kích thước, màu sắc, các bộ phận bên ngoài của đồ vật.
– Tả chi tiết từng bộ phận của đồ vật, tả từng phần bên trong của đồ vật.
– Nêu cách sử dụng hoặc công dụng của đồ vật.
– Nêu tình cảm của em đối với đồ vật đang tả.
Ghi nhớ:
1. Bài văn miêu tả đồ vật có ba phần là mở bài,thân bài, kết bài.
2. Có thể mở bài theo kiểu trực tiếp hay gián tiếp và kết bài theo kiểu mở rộng và không mở rộng.
3. Trong phần thân bài, trước hết, nên tả bao quát toàn bộ đồ vật rồi tả những bộ phận có đặc điểm nổi bật.
C. Luyện tập
Đọc phần thân bài tả cái trống trường (trang 145/ sách Tiếng Việt 4. tập 1) trả lời các câu hỏi sau:
a) Tìm câu văn tả bao quát cái trống.
“Anh chàng trống này tròn như cái chum, lúc nào cũng chễm chệ trên một cái giá gỗ kê ở trước phòng bảo vệ.”
b) Nêu tên những bộ phận của cái trống được miêu tả:
– Mình trống: “được ghép bằng những mảnh gỗ đều chằn chặn, nở ở giữa, khum nhỏ lại ở hai đầu”.
– Lưng trống: “quấn hai vành dai to bằng hai con rắn cạp nong, nom rất hùng dũng”.
– Mặt trống: “Hai đầu trống bịt kín bằng da trâu thuộc kĩ căng rất phẳng”.
c) Từ ngữ tả trống:
– Hình dáng: “tròn như cái chum, nở ở giữa, khum nhỏ ở hai đầu, lưng quấn hai vành dai to bàng rắn cạp nong, nom rất hùng dũng”. Mặt trông “căng rất phẳng”.
– Âm thanh: ồm ồm, giục giã: ‘Tùng! rùng ! Tùng,”; “Cắc tùng! Cắc tùng”.
d) Viết thêm phần mở bài và kết bài cho thành bài văn hoàn chỉnh.
Mởbài:
• Trực tiếp:
Hiệu lệnh ở mỗi trường học thường dùng là tiếng chuông điện, tiếng kẻng hoặc tiếng trống. Nhận nhiệm vụ ra những hiệu lệnh này ở trường em là anh trống.
• Gián tiếp:
Cao chót vót giữa sân trường là đại tướng cột cờ, kiêu hãnh nâng lá cờ Tổ quốc tung bay trong gió. Sừng sừng cạnh cột cờ, bác bàng già dang cánh tay đôn hậu, âu yếm che mát cho chúng em vui đùa. Giòn giã, thúc giục, nghiêm giọng ra lệnh cho chúng em ra vào lớp là anh trống.
Kết bài:
• Kết bài không mở rộng:
Anh trống thân quen với chúng em như một người bạn. một người chỉ huy nghiêm nghị, ân cần. Anh trống giúp nề nếp sinh hoạt ởtrường của chúng em được nghiêm túc. Em rất yêu quý anh trống và luôn trân trọng, giữ gìn anh.
• Kết bài mở rộng:
Tiếng trống âm vang trong những năm học qua ở trường là một mệnh lệnh nghiêm khắc và là một tình cảm thiêng liêng đối với học trò chúng em. Vào những ngày lễ lớn, những hồi trống dài, giòn giã nuôi dưỡng trong em tình yêu đối với Tổ quốc, đối với trường học và niềm tin, sự phấn đấu cho một tương lai thành đạt mai sau.
LUYỆN TẬP MIÊU TẢ ĐỒ VẬT
(Tiết 1 – Tuần 15)
A. Mục tiêu:
– Học sinh nắm được trình tự tả một đồ vật.
– Học sinh lập được dàn bài miêu tả đồ vật.
B. Nội dung
1. Đọc bài văn “Chiếc xe đạp của chú Tư” và trả lời các câu hỏi sau (xem sách Tiếng Việt 4, tập 1, trang 150):
a. Tìm các phần mở bài, thân bài, kết bài trong bài văn trên:
– Mở bài: “Trong làng tôi, … chiếc xe đạp của chú.”
– Thân bài: “Ở xóm vườn., nó đá đó.”
– Kết bài: “Đám con nít… của mình.”
b. Ở phần thân bài, chiếc xe đạp được miêu tả theo trình tự như thế nào?
– Chiếc xe đạp được tả ngay đặc điểm nổi bật nhất: xe đẹp nhất xóm, màu vàng, vành láng bóng.
– Chi tiết đặc biệt nữa là hai con bướm bằng thiếc với hai cánh vàng lấm tấm đỏ.
– Sự giữ gìn, chăm sóc xe rất chu đáo của chú Tư.
c. Tác giả quan sát chiếc xe đạp:
– Bằng mắt: màu vàng, sáng bóng…
– Bằng tai: Khi chú ngừng đạp, chiếc xe cứ ro ro thật êm tai.
d. Tìm lời kể chuyện xen lẫn lời miêu tả trong bài. Lời kể nói lên điều gì về tình cảm của chú Tư với chiếc xe?
• Lời kể chuyện:
“Coi thì coi, đừng đụng vào con ngựa sắt của tao nghen bây.
Ấy là chú dặn sắp nhỏ đứng vây quanh chiếc xe của chú.
– Ngựa chú biết hí không chú?
– Nó đá được không chú?
Chú đưa chân đá ngược ra sau:
– Nó đá đó.”
• Tình cảm của chú Tư đối với chiếc xe:
Xem xe như một chú ngựa: biết hí, biết đá (sự thật là chú Tư đá chân ra giả a bộ như ngựa đá, bóp chuông xem như ngựa hí), âu yếm gọi xe là ngựa sắt. Chú Tư hãnh diện vì chiếc xe của mình trước đám con nít cười rộ, thích thú.
C. Luyện tập
Bài 2/151 sách Tiếng Việt 4, tập 1.
Đề: Lập dàn ý cho bài văn tả chiếc áo em mặc đến đến lớp hôm nay.
Dàn ýchitiết:
1) Mở bài: Giới thiệu chiếc áo em mặc đến lớp hôm nay.
Áo trắng đồng phục của học sinh Tiểu học; Mẹ mua (hay ai tặng?); Vào dịp nào? (nhập học, Tết…).
2) Thân bài:
a. Tả hình dáng bao quát:
– Màu sắc: trắng, loại vải (coton).
– Kiếu áo: sơ mi (nam hoặc nữ), ngắn tay.
b. Tả từng bộ phận chi tiết của áo.
– Cổ áo: cổ sơ mi (nam), cổ sen bầu (nữ) hoặc cổ đan – tông (nữ).
– Tay áo: tay ngắn, cửa tay rộng (nam), tay rút phồng thắt nơ (nữ).
– Thân áo: may vừa vặn với người em. Thân áo gồm: lưng áo (may đơn giản, đường chỉ may áo chắc chắn); tà áo (có thêu hoa – áo nữ; may túi áo – áo nam) viền tà bằng đường chỉ sắc sảo, chạy đều một xăng-ti-mét.
– Đinh áo: may vải lật rộng ba xăng-ti-mét.
– Nút áo (nút màu trắng bóng – áo nam; nút kiểu kết hoa, nút bạc nhũ – áo nữ) cách đều sáu xăng-ti-mét dọc theo đinh áo.
– Cầu vai áo có đính nút (áo nam).
– Các đường viền nhún ren quanh cổ áo, tay áo (áo nữ).
– Huy hiệu trường đính ở túi ngực trái của áo.
c. Mặc áo em có cảm giác gì?
Vừa vặn, làn vải mềm mịn, dễ chịu. Em thấy mình xinh hơn, chững chạc, trang nghiêm trong chiếc áo đồng phục học sinh. Chiếc áo che chở, mơn man trên da em như tình mẹ bao la yêu thương nuôi nấng, dạy dỗ, chăm sóc em. Em biết ơn mẹ, biết ơn những cô công nhân may áo rất khéo léo.
d. Em sử dụng và giữ gìn áo như thế nào?
Sau buổi học, em thay áo và dùng móc treo áo lên cẩn thận. Mẹ giặt và ủi thẳng áo em rất tươm tất. Em giữ gìn không làm dây bẩn, rách áo.
3) Kết luận:
– Nêu việc làm cụ thể của em để đền đáp công ơn nuôi dưỡng, săn sóc của bố mẹ (đã may quần áo đầy đủ cho em, giặt giũ áo em sạch sẽ, đẹp đẽ).
– Nêu ý nguyện, lời hứa của em để em xứng đáng là con ngoan trò giỏi; xứng đáng với danh dự người học sinh và danh dự Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh.
QUAN SÁT ĐỒ VẬT
(Tiết 2 -Tuần 15)
A. Mục tiêu:
– Học sinh biết quan sát đồ vật theo một trình tự hợp lí (từ bên ngoài đến bên trong, từ bao quát đến chi tiết).
– Nhận xét nhạy bén đặc điểm nổi bật hoặc đặc điểm phân biệt của đồ vật này với đồ vật khác.
– Ghi chép những điều quan sát được và lập được dàn ý cho bài văn miêu tả đồ vật đang quan sát.
B. Nội dung
I) Quan sát một đồ chơi em thích và ghi lại những điều quan sát được.
Hướng dẫn học sinh quan sát:
– Các em dùng mắt để nhìn: hình dáng, màu sắc, kích thước của món đồ chơi. Quan sát từng bộ phận từ bên ngoài đến bên trong, bên trên đến bên dưới.
– Dùng tay để xem xét độ mềm của chất liệu làm nên đồ chơi.
– Dùng mũi đề đánh giá hương liệu được tẩm trong đồ chơi (nếu có).
– Chú ý đặc điểm riêng nổi bật của món đồ chơi.
II. Ghi nhớ:
1. Muốn miêu tả một đồ vật, trước hết phải quan sát đồ vật đó.
2. Quan sát đồ vật cần tả theo một trình tự hợp lí, bằng nhiều cách khác nhau (mắt nhìn, tai nghe, tay sờ…).
3. Cần chú ý phát hiện những đặc điểm riêng phân biệt đồ vật này với đồ vật khác.
III. Một số hình ảnh cụ thể của các đồ chơi:
1. Gấu bông:
a. Quan sát bao quát:
Chú gấu ngồi:
– Cao sáu mươi xen-ti-mét, to bằng gối ôm của em, màu nâu nhạt, được may bằng vải nỉ mịn. Mặt chú gấu bầu bĩnh dễ thương.
b. Quan sát từng bộ phận:
– Tai chú gấu làm bằng vải nhung đen tuyền, to bằng bàn tay em, khum khum úp tròn trên hai bên đỉnh đầu trông rất ngộ nghĩnh.
– Mắt chú gấu là hai mảnh nhựa đen bóng loáng, có vân điểm tròn, nom sinh động như mắt chú gấu thật.
– Mõm chú gấu là một gù tròn bằng nỉ, màu sô-cô-la. Lòng bàn tay, bàn chân của chú gấu may bằng vải nỉ màu hồng kem dâu, bụ bẫm, mập mạp.
– Chú gấu đưa hai tay về phía trước như muốn được bế (hoặc em chui đầu vào hai tay chú gấu để được chú ôm em).
– Bụng chú gấu tròn trĩnh.
– Chú gấu mặc một cái quần có dây đeo hai bên vai rất xinh xắn.
2. Búp bê:
a. Quan sát bao quát:
– Đó là một em bé búp bê bằng nhựa dẻo, màu hồng da. chỉ cao hơn quyển sách giáo khoa dựng đứng một tí. Búp bê to bằng cái gối ôm của em bé sơ sinh.
b. Quan sát chi tiết:
– Đầu búp bê tròn trịa, tóc nó vàng hoe, buộc thành hai lọn loăn xoăn thăt nơ xanh.
– Nổi bật trên khuôn mặt phúng phính tô hồng là đôi mắt tròn xoe màu nâu thẫm. hàng mi dài cong vút màu đen thẫm. Mắt búp bô khép lại như ngủ khi đặt búp bê nằm xuống.
– Đôi môi búp bê hồng chúm chím cười. Trông búp bê tươi tắn, vui vẻ, hài lòng lắm.
– Búp bê mặc một cái áo đầm voan ren nhún bèo màu trắng, xòe rộng nhiều tầng. Cài áo đầm ngắn để lộ chân búp bê bụ bẫm, hồng hồng, đi đôi tát ren trắng nổi bật trên đôi giầy đen làm bằng mủ cao su bóng lộn.
– Đôi tay búp bê hồng nhạt, bàn tay xòe năm ngón tròn trĩnh, đưa lên như đòi bế.
– Tay và chân búp bê có thể cử động được nhưng em phải giúp nó bằng cách xoay chân cho búp bê có thể ngồi hoặc đứng.
3) Rô-bốt chiến dấu:
a. Quan sát bao quát:
– Chiến sĩ rô-bốt của em oai vệ với chiều cao năm mươi xăng-ti-mét, ngực và vai nở rộng với nhiều huân chương và màn hình điện tử gắn nồi. Cả thân hình rô-bốt là một khối lắp ghép tinh xảo các mảnh nhựa nhiều màu bóng nhoáng.
b. Quan sát chi tiết:
– Đầu rô-bốt to bằng nắm tay em, đội mũ phi hành gia làm bằng nhựa trong suốt. Mắt rô-bốt có gắn đèn đện từ nhấp nháy màu vàng cam.
– Tay rô-bốt gập vuông mang một cái súng máy.
– Chân rô-bốt to, chắc chắn, đi giày đen gắn một ngôi sao màu bạc.
– Rô-bốt mặc áo giáp chiến đấu màu nhựa bạc già ánh kim nổi bật trên thân hình màu xanh biển đậm.
– Khi bật công tắc, rô-bốt tiến về phía trước, mắt nó sáng đèn và súng máy phun tia lửa đỏ. Nó tiến từng bước chắc chắn và phát tiếng kêu “chiu chiu” như tiếng súng máy.
4) Bộ lắp ghép hình:
a. Quan sát bao quát:
– Gồm một hộp mica hình chữ nhật đựng các khối lắp ghép đủ màu sắc và đủ hình dạng. Đi kèm các khối nhựa là một tập giấy hướng dẫn cách lắp các hình.
b. Quan sát chi tiết:
– Các khối lắp ghép gồm các khối hình tam giác, vuông, chữ nhật, tròn, bán nguyệt… được làm bằng nhựa cứng có thể gắn khít vào nhau.
– Các khối lắp ghép gồm các màu trắng, đỏ, xanh lá, xanh biển, cam và đen.
– Tập giấy hướng dẫn lắp ghép hình làm bằng giấy cứng, in màu các mô hình lắp ghép được đánh số thứ tự thao tác.
– Có thể lắp ghép các mô hình sau: nhà ngói, nhà tầng, công viên, nhà máy, xe lửa, tàu thủy…
IV. Luyện tập
Dựa theo kết quả quan sát của em, hãy lập dàn ý cho bài văn miêu tả đồ chơi mà em đã chọn.
Đề bài: Lập dàn ý cho bài văn miêu tả búp bê lật đật.
Dàn ýchi tiết:
1) Mở bài:
– Giới thiệu đồ chơi: búp bê lật đật.
– Em có búp bê lật đật vào dịp nào? (có từ lâu, dịp sinh nhật, dịp Tết…); Do ai tặng? (mẹ, bố. bạn…).
2) Thân bài:
a. Tả bao quát:
Búp bê lật đật làm bằng nhựa cứng, màu hồng, bóng loáng. Đó là hai hình cậu bé và lớn chồng khít lên nhau trang điểm theo hình dáng búp bê.
b. Tả chi tiết:
– Đầu búp bê lật đật: hình khối tròn nhỏ vẽ mái tóc đen, choàng khăn đỏ. Mặt búp bê rất xinh, mắt đen láy như mắt bồ câu, môi hồng chúm chím, má phớt phấn hồng. Những lọn tóc đen lòa xòa trên khuôn trán rộng.
– Mình búp bê lật đật: hình khối tròn lớn vẽ hai tay mặc áo màu cam, chiếc quần có dây đeo lên vai màu xanh lá sen.
– Bụng búp bê lật đật có chuông, khi búp bê dao động, tiếng chuông reo lên leng keng nghe rất vui tai.
– Em chơi búp bê lật đật như thế nào?
Búp bê lật đật không có chân, mình nó là khối tròn, khi em để đứng, nó dao động theo vòng cung tạo tiếng chuông leng keng rất vui.
– Em giữ gìn búp bê lật đật ra sao?
Lau sạch, cất búp bê vào tủ rất ngăn nắp, không ném mạnh, vứt lăn lóc búp bê lật đật.
3) Kết bài:
– Nêu ích lợi của việc chơi búp bê lật đật (giải trí thư giãn nhẹ nhàng, tiếng chuông reo vui vẻ, dao động của búp bê lật đật rèn cho em đức tính dũng cảm tự lực cánh sinh, khi vấp ngã biết tự mình đứng lên).
– Nêu tình cảm của em đối với búp bê (yêu quý như bạn, trò chuyện với búp bê như với em bé).
LUYỆN TẬP MIÊU TẢ ĐỒ VẬT
(Tiết 2 – Tuần 16)
A. Mục tiêu:
– Viết bài tập làm văn tả đồ vật hoàn chỉnh theo dàn ý đã hướng dẫn.
– Biết trình bày mở bài, kết bài (trực tiếp hoặc gián tiếp, mở rộng hoặc không mở rộng).
B. Nội dung
Đề bài: (viết)
Tả một đồ chơi mà em thích.
1) Phân tích đề:
• Mệnh lệnh đề: tả đồ vật.
• Đối tượng tả: một đồ chơi.
• Giới hạn đề: em thích.
2) Lập dàn ý chi tiết:
Mởbài:
a) Trực tiếp:
Em có rất nhiều đồ chơi: búp bê, bóng nhựa, banh lông, đồ hàng, ru-bic… trong số đồ chơi ấy, em thích nhất là khối xoay ru-bic.
b) Gián tiếp:
Hầu hết đồ chơi em hiện có đều là quà tặng. Mẹ tặng em búp bê nhân ngày sinh em chín tuổi, bố tặng em tàu thủy khi đi công tác xa về, anh Hai tặng một bộ ghép hình tranh phong cảnh năm trăm mảnh ghép… Hôm đi nhà sách một mình lần đầu tiên, em mua một khối ru-bic. Đó là món đồ chơi mà em thích nhất.
Thân bài:
a. Tả bao quát:
– Ru-bic được làm bằng nhựa cứng.
– Khối ru-bic là khối lập phương, 6 mặt cua khối lập phương là sáu màu khác nhau: trắng, vàng, xanh lá, xanh biển, đỏ, đen.
b. Tả chi tiết:
– Mỗi một mặt của ru-bic là một hình vuông cạnh 6 cm được kết bởi chín khối lập phương nhỏ, mồi khối có cạnh 2 cm.
– Các khối lập phương nhỏ dính kết với nhau bằng một sợi dây thun có độ dẻo và đàn hồi tốt.
– Cách chơi ru-bic: xoay chuyển các khối lập phương nho sao cho chúng trở về đúng màu mặt lập phương (cùng một màu).
c. Việc giữ gìn ru-bic và ích lợi của đồ chơi ru-bic:
– Xoay chuyển nhẹ nhàng khi chơi.
– Lau sạch, cất vào tủ cẩn thận sau khi chơi.
– Đồ chơi ru-bic rèn tính cẩn thận, kiên nhẫn, sự tính toán chuẩn xác, giải trí và phát huy tư duy tốt.
Kết bài:
– Nêu cảm xúc của em khi chơi ru-bic.
– Nêu tình cảm của em về món đồ chơi này.
a. Kết bài mở rộng:
Cũng như các món đồ chơi khác, khối ru-bic giúp em vui hơn sau nhiều giờ học tập, làm việc căng thẳng. Không chỉ có vậy, khối ru-bic còn là người bạn đấu trí thầm lặng của em. Khối lập phương sáu màu này như sáu mặt của cuộc sống hằng ngày, tưởng như không bao giờ người ta có thể sắp xếp thống nhất được, vì đời sống muôn màu muôn vẻ. Nhưng cuối cùng cũng thu xếp được một cách gọn gàng, ngăn nắp, cũng như cái đích cuối cùng của trò chơi ru-bic, em phải rèn luyện để cuộc sống, học tập trở nên tốt đẹp hơn.
b. Kết bài không mở rộng:
Khối ru-bic là một món đồ chơi thú vị. Em rất yêu thích món đồ chơi do chính mình lựa chọn này.
3) Viết từng đoạn thân bài. Chú ý có câu mở đoạn:
• Ru-bic:
Thoạt trông, khối ru-bic chỉ là một khối lập phương đơn giản gồm sáu mặt, sáu màu khác nhau. Nhìn kĩ hơn, em thấy rõ mỗi mặt của ru – bic được kết dính bởi chín khối lập phương tí hon. Chúng dính vào nhau nhờ một sợi dây thun nhỏ, dẻo, có độ giãn rộng để dễ dàng xoay qua, trở lại.
• Trái banh chuyền:
Trái banh chuyền rất xinh. Nó là một khối cao su dẻo, đàn hồi, nẩy bổng rất tốt. Nó chỉ to bằng nắm tay em, được bao bọc bằng lớp vỏ nỉ kín màu xám nhạt. Trên nền nỉ, một rãnh trang trí rộng hai li màu đen chạy vòng quanh trái banh rất mỹ thuật.
• Búp bêngười mẫu:
Cô búp bêngười mẫu nom rất yêu kiều. Cô mặc một cái váy xòe rộng hở vai viền voan trang thật diễm lệ. Lớp váy màu xanh da trời bồng lên từng tầng như những đám mây xốp trên bầu trời. Môi cô tô son đỏ chói, mặt trắng hồng, làn mi đen cong vút. Đôi vai để trần gầy mỏng manh tạo cho cô một nét tiểu thư, đài các. Cánh tay, búp chân cô thon dài, màu da hồng tự nhiên (làm bằng cao su đấy nhé!). Chân cô đi đôi giầy cao gót, kiểu giầy của các cô người mẫu. Tưởng như cô đang bước những bước điệu đàng trên sàn diễn thời trang.
Gợi ý:
Các em có thể viết một đoạn để tả các đồ chơi sau: tò he, búp bê tí hon bằng bột, chong chóng, tàu thủy, bộ điện thoại, bộ xe đua, bộ cờ triệu phú… theo cách viết đoạn văn trên.
ĐOẠN VĂN TRONG BÀI VĂN MIÊU TẢ ĐỒ VẬT
(Tiết 1 – Tuần 17)
A. Mục tiêu:
– Biết nội dung của từng đoạn văn trong một bài văn.
– Biết viết từng đoạn văn trong một bài văn.
B. Nội dung
1. Các đoạn văn trong bài “Cái cối tân ” (sách Tiếng Việt 4, tập 1/ trang 143- 144)
– “Cái cối xinh xinh… nhà trống” (mở bài): giới thiệu cái cối xay lúa mới.
– “U gọi nó… ù ù”: tả bao quát và chi tiết hình ảnh cái cối xay lúa.
– “Chọn… cả xóm”: cách sử dụng cối xay lúa.
– “Cái cối xay… anh đi” (kết bài mở rộng): tình cảm của tác giả đối với cái cối xay lúa cũng như các đồ vật trong nhà.
2. Ghi nhớ:
– Mỗi đoạn văn miêu tả đồ vật có một nội dung nhất định, chẳng hạn: giới thiệu về đồ vật, tả bao quát đồ vật, tả từng bộ phận của đồ vật hoặc nêu lên tình cảm, thái độ của người viết về đồ vật…
– Khi viết, hết mỗi đoạn văn cần xuống dòng.
3. Luyện tập:
a. Đọc bài văn “Cây bút máy” (Tiếng Việt 4, tập 1. trang 170).
– Bài văn gồm mấy đoạn văn (4 đoạn).
– Tìm đoạn văn tả hình dáng bên ngoài của cây bút máy (“Cây bút dài… bóng loáng. ”).
– Tìm đoạn văn tả cái ngòi bút (“Mở nắp ra,… cất vào cặp. “).
– Hãy tìm câu mở đoạn và câu kết đoạn của đoạn văn thứ ba.
Câu mở đoạn: “Mở nắp ra, em thấy ngòi bút sáng loáng, hình lá tre, có mấy chữ rất nhỏ, nhìn không rõ”.
Câu kết đoạn: “Rồi em tra nắp bút cho ngòi khỏi bị lòe trước khi cho vào cặp”.
b. Em hãy viết một đoạn văn tả bao quát chiếc bút của em.
Chiếc bút chỉ to bằng ngón tay trỏ của em, thon dài, độ một gang tay, màu đỏ tươi. Nắp bút mạ kim nhũ bóng loáng. Thanh cài của nắp bút chỉ độ ba li, màu đen. Trên thân bút nổi bật hàng chữ “Bút mài Thiên Long.”.
LUYỆN TẬP XÂY DỰNG ĐOẠN VĂN MIÊU TẢ ĐỒ VẬT
(Tiết 2 – Tuần 17)
A. Mục tiêu:
– Học sinh nhận biết đoạn văn hoặc từng phần bố cục của bài văn (mở bài, thân bài, kết luận).
– Học sinh biết viết từng đoạn văn theo yêu cầu cho trước.
B. Nội dung
1. Đọc đoạn văn trang 172 – 173, sách Tiếng Việt 4, tập 1, trả lời câu hỏi:
a. Các đoạn văn trên thuộc phần nào trong bài văn miêu tả? (Thuộc phần thân bài.)
b. Xác định nội dung miêu tả của từng đoạn văn.
Đoạn 1: “Đó là… long lanh. ” —> tả bao quát chiếc cặp.
Đoạn 2: “Quai cặp… ba lô. ”—> tả chi tiết từng bộ phận bên ngoài cùa chiếc cặp.
Đoạn 3: “Mở cặp ra… thước kẻ. ” —> tả chi tiết các bộ phận bên trong của chiếc cặp.
2. Hãy quan sát kĩ chiếc cặp của em hoặc của bạn em và viết một đoạn văn miêu tả đặc điểm bên ngoài của chiếc cặp đó.
Các em xem phần gợi ý (sách Tiếng Việt 4, tập 1, trang 176), trả lời các câu hỏi gợi ý, sắp xếp các câu trả lời cho mạch lạc thành đoạn văn.
Đoạn văn mẫu:
Chiếc cặp hình chữ nhật. Nó to bằng hai quyển sách giáo khoa ghép lại. Cặp được làm bằng nhựa giả da, màu đen bóng. Những đường may viền cặp chạy chỉ nổi hai đường song song vừa chắc chắn, vừa trang trí cho cặp một nét đẹp riêng biệt có vẻ giản dị mà nghiêm túc như nhắc nhở em phải rèn luyện nghiêm khắc và chăm chỉ. Cặp có quai xách, bản rộng ba phân, làm bằng da mềm, cầm rất êm tay. Vừa có quai xách, cặp còn có cả quai đeo được làm bằng vải bố rất chắc chắn. Chiếc cặp được đóng kín bằng hai khoá mạ kền sáng loáng. Hai khoá vuông vức, to bằng ngón tay em xếp khít lại. Em có thể mở cặp dễ dàng bằng cách ấn nhẹ tay vào hai khóa: một tiếng tách nhẹ nhàng vang lên là cặp đã được mở ra.
3. Hãy viết một đoạn văn tả đặc điểm bên trong chiếc cặp của em theo những gợi ý sau:
Chiếc cặp có mấy ngăn? Vách ngăn được làm bằng gì? Trông như thế nào? Em đựng gì ở mỗi ngăn?
Đoạn văn mẫu:
Mở cặp ra, bên trong cặp gồm ba ngăn lớn và một ngăn nhỏ. Hai ngăn lớn làm bằng nhựa, ngăn nhỏ có lắp dây kéo. Em đựng sách giáo khoa, vở vào hai ngăn lớn. Ngăn bé, em dùng để đựng dụng cụ học tập như tẩy, thước kẻ, bút rất tiện dụng vì nhờ khoá dây kéo, các vật đựng ngăn này không bị rớt ra ngoài. Ngăn nhỏ ngoài cũng có dán hình hai chú gấu, rất ngộ nghĩnh. Hai bên chú gấu chính là chốt để ấn khoá cặp vào. Các ngăn cặp và hình trang trí, các khoá cặp được bài trí rất hài hòa. hợp lí.
LUYỆN TẬP XÂY DỰNG MỞ BÀI
TRONG BÀI VĂN MIÊU TẢ ĐỒVẬT
(Tiết 1 – Tuần 19)
A. Mục tiêu:
Học sinh biết viết hai cách mở bài của một bài văn miêu tả đồ vật (gián tiếp hoặc trực tiếp).
B. Nội dung
1. Mở bài trực tiếp:
– Giới thiệu ngay đồ vật định tả.
Ví dụ: Tả chiếc cặp sách.
Vào đầu năm học mới, bố mua cho cm một chiếc cặp sách.
2.Mởbài gián tiếp:
– Dùng những hình ảnh, sự việc khác, đi từ xa đến gần để giới thiệu đồ vật định miêu tả.
Ví dụ: Tả chiếc cặp sách.
Giới thiệu:
Kho tàng của bố là cái tủ sách chễm chệ ở phòng làm việc. Kho tàng của mẹ là phòng bếp, phòng ăn với rất nhiều dụng cụ làm bếp từ thô sơ đến hiện đại. Kho tàng của em chính là chiếc cặp sách đi học.
Nhận xét:
3. Dưới đây là một số đoạn mở bài cho bài văn miêu tả cái cặp sách. Các đoạn ấy có gì giống và khác nhau?
a. Vào ngày khai trường, bố em mua cho em một chiếc cặp sách rất đẹp. (mở bài trực tiếp)
b. Ai là học sinh mà chẳng có cặp sách! Thế mà suốt mấy năm nay em chỉ có một chiếc túi vải mang tới trường, (mở bài trực tiếp)
c. Chủ nhật vừa qua mưa nặng hạt, em không đi thăm bà ngoại được, ba bảo em giúp ba sắp xếp lại cái tủ ở trong buồng. Giữa đống đồ đạc cũ ba dỡtừ trong tủ xuống, chợt em gặp lại chiếc cặp nhỏ đã theo em đi học suốt hai năm lớp một, lớp hai. (mở bài gián tiếp)
• Điểm giống của các đoạn văn: nội dung đều là giới thiệu chiếc cặp sách (mở bài).
• Điểm khác nhau của các đoạn văn:
Cách mở bài khác nhau:
– Mởbài trực tiếp: a, b.
– Mở bài gián tiếp: c.
3. Viết một đoạn văn mở bài cho bài văn miêu tả cái bàn học của em:
• Theo cách mở bài trực tiếp:
Đoạn văn mẫu: Ngay cửa sổ phòng em, cái bàn học được kê ngay ngắn, gọn gàng và ngăn nắp.
• Theo cách mở bài gián tiếp:
Đoạn văn mẫu: Ngoài những người bạn thân thiết, gắn bó với em, theo em đến trường là sách, vở, bút, hộp màu…. chia sẻ với em mọi niềm vui, hăng say trong từng tiết học, em còn có một người bạn thầm lặng, giúp đỡ em rất tích cực trong việc học tập. Đó chính là anh bàn học.
LUYỆN TẬP XÂY DỰNG KẾT BÀI
TRONG BÀI VĂN MIÊU TẢ ĐỒVẬT
(Tiết 2 – Tuần 19)
A. Mục tiêu:
Học sinh biết viết kết bài mở rộng cho một bài làm văn tả đồ vật.
B. Nội dung
Kết bài mở rộng:
Từ đồ vật đang tả, các em liên hệ thực tế, nêu các mối tương quan, liên quan đến đồ vật đang ta hoặc liên hệ đến bài học thực tế về cách sử dụng hoặc mọi hình ảnh tương quan với đồ vật đang tả.
1. Đọc bài văn “Cái nón” (sách Tiếng Việt 4, tập 2, trang 11) trả lời các câu hỏi sau:
a. Xác định đoạn kết bài: từ “Má bảo… méo vành”.
b. Theo em, đó là kết bài theo cách nào? (kết bài không mở rộng).
2. Cho các đề sau:
a. Tả cái thước kẻ của em.
b. Tả cái bàn học ở lớp hoặc ở nhà của em.
c. Hãy tả cái trống trường em.
Kết bài mẫu:
(Mởrộng)
a. Cái thước kẻ là dụng cụ học tập không thể thiếu của học sinh. Ngoài việc giúp em vẽ đường ngay, kẻ thẳng, cái thước kẻ như nhắc nhở em phải nghiêm túc trong học tập, làm bài chuẩn xác như từng vạch mi-li-mét của thước. Tương lai mai sau của em dường như được tính bằng từng vạch thước kẻ của thời gian học tập hôm nay.
b. Theo suốt thời gian ngồi dưới mái trường, cái bàn học cùng em bước vào tương lai rộng mở. Sau này, khi em tốt nghiệp Tiểu học, cái bàn sẽ được chuyển lại cho em gái em. Cái bàn ghi dấu ấn tất cả thành tích học tập cùa em. Em muốn nói với cái bàn: “Cậu đã giúp tớ học giỏi như hôm nay!”.
c. Trải qua bao nhiêu năm học, bác trống trường tiễn từng lớp đàn anh tốt nghiệp, đón từng lớp mầm non vào Tiểu học. Một năm nữa, khi em tốt nghiệp Tiểu học, bác trống sẽ gióng từng hồi trang trọng chào những cô cậu học trò nhỏ. Xa bác trống, em nhớ bác biết bao! .
CÁC BÀI VĂN MẪU
Đề 1Tả chiếc cặp sách của em.
BÀI LÀM
Theo suốt em những năm học trước là chiếc cặp hình gấu, mẹ mua từ hồi đi mẫu giáo. Năm học lớp bốn này, mẹ mua cho em một chiếc cặp mới khá oách. Mẹ vui vẻ: “Để con đựng đủ sách vở của một cậu học trò lớp bốn.”.
Chiếc cặp mới khá to. Cặp hình chữ nhật, bề ngang rộng hai gang tay em, bề dài đo được ba gang tay. Cặp được làm bằng da màu nâu bóng. Cặp chỉ có một khoá to bản rộng bằng bốn ngón tay em ghép khít lại. Khoá làm bằng kim loại, mạ kền sáng bóng có ổ tra chìa khóa. Gắn ngay khoá cặp, chiếc chìa khoá bé xinh như dầu tăm bông. Nắp cặp hình thang, đáy bé gắn khoá cặp, đáy lớn hình thang gắn quai cặp. Quai cặp dày độ nửa xăng-ti-mét, may bằng vải da chồng nhiều lớp rất chắc chắn. Quai cặp màu nâu có đường viền màu đen nom rất mỹ thuật. Cặp vừa có quai xách, lại vừa có cả dây đeo. Dây đeo là hai mảnh vải da nâu dài, rộng hai phân may khít vào nhau, có thể điều chỉnh độ rộng, hẹp bằng hai khoá chỉnh dây màu vàng kim nhũ. Em khoác thử dây vào vai rất vừa vặn. Ấn tay vào khoá cặp, tiếng tách vang lên nghe rất vui tai. Bản khoá nhún xuống luồn qua một vành khoá nổi hình chữ nhật, thế là em đã mở cặp. Bên trong cặp có ba ngăn: lớn, vừa, bé và một túi nhỏ có gắn nút bấm, may đính vào ngăn lớn. Các ngăn cặp đều làm bằng da thuộcđể mộc không xi còn mặt nhám sần tay. Ngăn lớn nhất có thể vừa vặn sáu quyển sách giáo khoa. Ngăn vừa đựng đủ vở của các môn học (độ bốn quyển vở một trăm trang). Ngăn bé vừa đủ để em đặt vào đó bảng con, hộp viết, khăn lau bảng con… Túi nhỏ đính nút bấm rất đẹp, nó có hai ngăn làm bằng vải nhựa tốt, nắp túi có đồ gài bút vào. Túi nhỏ này em dùng đựng huy hiệu đội, tiền quà mẹ phát mỗi sáng rất tiện. Như một người anh lớn bao bọc đàn em, chiếc cặp da mới đựng vào lòng nó kho tàng của một cậu học sinh lớp bốn: sách giáo khoa, vở học, vở tập, bút… Những quyển vở mới khép mình trong lòng ngăn cặp, lim dim giấc ngủ chờ ngày mai theo em đến lớp. Từng viên phấn trắng trong ngăn để bảng con cũng náo nức chờ ngày mới. Chiếc cặp tỏa hơi da thơm nồng, giữ gìn, ủ ấm bao dụng cụ học tập trong lòng nó, nhắc nhở em phải học hành chăm chỉ để mẹ vui lòng. Chiếc cặp hãnh diện theo em trên đường đến tương lai.
Thế là đội quân chiến đấu vì một tương lai thành đạt có một thành viên mới: chiếc cặp da nâu đẹp trở thành cận vệ cho em trong những ngày dài học tập và rèn luyện. Em sẽ cố gắng học tập, tích lũy kiến thức để trưởng thành, trở thành con ngoan trò giỏi, cháu ngoan Bác Hồ, xứng đáng là người học sinh giỏi, người đội viên tốt.
Đề 2Tả cây thước kẻ của em.
BÀI LÀM
Dụng cụ học tập đơn giản mà vô cùng thiết yếu của học sinh có lẽ là cây thước kẻ. Như bao học sinh khác, em cũng có đầy đủ dụng cụ học tập. Trong đó, cây thước kẻ được giữ gìn bền bỉ từ bốn năm học qua là vật cũ nhất nhưng được em quý nhất.
Thước kẻ của em là loại thước hai mươi xăng-ti-mét. Thước được làm bằng nhựa dẻo, trong suốt, rộng bản nhưng rất mỏng. Bản thước rộng cỡ hai phân rưỡi nhưng bề dày thước chỉ độ hai li. Trên mặt nhựa dẻo trong suốt chia một vạch kẻ màu đỏ song song với chiều dài của thước. Chính giữa vạch đỏ là là lô-gô của nhà sản xuất: một chữ Win in rất mĩ thuật. Hai bên vạch kẻ đỏ là vạch kẻ theo thước đo. Màu đỏ là vạch kẻ theo thước đo xăng-ti-mét. Đơn vị nhỏ nhất là một xăng-ti-mét và đơn vị lớn nhất là hai mươi xăng-ti-mét. Vạch kẻ còn lại là vạch kẻ theo thước đo inch. Đơn vị nhỏ nhất là một inch và đơn vị lớn nhất là tám inch. Tuy em dùng cây thước này đã bốn năm học nhưng thước còn bóng đẹp, vạch kẻ số xăng-ti-mét còn rất rõ ràng, không bị mờ. Đó là nhờ em đã giữ gìn cây thước rất cẩn thận, cất nó vào ngăn cặp sau mỗi buổi học và sau mỗi lần đo giấy làm thủ công. Em lau thước bằng một mảnh vải mịn nên nó không hề bị trầy xước. Tuy thước chẳng sáng bóng nhưthước mới nhưng mặt nhựa còn trong trẻo và rất đẹp. Thước giúp em rất đắc lực trong việc học: gạch chân tiêu đề các môn học, kẻ lỗi bài chính tả, vẽ hình các bài toán, đo các đường thẳng, cạnh của các hình… rất nhiều công dụng của thước không đếm xuể. Ngay từ lớp một, em đã được cô giáo hướng dẫn cách dùng thước, không được gạch tay. Ngoài giúp em trong việc học, đường thẳng vẽ từ thước luôn nhắc nhở em phải ngay thẳng, trung thực trong việc học tập, rèn tính cẩn thận, chính xác. Mọi sinh hoạt, học tập, rèn luyện của em cũng được sắp xếp ngăn nắp, rõ ràng như vạch kẻ đường thăng của thước.
Cũng với bút mực, bút chì, tẩy, màu tô, thước kẻ chính là người chiến sĩ công binh xuất sắc. Thước khi xóa bỏ một câu viết sai cũng nghiêm túc như khi gạch chân một tiêu đề môn học hay đóng khung một đáp số của bài toán. Chiến công thầm lặng của thước cũng ngời sáng như chiến công của chiến sĩ khai đường cho chiến dịch và dọn dẹp chiến trường sau trận đánh. Cây thước góp công xây dựng thành tích học tập của em thật đáng yêu, đáng quý.
Đề 3Tả cái bàn học ở lớp hoặc ở nhà của em.
BÀI LÀM 1
(Tả cái bàn học ở lớp)
Sắp xếp thành hai dãy ngay ngắn choáng hết lớp học là bàn học sinh. Bàn của em ngồi là bàn đầu tiên bên phải bảng đen lớp học, nhìn từ phía bục giảng xuống lớp.
Đó là một cái bàn dài có ngăn để cặp sách, làm bằng gỗ. Mặt bàn dài hai mét, rộng năm mươi phân, được bào chuốt rất nhẵn và đánh vec-ni màu nâu bóng loáng. Sát mép bàn phía ngoài đóng hai gờ nẹp một xăng-ti-mét song song với chiều dài bàn. Khung gò này rộng mười xăng-ti-mét, là chỗ chúng em để bút viết trong giờ học. Bốn chân bàn vuông vức, cao độ bảy mươi phân. Bốn chân bàn được đóng chặt bởi các cày ngang bên dưới làm cho chân bàn chắc chắn, không bị xô lệch. Chính giữa cây ngang bên dưới bàn là một cây dài rộng độ bốn xăng-ti-mét, dày ba xăng-ti-mét đóng chắc, song song với chiều dài bàn và đáy ngăn bàn. Ngăn bàn làm bằng một tấm ván liền bề rộng, bề dài giống mặt bàn. Hông bàn rộng mười lăm xăng-ti-mét, cũng được bào nhẵn, đánh vec-ni như mặt bàn. Ngăn bàn là nơi chúng em để cặp sách. Mỗi bàn học sinh như vậy có bốn bạn ngồi. Mồi buổi học chúng em luôn được tổ trực nhật nhắc nhở giữ gìn bàn sạch và phải lau bàn và không được xả rác trong hộc bàn. Hết sức thầm lặng và chịu đựng, cái bàn giúp chúng em có chỗ tựa bằng phẳng ngay ngắn để viết bài, làm bài. Em luôn luôn giữ gìn bàn học ở trường, vừa thể hiện ý thức giữ gìn tài sản chung, vừa tỏ lòng biết ơn cái bàn học. Em không bao giờ xô đẩy bàn ghế, làm chúng vavào nhau và méo lệch. Tuy cái bàn học là của chung nhưng đối với em nó như một người bạn thân thiết. Các anh chị đàn anh học trước đã giữ gìn cái hàn sạch đẹp, chúng em cũng cần noi gương các anh chị, giữ gìn cái bàn cho các lớp học sinh nhỏ đàn em. Như thế mới xứng đáng là người học trò ngoan có ý thức tốt và đáp lại công lao của cái bàn đối với chúng em.
Mai này, lên lớp năm, em sẽ xa cái bàn học này. Tuy em sẽ ngồi học ở một cái bàn khác giống hệt như thế nhưng trong lòng em, cái bàn học vẫn có nét rất riêng, có mùi gỗ, mùi giấy mực riêng, có những niềm vui riêng. Em thầm nhủ với cái bàn: “Cậu hãy ghi tên tớ vào danh sách những học sinh ngồi chỗ cậu nhé và sẽ ghi những em học sinh tiếp sau tớ. Tớ rất yêu mến cậu, chẳng bao giờ quên cậu đâu.”.
BÀI LÀM 2
(Tả cái bàn học ở nhà)
Cái bàn học xinh xắn kê ở cạnh cửa sổ phòng em đẹp như giấc mơ em hằng ấp ủ từ khi bước vào lớp một. Bố em mua nó vào ngày khai giảng năm học lớp bốn.
Bàn học của em là kiểu bàn giấy văn phòng thu nhỏ dành cho học sinh bậc Tiểu học. Nó cao bảy mươi xăng-ti-mét. Bàn làm bằng ván ép dán mi-ca màu vàng kem. Mặt bàn trơn phẳng, bóng loáng sắc mi-ca trong trẻo giả vân gỗ màu nâu nhạt nổi bật trên nền vàng kem sậm. Bốn góc bàn mài tròn nhẵn bọc nhựa si-mi-li màu nâu sậm. Bàn có ngăn kéo rộng độ bốn mươi lăm xăng-ti-mét. Chỗ này em dùng để giấy làm thủ công, các bài tập kiểm tra và hộp màu. Bên phải bàn gồm ba ngăn kéo rộng ba mươi lăm xăng-ti-mét. Ngăn đầu tiên em dùng đựng bút viết, các đồ dùng học tập. Ngăn thứ hai em dùng để sách giáo khoa, tập vở. Ngăn cuối cùng là chỗ ngủ của búp bê, người máy, hộp ráp siêu nhân… tất cả đồ chơi mà em có được xếp ngay ngắn và cất ở đây. Mỗi góc bàn gắn một thanh sắt rộng bản và được bắt vít chắc chắn với bánh xe làm bằng nhựa tốt. Em có thể di chuyển bàn đi dễ dàng nhờ bốn bánh xe này. Vì muốn kê bàn chắc chắn ở cửa sổ, bố em đã gạt khoá lăn của bánh xe. Muốn đẩy bàn sang chỗ khác, em chỉ cần mở khoá gạt là bánh xe di chuyển bình thường. Hông bàn và các ngăn kéo đều dán mi-ca cùng màu với mặt bàn. Bàn học của em là sản phẩm lắp ghép tiện dụng của nền công nghiệp nhẹ hiện đại. Giá của nó không quá đắt. Dáng dấp của nó mang dấu ấn của hàng hoá sản xuất hàng loạt nhưng nó là tài sản oách nhất của em. Bàn học của em không đẹp bằng bàn gỗ làm việc của bố nhưng rất dễ thương. Màu vàng kem nâu của chiếc bàn rất hợp với kiểu dáng của nó. Ngồi vào bàn học, thẳng lưng viết bài, làm bài, em thấy mình lớn lên nhiều, trang trọng chẳng khác gì một cô giám đốc nhỏ. Bố xoa đầu em hôm vừa kê xong chiếc bàn:
– Bố chúc con học giỏi nhé, cô giám đốc tí hon của bố!
Rất biết ơn bố mẹ và vui mừng khôn xiết khi được bố mua cho riêng hẳn một cái bàn mới, em cảm động thưa:
– Con cảm ơn bố, con sẽ cố gắng học tập để trở thành giám đốc như bố bảo ạ. Mỗi khi ngồi vào bàn học, em luôn luôn nhớ lời hứa đã nói với bố. Em học hành chăm chỉ và giữ gìn bàn học cẩn thận. Em rất biết ơn những chú công nhân đã lắp ghép nên chiếc bàn học tiện dụng và phù hợp với thu nhập gia đình của người dân. Mai này lớn lên, em sẽ đóng góp công sức của mình giúp đỡ gia đình và xã hội, góp phần làm cho đời sống nhân dân cũng như tiện nghi học tập của học sinh tiến bộ hơn.
Đề 4Tả cây bút chì của em.
BÀI LÀM 1
Khác với những dụng cụ học tập được giữ gìn nhiều năm để dùng đi, dùng lại, một vật dụng không thể thiếu của các cô cậu học sinh mà phải chịu mòn dần, biến mất và mua mới, đó là cây bút chì.
Cây bút chì cùa em là một loại bút chì chuốt như thế. Nó cũng giống loại bút chì 2B bình thường dùng cho học sinh. Có khác chăng là em không mua nó. Nó là tặng phẩm của dì em trong kì hè vừa qua, khi dì về thăm quê hương. Cây bút chì hiệu Gribert, do nước Pháp sản xuất. Nó dài hơn một gang tayem. Cây bút chỉ to bằng ngón tay trỏ của em, sơn màu đỏ huyết, dụ bóng loáng. Một đầu bút được vuốt nhọn để lộ ngòi chì màu đen mun. Đầu bút còn lại bịt kín, sơn một vành kim nhũ vàng lóng lánh. Sát vành kim nhũ, dấu hiệu chì No khác đậm màu vàng kim. Thân chì thon đều, khắc đậm chữ Gribert màu vàng kim nhủ, kiểu chữ hoa Gô – tích sang trọng, bay bướm nổi bật trên nước sơn do. Khác với các loại bút chì nổi tiếng trên thế giới, hãng Gribert ghi kí hiệu bút chì mà hãng sản xuất bằng số. Cây bút chì mang kí hiệu No là cây bút chì mềm mại, tốt nhất trong một hộp bút chì cấp loại 2B. Dì em đã đặt tất cả tình yêu mến của dì dành cho em trong món quà nhỏ bé mà thật đặc sắc. Dì biết em say mê môn hội họa đánh sáng tối và bút chì tốt thế này là món quà mơ ước của tất cả những người mê vẽ. Tất nhiên là em không sử dụng bút chì một cách phung phí. Em gạch chân môn học một cách nhẹ nhàng, thận trọng, sửa bài cẩn thận và cất kĩ sau mỗi buổi học, tránh để bút bị rơi sẽ dễ bị gãy ngòi chì bên trong. Bút chì dù tốt thế nào mà không biết giữ gìn cũng sẽ tự bị gãy bên trong và như thế dùng rất hao. Ngoài giờ vẽ theo chương trình, em còn học vẽ ở nhà văn hoá quận. Vì thế cây bút chì là trợ thủ đắc lực giúp em tiến bộ rất nhiều trong môn học em rất yêu thích này.
Em thật cảm động và biết ơn dì, em sẽ tặng dì tác phẩm của em: một bức tranh vẽ tĩnh vật bàng bút chì đen. Em hy vọng là dì sẽ thích.
Cùng với thời gian học tập, cây bút chì của em hiện chỉ còn đúng mười lăm xăng-ti-mét. Rồi nó sẽ hết, thành quả học tập mà em đạt được sẽ thay thế cho sự tiêu mất của cây bút chì, xấp tranh vẽ của em sẽ dày lên. Em sẽ cố gắng học tập để đáp lại mong mỏi của bố mẹ, đáp lại tình yêu mến của dì em và sự chăm sóc tận tình của cô giáo em.
Đề 5Tả một đồ vật mà em thích.
Phân tích đề bài:
– Yêu cầu đề: Tả đồ vật.
– Đối tượng tả: một đồ vật.
– Giới hạn đề: em thích (đồ vật em thích không hạn chế là gì, có thể là dụng cụ học tập, sách vở, đồ chơi, giày dép… tùy em lựa chọn, đồ vật không nhất thiết phải là của em).
BÀI LÀM 1
(Tả chiếc xe đạp của em)
Năm em tròn bốn tuổi, bố tặng em một chiếc xe đạp. Mãi cho đến bây giờ, khi đã cao lớn lên khá nhiều, cm vẫn còn dùng chiếc xe đạp ấy. Chiếc xe đạp từ thuở mới đi mẫu giáo là món đồ mà em yêu thích nhất.
Chiếc xe đạp cao bảy mươi phân, sơn màu xanh nước biển. Sườn xe dán nhãn hiệu Martin màu xám bạc. Vành bánh xe bằng nhôm sáng bóng với các nan hoa thép trắng. Bánh sau của xe có gắn một bánh xe nhỏ, choãi ra như chân chống xe, có thể điều chỉnh cao thấp. Bánh xe này giữ xe thăng bằng, giúp em tập đi dễ dàng. Khi em đã đi vững, biết điều khiển tay lái rồi, bố tháo cái bánh xe nhỏ này ra, chiếc xe đạp của em giống hệt chiếc xe đạp của người lớn. Tay lái xe làm bằng thép trắng, tay cầm có vỏ bọc nhựa màu đỏ, mịn như nhung. Hai dây thắng màu trắng, cong vồng lên, chéo nhau thành hình chữ V, gài một con bướm nhựa màu vàng kim. Tay lái bên trái có gắn một cái chuông, cần chuông ló ra tròn tròn. Ấn tay vào giữa cần chuông, tiếng kêu “kính coong” vang lên nghe rất oách. Yên xe bọc nệm mềm màu đen, thon thon, em ngồi rất vừa vặn. Bố mua cho em loại xe rất tốt, ấn chân vào bàn đạp nhẹ mà xe vun vút lao tới và tiếng xích xe nghe ro ro, hai vành bánh xe quay mạnh, nan hoa sáng trắng, loang loáng như gương. Em nhớ mãi buổi đầu tập xe, bố vịn xe cho em ngồi vào yên và đạp xe. Nhờ bánh xe nhỏ, em tập đi xe một cách dễ dàng. Cả nhà vỗ tay động viên em. Em gắng sức đạp một vòng quanh sân và ngẩng cao đầu vui sướng: “Con đạp xe được rồi.”. Chi trong hai tuần, bố tháo bánh xe nhỏ ra và em đi được xe đạp một cáchthăng bằng, dễ dàng. Bố giúp em giữ xe rất tốt: em dùng giẻ lau sạch bụi đất và nước bắn vào xe, bố tra dầu mỡ vào các ổ trục. Nhờ thế, đã năm năm qua, chiếc xe đạp của cm vẫn còn sáng mới, màu sơn còn bóng đẹp, vành xe, bánh xe trắng sáng như ngày mới mua. Từ lớp ba, em đã tự đi học bằng xe đạp. Để tránh đường lớn nhiều xe cộ không an toàn, em đi học theo con đường làng để đến trường. Nắng cũng như mưa, dù đường khô ráo hay lầy lội, chiếc xe đạp chịu thương chịu khó đưa cậu chủ nhỏ đến lớp hằng ngày. Tiếng xe ro ro trò chuyện cùng em, bánh xe cùng em lăn qua những chặng đường miệt mài học tập. Em rất tự hào khoe với các bạn về nó: “Đây là chiến mã của tớ!”.
Cùng với tình yêu bao la, sự chăm lo ân cần của bố mẹ; các tiện nghi vật chất dành cho em ngày càng nhiều lên: áo quần, cặp sách, đồ chơi, bàn học, máy tính… Mỗi một tối đi ngủ em như nghe tiếng xe thì thầm với mọi vật trong nhà: “Tớ là đôi chân của cậu chủ, tớ có mặt cùng với các cậu, có khi còn sớm hơn ấy chứ.”. Mơ màng khép mắt ngủ, em muốn nói với xe: “Phải, cậu là bạn của mình từ hồi lên bốn.”.
BÀI LÀM 2
(Tả cái mũ em dùng hằng ngày)
Cùng với đời sống ngày càng văn minh, vật dụng của con người ngày càng tối tân. Quần áo, trang phục đều được giới thiệu theo thời trang, kiểu mốt. Cái mũ lưỡi trai em dùng hằng ngày là cái mũ mẹ mua từ hai năm trước, bền bỉ mà vẫn đẹp, vẫn hợp thời. Đó chính là món đồ mà em yêu thích nhất.
Cái mũ lưỡi trai may bằng vải sợi len, màu cà phê sữa. Kiểu mũ tròn đỉnh thông dụng. Phần đầu mũ may ráp bàng sáu mảnh vải tam giác, đường may dày dặn, chắc chắn. Đỉnh mũ đính một nút bọc vải cùng màu với mũ. Phía trong mũ lót lưới nhựa mềm và vải lót cô-ton màu đen. Lưỡi trai bằng nhựa bọc vải chìa ra phía trước, nom giống một cái mỏ vịt ngang và bẹt. Vành mũ may cạp với dài nhựa mềm, bỏ vào trong cho mũ được chắc chắn và phồng thăng, tròn trịa. Phía trước mũ, chỗ nối lưỡi trai, người ta thêu một nốt nhạc trên một dòng lượn bay bướm. Chỉ thêu màu đỏ sậm nổi bật trên nền cà phê sữa. Phía sau mũ là chốt gài, may bằng một nẹp vải hai phân có gắn khoá điều chỉnh rộng, hẹp được lót vải cẩn thận để khi đội mũ, khoá mũ không chạm vào gáy. Cái mũ của em chẳng những cùng em dãi nắng dầm mưa mà nó đã có lần cùng em lên sân khấu diễn kịch khi em thủ vai ông bố trong một trích đoạn kịch phòng chống ma túy. Cái mũ của một cậu học sinh tiểu học vẫn hợp thời trang trong nghệ thuật sân khấu, oách chưa?
Đã qua hai năm dùng nên cái mũ đã nhạt màu đi đôi chút. Tuy vậy, nó vẫn rất đẹp với kiểu dáng cổ điển mà không bao giờ lỗi thời. Em giữ gìn mũ rất kĩ và biết ơn mẹ em đã chăm sóc em từng li, từng tí. Em rất tự hào về mẹ, mẹ đã chọn cho em cái mũ mà ai cũng khen là rất đẹp.
BÀI LÀM 3
(Tả cái hộp bút em dùng hằng ngày)
Trong buổi tổng kết năm học lớp Ba vừa qua, cô giáo em có phần thưởng riêng của cô dành cho học sinh giỏi của lớp. Có năm bạn được phần thưởng cô tặng. Mỗi bạn được một món, không bạn nào giống bạn nào. Phần em, em được cô tặng một hộp đựng bút.
Cái hộp đựng bút màu xanh da trời in hình chú gấu Mi-sa bê một quả bóng. Hộp được làm bằng nhựa tốt, bọc nệm nhựa êm ái. Hộp dài hai mươi xăng-ti-mét, rộng tám xăng-ti-mét và dày hai xăng-ti-mét. Hộp được thiết kếnhư một quyển sách. “Bìa sách” mở ra là nắp hộp, gắn một mảnh kim loại to bằng một đốt tay em. Nắp hộp đóng kín nhờ lực hút của hai thanh nam châm gắn ở phần hộp để bút. Trong phần đáy hộp bút, người ta ép đính một mảnh nhựa dẻo rộng sáu phân, may các vành để gài bút vào. Em gài cẩn thận bút mực, bút chì vào các vành tròn đó. Ở một góc của hộp viết có ngăn ô dùng để đựng tẩy và đồ bào chuốt bút chì. Thước kẻ đặt vào hộp vừa khít, không cần gài vào các vành may sẵn. Suốt mùa hè, cái hộp bút đã được em chuẩn bị kĩ càng chờ ngày đón năm học mới. Lên lớp bốn, món quà tặng thưởng của cô giáo chủ nhiệm lớp ba đã theo em vào năm học mới như một lời nhắc nhở động viên em học tập. Em giữ gìn hộp viết cẩn thận và thật sự hạnh phúc khi lúc nào cùng cảm thấy cô giáo cũ thật gần gũi, thân thương.
Hằng ngày lấy bút viết ra học tập, em đều nhớ đến những lời dạy dỗ ân cần của cô giáo cũ. Em rất biết ơn cô giáo đã yêu thương, chăm lo cho em suốt năm học qua. Em sẽ cố gắng đạt được nhiều thành tích học tập hơn nữa để các thầy cô giáo luôn tự hào về chúng em.
Đề 6Tả chiếc áo em mặc đến lớp hôm nay.
BÀI LÀM
Học sinh trường em mặc đồng phục quần âu xanh, áo sơ-mi trang. Chiếc áo em mặc đến lớp hôm nay là áo sơ-mi trắng mẹ đã mua khi vào năm học mới.
Áo của em được may bằng loại vải cô-ton tốt, màu trắng tinh. Kiểu áo rất xinh, là kiểu cổ sơ-mi thắt nơ, tay phồng dành cho nữ. Co áo là cố sơ-mi cách tân có viền bèo ren, được lót vải cho đứng cổ. Lớp ren viền cổ tạo cho cổ áo một nét duyên dáng, thùy mị. Hai bên nẹp cổ đính một nẹp vải dài bốn mươi đề-xi-mét dùng để thắt nơ. Tay áo cắt ngắn rất phồng, tròn như đèn lồng. Thân áo may rất vừa vặn với người em. Lưng áo may liền một mảnh nhưng hai tà áo của thân trước có thêu hoa chìm rất mĩ thuật. Đinh áo lật lai ba xăng-ti-mét, đính sáu nút nhựa ánh bạc lấp lánh như màu vỏ ốc. Đường chỉ chạy viền tà sắc sảo, rất nhỏ làm cho lai áo mềm mại, uyển chuyển ôm sátthân mình. Trên ngực áo phía trái mẹ đính huy hiệu trường cẩn thận. Mặc áo vào, cài nút cẩn thận, em thắt nơ nơi cổ áo. Cái áo vừa vặn thoải mái, làn vải mềm mại, mơn man trên nền da tạo cho em cảm giác thật dễ chịu. Trong chiếc áo đồng phục em thấy mình thật chững chạc và xinh hơn. Chiếc áo thơm tho, êm ái như tình mẹ yêu con, ân cần bao bọc, chăm lo cho con. Em yêu mẹ và rất biết ơn mẹ đã mua cho em một chiếc áo đẹp như thế. Hằng ngày, sau buổi học em mắc áo vào móc áo, đến tối mẹ về giặt đồ cho cả nhà em mới đem ra nhờ mẹ giặt giúp. Mẹ căn dặn em phải giữ gìn áo như thế để màu áo luôn trắng mới không bị mồ hôi làm ố vàng.
Em rất thích chiếc áo đồng phục mẹ mua, em hứa sẽ học chăm ngoan, đạt thành tích tốt để ba mẹ vui lòng.
Đề 7Tả cái trống trường em và nêu cảm xúc của em mỗi khi nghe tiếng trống trường.
BÀI LÀM
Cao chót vót giữa sân trường là anh cột cờ kiêu hãnh nâng lá cờ Tổ quốc tung bay trước gió. Điềm đạm, khoan dung là cụ bàng già rì rào cành lá che mát sân trường. Oai vệ, nghiêm nghị ra lệnh cho chúng em chính là bác trống trường.
Gọi bác trống bằng “bác” quá xứng với tuổi tác của bác. Bác trống dễ chừng đã vài chục năm tuổi, ngự ở trên một cái giá gồ bào mộc không sơn phết trước văn phòng. Bác trống rất oai vệ với thân hình to tròn như cái chum, làm bằng những mảnh gỗ đều chằn chặn, ghép tròn, phình to ở giữa và túm lại hai đầu. Thân bác trống khoác một cái áo đó tươi, bóng loáng. Người ta chỉ phát hiện ra tuổi của bác khi nhìn hai mặt tang trống. Tang trống làm bằng da trâu căng phăng đã bạc đến màu trắng. Đai trống làm bằng gỗ tốt sơn màu đỏ như thân trống, giữ tang trống được phẳng. Vài năm một lần, nhà trường cho sơn lại thân trống và đai trống, bác trống lại khoác một chiến bào mới nhưng nơi ghi dấu tuổi tác của bác thì không gì che lấp được, mặt tang trống bạc trắng tưởng như mái dầu bạc của các cụ già quắc thước trong làng. Chính vì vậy, bác trống mang vẻ uy nghi của một vị tướng, sự cương quyết già dặn của người ra lệnh mà không một ai từ học sinh đến thầy cô giáo có thể cưỡng lại mệnh lệnh của bác trống ban ra. Bầu bạn với bác trống là dùi trống. Chiếc dùi được đẽo gọt tinh xảo, vừa tay cầm, dài độ bốn tấc đã bóng nhoáng màu gỗ thực chứ không phải màu sơn hay màu véc-ni. Chiếc dùi trống cũng có tuổi giống như bác trống. Mưa cũng như nắng, bác trống làm việc rất đúng giờ. Bác trống nghiêm nghị gióng ba tiếng lớn cho chúng em vào lớp, ra chơi. Bác trống khoan nhặt “cắc, tùng”, ‘’cắc, tùng” cho chúng em tập thể dục. Bác trống vui vẻ thả từng hồi dài để chấm dứt buổi học, tiễnchúng em ra về. Vào những ngày lễ lớn, ngày hội hè, tiếng gọi của bác trống nghe trang trọng, bồi hồi làm sao. Dưới bàn tay thầy hiệu trưởng, bác trống gióng một hồi dài trang trọng khai giảng năm học mới. Với bàn tay cô hiệu phó, bác trống buông giọng “tùng, tùng, tùng” trân trọng đón các em mầm non vào Tiểu học. Bác trống hăng say, giục giã, tràn trề sức trẻ từng hồi “tùng tùng” hoặc “cắc cắc” ở hội trại. Không khí từng buổi hoạt động của nhà trường tràn ngập cảm xúc yêu quý mái trường, hân hoan chào đón những thành tích mới và hăng hái học tập, hoạt động phong trào. Tiếng trống trường vang lên theo em vào lớp học hay lắng đọng trong tim mỗi khi hò về đều dàn trải một tình yêu vô bờ bến đối với mái trường Tiểu học, nơi em cắp sách lần đầu đến trường và từ đó sẽ bay đến những chân trời tương lai mới. Em yêu lớp học, yêu từng vết trầy trên tường lớp, yêu từng gốc bàng, bồn hoa và yêu sao bác trống trường em.
Trường Tiểu học của em nổi tiếng về mọi phong trào, có truyền thống đào tạo rất nhiều học sinh giỏi. Lớp lớp dàn anh đi trước chắc đã mang trong tim hình ảnh trường học và tiếng trống đến tương lai. Em chắc thế vì bản thân cảm thấy rằng: ngay lúc này, khi đang ở lớp bốn tiếng trống trường và hình ảnh bác trống gần gũi thân thương làm sao mà lớn lên em sẽ không bao giờ quên được.
Đề 8Tả chiếc bút máy của em hoặc của bạn em.
BÀI LÀM
Vào năm học mới, mẹ mua cho em nhiều sách vở và dụng cụ học tập. Trong số dụng cụ học tập ấy cây bút máy màu đen nằm trong hộp viết là vật mà em thích nhất.
Chiếc bút máy to bằng ngón trỏ, thon thon, dài độ một gang tay em, màu đen bóng. Chóp thân bút và đầu nắp bút được bọc kim loại màu trắng bạc. Ngay đầu nắp bút, người ta gắn một chốt nhựa trong suốt giữ cái cài bút mạ kim nhũ vàng. Màu vàng kim nhũ của thanh cài bút nổi bật trên nền màu đen viền vành bạc của cây bút. Thân bút khắc hàng chữ trắng, kiểu chữ in hoa nét thanh đậm: Bút mài luyện chữ đẹp Như Hảo. Mở nắp bút ra, phần thân ngòi bút được bọc kim loại bạc, từ thân ngòi, cái ngòi bút lá tre ló ra, dài độ một phân. Ngòi bút làm bằng thép trắng áp sát vào lưỡi gà màu đen. Mở phần thân trên hút ra, em thấy phần bơm mực của bút gồm một ống tròn bé bằng đầu đũa ăn cơm, chỉ dài độ hai phân nối với một trục xoay nhỏ bằng ngòi bút phấn bảng. Phần bơm mực này làm bằng nhựa cứng, trong suốt. Vặn phần trục xoay này, em có thể bơm mực vào hút hay xả mực ra, súc rửa bút dễ dàng. Em bơm ngay mực vào bút và viết thử. Ngòi bút tì nhẹ trên giấy, lướt những hàng chữ đều, nét thanh, nét đậm rất sắc sảo. Bút viết rất êm, mực rađều dặn, chữ viết rất đẹp. Trước mỗi buổi học, em bơm mực và lau bút sạch sẽ, đặt bút vào hộp viết. Bao giờ em cũng lau ngòi bút trước khi viết và ngay cả khi đã dùng xong. Như thế, giữ ngòi được sạch tránh mực đóng khô cặn làm nghẽn mực khó viết. Học xong, em đặt bút ngay ngắn vào hộp viết. Em dùng bút đã được hơn hai tháng nhưng bút nhìn mới như vừa mua hôm qua. Chiếc bút máy mẹ mua khá tốt. Nó giúp em ghi bài và làm bài nhanh chóng. Em luôn luôn đóng nắp bút kĩ càng mới đặt bút xuống bàn, như thế, lỡ bút có bị rơi vẫn không bị hư ngòi. Chiếc bút máy của em vẫn được các bạn trầm trồ là chiếc bút viết êm nhất đấy.
Với người học sinh, chiếc bút máy là dụng cụ không thể thiếu được, như cây súng của người chiến sĩ trên chiến trường. Người chiến sĩ đã chiến đấu vì lý tưởng, sự nghiệp của Tổ quốc; học sinh chúng em với cây bút máy đã và đang chiến đấu trên mặt trận chống giặc dốt. Chúng em hăm hở tiến đến tương lai khoa học tiên tiến với công cụ nhỏ bé nhưng vô cùng thân thương: cây bút máy.
Đề 9Tả tấm lịch treo tường ở nhà em.
BÀI LÀM
Năm nào cũng vậy, gần hết một năm là gia đình em lại háo hức đi nhà sách để chọn lịch treo tường cho năm mới. Năm nay, bố con em đi phố và chọn tấm lịch khá lớn cho năm Giáp Ngọ này.
Trước Tết Dương lịch dăm ngày, bố treo tấm lịch mới ở phía tường phải của phòng khách, giữa hai cửa sổ trông ra vườn nhà. Tấm lịch làm bằng bìa các-ton cứng, khá to, bề ngang năm tấc, dài bảy tấc. Nền tấm lịch màu đỏ tươi, bóng nhoáng. Hai phần ba phía trên tấm lịch là hình một cây mai đơm bông rực rỡ vẽ bằng màu sơn kim nhũ vàng. Chính giữa phần dưới của tấm lịch là lốc lịch, nơi mỗi ngày được in thứ, ngày, tháng trên nền giấy vân hoa mờ. Từng tờ lịch ngày in trên nền giấy vân hoa màu vàng, hồng, xanh. Chữ số tờ lịch to bản, đậm nét rõ ràng. Chủ nhật được in màu đó để phân biệt với các ngày khác trong tuần. Ngày dương lịch in to, chính giữa tờ lịch. Ngày âm lịch in nhỏ hơn bên góc phải tờ lịch. Góc trái tờ lịch in tháng âm lịch, ngày giờ theo lịch âm ngũ hành. Phía dưới ngày dương lịch, nhà xuất bản đã dày công tra cứu và in các câu danh ngôn của vĩ nhân trên thế giới, các ngày lễ lớn, những câu thơ hay. Nhờ tấm lịch, mọi thành viên trong nhà em theo dõi ngày và sắp xếp công việc của mình gọn gàng chu tất. Bố em là người rất nề nếp, bố em luôn luôn nhắc nhở mọi người hoàn tất công việc của mình. Riêng em, mỗi tờ lịch đem đến cho cm những câu thơ, một danh ngôn hay để em ghi nhớ. Phần sau tờ lịch trắng là giấy nháp đế em làm bài, tiết kiệm được vở. Tấm lịch làm phòng khách nhà em sáng lên, ấm áp vui tươi hơn.
Mỗi một ngày qua đi, khi xé một tờ lịch, em luôn ghi nhớ mọi công việc để làm và cần phải làm. Thời gian qua đi không bao giờ trở lại, em nhủ mình phải chăm chỉ học tập để mỗi ngày qua đi không uổng phí. Theo dần với mỗi tờ lịch hằng năm, em trưởng thành theo năm tháng. Em hứa làm theo lời bố dạy bảo đê có sự nghiệp vững vàng trong tương lai.
Đề 10 Tả một đồ chơi mà em thích.
BÀI LÀM 1
(Rô bốtchiến đấu)
Sinh nhật của em là ngày 1 tháng 6. Đó cũng là ngày Quốc tế Thiếu nhi. Ngày sinh năm nay, em nhận được món quà vô cùng thích thú: một rô bốt chiến đấu.
Rô bốt của dì em gửi tặng, nó vượt qua gần năm trăm cây số, từ miền Trung cát trắng, theo đường bưu điện và đến kịp tay em vào ngày sinh. Rô bốt mặc áo giáp, cao tám mươi phân, toàn thân làm bằng nhựa cứng tốt với hai màu xanh dương và xám bạc. Đầu rô bốt to bằng trái cam, đeo mặt nạ hình hột xoài. Cánh tay,chân rô bốt cuồn cuộn bắp thịt. Mồi tay rô bốt cầm một súng máy. Rô bốt mặc áo màu xám bạc có huy hiệu ngôi sao vàng. Chân rô bốt đi giầy đế rất to, vững vàng. Rô bốt hoạt động bằng pin, có nút điều khiển ở sau lưng. Khi em bấm nút khởi động, rô bốt tiến lên phía trước, hai tay đưa súng máy lên cao. Từ nòngsúng máy, ánh sáng lóe như tia lừa điện màu xanh đỏ, đèn vàng ở ngôi sao giữa ngực lấp lánh. Mỗi bước đi của rô bốt nhịp nhàng với tiếng “sè sè chiu chiu” của súng máy. Sau mặt nạ bạc, đôi mắt rô bốt sáng đòn màu xanh dương nhấp nháy từng hồi rất đẹp. Rô bốt tiến lên theo đường thẳng, nó không tự mình đổi hướng được. Điều này làm em hơi buồn, nhưng mẹ nói rô bốt đổi hướng được rất đắt tiền, dì đã rất yêu em mà gửi cho em một chiến binh rô bốt to, rất oách rồi. Em không chơi rô bốt thường xuyên. Mỗi khi có bạn đến, em mới đem ra cùng chơi hay dùng rô bốt đê dỗ em trai em cho nó đừng quấy mẹ. Sau mỗi lần chơi như thế, em đặt rô bốt cẩn thận vào tủ kính, để bày cho đẹp và giữ gìn rô bốt được mới lâu.
Em rất vui có chiến binh rô bốt khổng lồ này. Rô bốt giúp em vui sau những giờ học mệt mỏi, còn giúp em chơi với em trai để mẹ làm việc. Bảo rô bốt bảo vệ em mắt em trai em tròn xoe nhìn em rất chăm chú, đáng yêu làm sao. Em gửi thư cảm ơn dì về món quà dì tặng. Em giữ gìn rô bốt cẩn thận, để dành cho em trai của em chơi nữa.
BÀI LÀM 2
(Búp bê bé gái)
Kì nghỉ hè vừa qua em theo mẹ về quê ngoại chơi, cũng là lúc Hội chợtriển lãm hàng công nghiệp nhẹ của các tỉnh phía nam khai mạc. Dì Nga đưa em đi chơi hội chợ và mua tặng em một búp bê bé gái.
Búp bê là sản phẩm đặc sắc của xí nghiệp lắp ráp giáo cụ trực quan và đồ chơi của thành phố. Búp bê được làm bằng nhựa dẻo và vải nhồi bông. Búp bê to bằng một bé gái thật độ năm tháng tuổi. Đầu búp bê làm bằng nhựa dẻo với đôi mắt nâu có thể nhắm mở, hàng mi dài cong vút. Môi búp bê tô son hồng, tương xứng với đôi má phinh phính, sờ rất mát tay. Mái tóc của cô nàng màu vàng óng uốn loăn xoăn, ôm lấy khuôn mặt bầu bĩnh, sáng hồng. Tay chân búp bê bụ bẫm, làm bằng nhựa dẻo, có vẻ mềm hơn phần đầu. Đặc biệt thân mình cô nàng làm bằng vải nhồi bông. Cô nàng mặc một cái váy ngắn, xòe rộng viền đăng-ten rất xinh xắn. Hai tay áo phồng, cổ áo nhún bèo làm cho búp bê trông điệu làm sao. Phần mình nhồi bông của búp bê được ráp rất khéo léo với tay chân nên có thể đểbúp bê ngồi một cách tự nhiên hoặc bồng đứng lên như em bé thật. Em sung sướng bồng búp bê và cảm thấy phần mình nhồi bông của nó êm êm trong tay mình, giống như lúc em ôm em bé của dì Nga vậy. Em bế búp bê vào phòng dì Nga, đặt búp bê nằm cạnh em bé của dì. Em bé của dì Nga u ơ rất vui vẻ, em nằm cạnh búp bê và cả ba đứa em ngủ say lúc nào chẳng biết.
Kì nghỉ hè ở ngoại trôi qua nhanh chóng. Em trởvề nhà với món quà dễ thương của dì Nga. Em giữ gìn búp bê cẩn thận, khi nào em lớn không chơi búp bê nữa, em gửi về cho em bé của dì chơi. Em cố gắng học giỏi để cả nhà vui lòng và để đáp lại tình thương, yêu mến của dì dành cho em.
BÀI LÀM 3
(Gấu bông)
Hè lớp ba, lần đầu tiên em theo bố về thăm quê nội và ở chơi khá lâu. Mặc dù ở quê có nhiều điều lạ, vui vẻ, nhưng em vẫn bỡ ngỡ chưa quen. Biết em nhút nhát, cô Huyên mua cho em một món quà cực xinh: một chú gấu bông tí hon.
Chú gấu bông ngồi, chỉ cao mười hai xăng-ti-mét, may bằng vải nỉ đen. Chú bé đến nỗi có thể đặt lọt thỏm chú ta vào cốc vại uống bia. Chú gấu xinh tuyệt! Này nhé: tay và mình chú chỉ to đúng nửa bàn tay em, chú khoác một cái áo gi-lê vải ca rô không cài khuy. Từng ô ca rô của áo nổi bật trên nền vải trắng tinh. Ve áo gi-lê đính một ngôi sao bạc, gấu ta ra dáng một cảnh sát trưởng ghê vậy đó. Một cái mũ kiểu cát-két màu xanh lính thủy chễm chệ trên đầu chú gấu. Cái mũ chú gấu đội cũng gắn ngôi sao bạc. Với sắc phục oách như thế, nét mặt chú gấu mới quan trọng làm sao: đôi mắt màu đen bóng, bé bằng hai hạt đậu đen, giống như nhíu lại dưới đôi mày vẽ bằng mực. Chắc là chú gấu đang suy nghĩ ra lệnh gì đây. Mũi chú tròn tròn, ngồ ngộ. Dưới mũi, cái miệng bé xinh như móng tay ngón út làm bằng vải đỏ, nhoẻn cười như tương phản với ánh mắt trịnh trọng của chú. Dưới làn áo gi-lê, phầnbụng chú gấu may liền với mông và chân, nét may sắc sảo, tinh nhuyễn, làm nổi bật hai màu đen trắng giữa thân và chân chú gấu. Chú gấu ngồi choải hai chân ra phía trước, đi giầy nỉ đen. Tay trái chú gấu đặt hờ bên hông, tay phải đưa cao như vẫy chào. Lòng bàn tay chú gấu bé xíu nhưng mũm mĩm, sờ mềm, êm êm. Khi đặt chú gấu vào tay em, cô Huyên nói rất thích thú: “Cháu xem. một chú gấu bé xíu làm cảnh sát trưởng.” Em reo lên vui sướng: “Cháu cảm ơn cô, chú gấu đẹp quá!” Càng ngắm nghía, em càng thấy chú gấu bông tí hon này đẹp lắm: mắt, tay, áo quần của chú sống động như gấu thật chứ không phải bằng bông gòn. Chú gấu an ủi em rất nhiều suốt thời gian ở quê còn lạ lẫm. Chủ gấu giúp em mạnh dạn lên khi kết bạn với các bạn nhỏ trong làng. Chúng em nhanh chóng thân thiết nhau. Ngày trở về thành phố, em nâng cao chú gấu, giơ tay chào tạm biệt các bạn, chào ông bà nội và cô Huyên. Em cảm động hứa hè năm sau sẽ về chơi lâu hơn nữa.
Chú gấu nằm yên bên cạnh em trong toa xe lửa, mang theo hương gió đồng quê và tình yêu của ông bà, của cô Huyên, của các bạn về thành phố. Giờ thì chú ngồi trên bàn học em kiêu hãnh cùng sách vở, bút mực: chú ta là cảnh sát bảo vệ cho em. Nhìn gấu em nhớ nội và cô Huyên. Em mong hè đến, lại cùng gấu về thăm quê nội.
BÀI LÀM 4
(Diều giấy)
Hè về. Tiếng ve râm ran cả không gian yên tĩnh của làng quê. Cây phượng ngay cổng trường đỏ rực màu hoa phượng. Trên cánh đồng đã gặt, trẻ em đông vui như hội. Đứa nào đứa nấy cầm một cuộn dây, chạy thật nhanh để thả diều. Hơn chục chiếc diều lướt gió trên nền trời xanh biếc. Hòa cùng không khí ấy, em bất tay dán ngay một chiếc diều giấy.
Tỉ mẩn với nan tre và giấy nháp đã dùng trong năm học. Gần hai giờ, em đã làm xong chiếc diều giấy. Chiếc diều giấy gồm hai thanh tre cật vát mỏng, cột dính rất chặt bằng chỉ khâu vuông góc với nhau tại hai phần ba chiều dài thanh tre. Nối kín bốn mặt của hai đoạn thẳng đó là bốn thanh tre khác. Trên sườn ấy, giấy nháp được dán kín, nom ngoạn mục như áo quần thời trang. Từ ba đỉnh của tam giác phần thân dưới diều, đuôi và hai vây diều mọc ra bằng những giải băng giấy nối nhau. Đuôi diều dài độ một mét hai, hai vây diều ngắn hơn. Mỗi vây dài bảy tấc, ở hai đỉnh của vây diều, một sợi cước căng ngang, hơi chùn một tí hướng về mũi diều. Dây thả diều được nối tại trung điểm của sợi dây này. Buổi chiều đầu tiên chiếc diều giấy của em “trình làng” là một chiều lộng gió. Chiếc diều cất cánh nhẹ nhàng, chỉ một đường chạy lấy đà của em là diều lướt gió, bay bổng trên không. Em thả dây, nheo mắt nhìn cánh diều căng gió. Nó bay cao nhất trong những cánh diều trên không trung đồng làng lúc ấy. Tiếng sáo diều hay tiếng gió? Em chỉ nghe tiếng vi vu vi vút êm tai. Cánh diều tự do bay cao như tuổi thơ hồn nhiên vui thích củachúng em, reovui, tỏa hương thơm đồng nội. Đôi khi gió dường như ngớt đi, em nhanh tay thu bớt dây, nương theo hướng căng của dây diều, khéo léo giữ cánh diều lơ lửng giữa không trung. Bọn trẻ trong làng phục em sát đất. Chúng đua nhau học cách làm diều.
Không có niềm vui nào vui hơn việc tự làm cho mình một món đồ chơi và hãnh diện thấy đồ chơi của mình lập “chiến tích”. Suốt mùa hè, cánh diều của em giữ vị trí độc tôn trong các cuộc thi thả diều. Em vui sướng hướng dẫn các bạn cách làm diều giấy và chúng em tận hướng một mùa hè thoải mái thả diều, hít thở không khí trong lành của làng quê thơm lừng hương lúa chín.
Đề 11Tả cái bảng đen lớp học.
BÀI LÀM
Cùng với việc tu sửa lại trường lớp, đầu năm học này, tất cả bảng đen lớp học của trường em được thay mới. Đó là bảng đen chống lóa, sản phẩm chất lượng cao của Công ty Thiết bị trường học Trung ương.
Cái bảng mới còn thơm mùi gỗ. Nó được treo ở bức tường phía trên lớp học, chiếm gần hết chiều dài của tường. Cái bảng hình chữ nhật, dài ba mét rưỡi, rộng hai mét, được làm bằng gỗ ép công nghiệp. Nẹp xung quanh bảng rộng bốn phân, được sơn tĩnh điện bóng loáng màu xanh ve, nom cái bảng như được bọc bằng nhựa. Mặt bảng không phải là gỗ hoàn toàn, trên nền gỗ ép người ta bọc một lớp thép từ tính, sơn xanh lá cây đậm. Sản phẩm tiên tiến này giúp chống lóa mắt học sinh. Nền bảng nổi bật chữ phấn trắng mà không bắt ánh sáng và phản chiếu ánh sáng. Từ mọi vị trí của hai dãy bàn học, chúng em đều đọc được mọi nét viết trên bảng rõ ràng. Góc phải bảng là khung ghi lớp và sĩ số học sinh, kẻ bằng sơn trắng. Cái bảng mới làm phòng học sáng hẳn lên. Hằng ngày, cô giáo em giảng bài, ghi chép, treo tranh ảnh lên bảng để dạy chúng em kiến thức của nhiều môn học. Cứ xong một bài học, cô dùng bông phấn bảng lau qua một lượt là bảng sạch như mới. Trước buổi học, đội trực nhật lau sạch bảng, sắp xếp phấn bảng gọn gàng trong cái hộp bé xinh treo phía dưới góc phải bảng. Chúng em rất vui và hài lòng được học cái bảng mới. Nó giúp chúng em đỡ bị các bệnh về mắt hơn loại bảng cũ. Âm thầm mà bao la như mặt bảng rộng, cái bảng chuyên chở trên thân nó một khối lượng khiến thức khổng lồ, hết ngày này qua ngày khác, dìu dắt chúng em trên con đường học tập. Nét chữ chân phương mềm mại của cô giáo trên mặt bảng uốn nán cho chúng em ý văn hay, bài toán khó. Cùng với cô giáo, cái bảng giúp chúng em học tập tốt, trưởng thành hơn. Khi chấm dứt buổi học, cái bảng đen yên lặng nghỉ ngơi. Nó chờ đến buổi học sau lại cùng cô giáo nhịp nhàng làm việc. Không phải là vật sống đểtuần hoàn bằng nhịptim, nhưng cái bảng là bộ phận thở của con đò kiến thức mà các thầy cô giáo đã ân cần đưa đón chúng em đến tận bến đồ cuộc đời.
Đi dài với tháng ngày học tập, cái bảng lớp học trở nên thân quen, thắm thiết với chúng em như người bạn. Nó chứng kiến mọi thành tích cũng như lỗi sai của chúng em. Nó rực rỡ hình vẽ, màu phấn trang trí cho ngày lễ. Ôi, yêu sao tấm bảng đen lớp học.
Đề 12Hãy tả một vật dụng dùng trong gia đình mà em cảm thấy gần gũi với em nhất (ti-vi, tủ lạnh, máy giặt, bộ sa-lông …)
BÀI LÀM 1
(Bộ sa-lông phòng khách)
Gia đình em thường quây quần trò chuyện với nhau sau một ngày làm việc, học tập tại phòng khách. Với em, gần gũi và đáng yêu nhất, đã chia sẻ mọi vui buồn trong gia đình em là bộ sa-lông phòng khách.
Bộ sa-lông gồm hai ghế dài nối nhau thành chữ L chiếm một góc phòng khách. Ghế sa-lông bằng gỗ bọc nệm simili màu nâu. Tay vịn của ghế rộng mười lăm xăng-ti-mét, thẳng vuông êm ái. Lưng tựa của ghế hơi ngã ra phía sau, cao hơn tay vịn độ hai tấc. Lòng ghế thấp nhưng đôn cao nhờ hai nệm mút dày bọc vải nhung màu xám bạc. Mỗi cạnh tựa của một phần góc sa-lông có hai gối tựa dài, bọc vải nỉ dệt hoa văn hỉnh lá màu trắng sữa. Các lớp diềm ren dăng-ten trắng khiến bộ sa-lông trông thật sang trọng. Bàn sa-lông bằng gỗ, mặt kính màu nâu, đặt giữa hai góc sa-lông. Bàn sa-lông có một tầng nhỏ ở chân bàn, là những thanh thép mạ inox sáng choang, chỗ ấy để một vài tờ báo rất tiện. Trên mặt bàn, mẹ em trải khăn bàn vải thêu hoa hồng màu huyết dụ. Cái bàn sa-lông sáng trưng, trang nhã, hợp với lọ hoa tươi đặt trên đó. Bố em thường ngồi đọc báo ở ghế sa-lông. Em thích ngồi lọt thỏm vào tận trong gối tựa của ghế vì nó êm ái không chê vào đâu được. Lớp vải nhung êm mịn của gối tựa mơn man trên làn da, vừa mát dịu, vừa âm ấm, thật dễ chịu. Buổi tối, cả nhà quây quần dưới ánh đèn chùm phòng khách, em cảm thấy thật bình yên và hạnh phúc.
Bộ sa-lông không phải chỉchia sẻ niềm vui, nồi buồn hằng ngày với gia đình em, nó còn chứng kiến những ngày kỉ niệm đáng nhớ: sinh nhật mẹ em, lễ Tết… Bộ sa-lông cũng tràn ngập cảm xúc hân hoan sôi nổi khi bố họp bạn. Nó mở rộng vòng tay ôm em vào lòng sau một ngày học tập ở trường, nó trở nên thân thiết như những người ruột thịt. Vì thế, em luôn lau nó sạch sẽ, giữ gìn cẩn thận để nó luôn được mới.
BÀI LÀM 2
(Máy giặt)
Trợ thủ đắc lực giúp mẹ em trong việc giặt giũ là cái máy giặt. Bố mẹ em mua cái máy giặt cách đây hai năm, khi nhịp sống của gia đình em ngày càng bận rộn, không làm xuể hết công việc.
Cái máy giặt hiệu Panasonic, nó có dung lượng và công suất 7 ki-lô-gam. Vỏ ngoài của máy làm bằng sắt cuốn thành khối chữ nhật đứng, các góc cạnh của máy giặt được bo tròn khéo léo, trơn láng. Máy giặt khoác một cái áo màu xám tro, phía trước dán logo của hãng Panasonic với hình ảnh bọt xà phòng bay lên, mỗi bong bóng xà phòng là khuôn mặt một thiên thần bé xinh. Phía dưới hình ấy là dòng chữ wash màu đỏ trên nền bọt xà phòng của nhãn hiệu máy như cái mặt cười của máy giặt. Máy giặt của gia đình em là máy giặt cửa trên. Nắp máy là hai mảnh lắp ráp xếp mở, màu xám tro, làm bằng nhựa chất lượng cao, có khe cầm tiện lợi. Bảng điều khiển hoạt động máy rộng mười xăng-ti-mét, trải dài hết bề ngang máy giặt. Bảng điều khiển làm bằng phím mềm có các dấu tròn (nút điều khiển) cho từng chức năng hoạt động của máy. Mở cửa máy giặt, bên trong máy là lồng giặt làm bằng inox sáng trưng. Lồng giặt hình ống tròn có nhiều lỗ thoát nước theo hình xoáy. Lồng giặt inox được bao bọc bới một cái rá lớn làm bằng nhựa trắng đục. Vành rá nhựa này dày năm phân, be vào trong chắc chắn. Trên vành rá nhựa, người ta làm một cái ngăn nhỏ để đổ nước xả vải một hộc lắp túi lọc vụn vải. Chính giữa lồng giặt là chốt vít bắt lồng giặt với trục xoay của máy. Nước giặt bẩn chảy ra ngoài theo ống xả nhựa to bằng cổ tay em, cấu trúc hình ruột gà của ống xả rất tiện lợi khi mẹ em lồng ống xả vào cống thoát nước. Phía trái, sau lưng máy là dây điện và phích cắm với nguồn điện. Phía trên, cạnh nắp máy giặt là ống nhựa cao cấp màu trắng, ống này nối với nguồn nước. Máy giặt hoạt động khi bấm nút on và phích điện cắm nối với nguồn điện 220V. Giữa lưng máy giặt, một dây điện tiếp đất nhằm đảm bảo cho người sử dụng máy không bị giật điện. Khi máy giặt khởi động, đèn tín hiệu ở bảng điều khiển sáng lên cùng với tiếng kêu “tít”. Máy giặt dễ sử dụng, em có thể lựa quần áo theo time loại, chọn phím đúng chức năng cần giặt, bỏ xà phòng và nước xả đúng ô qui định, đậy nắp máy giặt, rồi bấm nút khởi động. Nước sẽ chảy vào lồng giặt và máy bắt đầu chu trình giặt. Tùy theo loại áo quần, chu trình giặt có thể kéo dài từ ba mươi phút đến một giờ đồng hồ. Quần áo giặt xong chỉ cần phơi gió nửa buổi là khô ngay. Em thường giúp mẹ giặt đồ và rất hài lòng về cái máy tiện lợi này. Mỗi tuần một lần, em lau máy giặt cho sạch sẽ, không đặt đồ vật nặng lèn nắp máy để máy được bền lâu. Nhờ có máy giặt, mẹ đỡ vất vả hơn rất nhiều khi làm việc nhà.
Em thích cái máy giặt lắm, xem nó như vật sống động có tâm hồn. Mỗi lần bỏ quần áo vào lồng giặt, đậy nắp máy lại, em thường nói với nó như nói với một người bạn:”Cậu giỏi lắm, giúp tớ rất tốt.” Em trân trọng tài năng của các kĩ sư sáng chế, cha đẻ của các loại máy giặt tối tân hiện nay.
BÀI LÀM 3
(Ti-vi)
Vật dụng dùng trong gia đình có cái tĩnh lặng, có cái phát sáng, có cái tỏa nóng… Trong muôn vàn vật tiện nghi của con người, anh chàng Ti-vi là vật ồn ào rôm rả nhất.
Anh chàng ngự chễm chệ trên đầu tủ buýp-phê đặt dưới chân cầu thang của phòng khách. Anh là nhân vật trung tâm và ồn ào nhất phòng. Thân hình anh là một khối chữ nhật. Mặt anh phẳng, mang một lớp gương màu xám nhạt. Anh khoác một cái áo làm bằng nhựa cao cấp màu xám tro vỏ ngoài của anh có từng chấn song song cách đều, có kẽ hở. Khoác một cái áo ngoài như thế, bộ máy bên trong của anh đỡ nóng lên khi anh hoạt động. Ôm lấy gương mặt phẳng của anh là viền bọc nhựa xi kim loại, phía dưới gắn liền với một bảng điều khiển và một nút tròn tắt mở. Ngay chính giữa viền bọc phía dưới, nhãn hiệu công ty điện tử SONY gắn nổi bật trên nền xi kim loại của Ti-vi. Anh Ti-vi luôn tự hào về nguồn gốc xuất thân của mình và rất chăm chỉ hoạt động, xứng danh với hãng đã sinh ra anh. Gương mặt phẳng của anh luôn phát hình rõ nét, màu sắc đẹp chuẩn xác. Âm thanh Ti-vi phát ra được lọc qua loa hifi nên nghe rất trong và ấm. Ban ngày cả nhà đi vẳng, anh Ti-vi lim dim ngủ dưới cái khăn ren mẹ phủ, anh nghỉ ngơi. Chiều về, cơm nước xong, bố mẹ mở Ti-vi đểtheo dõi chương trình thời sự. Anh Ti-vi làm việc nhiều nhất vào các ngày thứ bảy, chủ nhật. Với hệ thống truyền hình cáp, Ti-vi có rất nhiều kênh giải trí, học tập. Chương trình Thế giới Động vật là chương trình mà em thích nhất. Em cũng có thể đi du lịch qua màn ảnh nhỏ. Nếu biết tự chủ, chỉ xem những chương trình bổ ích thì Ti-vi giúp ta có thêm nhiều hiểu biết về đời sống. Ngoài việc giúp cho cả nhà thư giãn, anh Ti-vi còn đem lại cho cả nhà không khí vui vẻ, đầm ấm khi quây quần ở phòng khách.
Cũng như mọi vật trongnhà, anh ti-vi trở thành “thành viên” thân thuộc, chứng kiến mọi vui buồn trong gia đình. Đi dài theo năm tháng, anh ti-vi cũng trở nên “có tuổi”. Dù có nhiều loại ti-vi mới sản xuất tối tân và đẹp hơn, gia đình em vẫn thích dùng ti-vi hiện có. Cả nhà rất quý anh ti-vi, xem anh như một người có tâm hồn vậy.
CHƯƠNG II. MIÊU TẢ CÂY CỐI
CÁC TIẾT LUYỆN TẬP
CẤU TẠO BÀI VĂN MIÊU TẢ CÂY CỐI
(Tiết 2-Tuần 21)
A. Mục tiêu:
– Học sinh nam được cấu tạo bài văn miêu tả cây cối.
– Lập được dàn ý cho bài văn miêu tả cây cối.
B. Nội dung
1. Học sinh đọc bài “Bãi ngô” (sách Tiếng Việt lớp 4, tập 2, trang 30-31).
Phân đoạn:
Đoạn 1: “Bãi ngô…nõn nà”: giới thiệu bãi ngô quê em.
Đoạn 2: “Trên ngọn…óng ánh” : hình ảnh cây ngô phát triển từ trổ cờ đến lúc có trái, kết hạt.
Đoạn 3: đoạn còn lại: hình ảnh cây ngô và bắp ngô đến kì thu hoạch.
2. Học sinh đọc bài “Cây mai tứ quý” – sách Tiếng Việt lớp 4, tập 2, trang 23.
Bài Trình tự tả
Cây mai tứ – Tả hình ảnh bao quát của cây mai.
quý – Tả từng bộ phận: hoa, lá, trái, hạt của cây mai.
Bãi ngô – Tả hình ảnh cây ngô phát triển từ khi còn là cây non đến khi cây kết trái, già, thu hoạch.
3. Cấu tạo của một bài văn miêu tả cây cối:
Bài văn miêu tả cây cối thường có ba phần:
1. Mở bài: giới thiệu cây định tá.
2. Thân bài:
a) Tả bao quát hình ảnh của cây.
b) Tả từng bộ phận của cây (hoặc tả từng thời kì phát triển của cây)
3. Kết bài:
– Nêu ích lợi của cây. Tình cảm của em đối với cây.
– Ấn tượng của cây đối với mọi người.
C. Luyện tập
1. Đọc bài “Cây gạo”, sách Tiếng Việt lớp 4, tập 2, trang 32.
Trình tự miêu tả trong bài “Cây gạo”:
– Hình ảnh cây gạo từ khi cây trổ hoa đến khi cây kết trái.
– Cảnh vật, không gian biến chuyển theo sự phát triển ra hoa, kết trái của cây.
2. Lập dàn ý miêu tả một cây ăn quả theo một trong hai cách đã học.
– Tả lần lượt từng bộ phận của cây.
– Tả từng thời kì phát triển của cây.
Đềbài ứng dụng:
Lập dàn ý miêu tả cây chuối đang có buồng.
BÀI LÀM 1
(Tả từng bộ phận của cây)
Dàn ý chi tiết:
1) Mở bài: giới thiệu cây chuối đang có buồng, cây trồng ở đâu? (góc vườn), do ai trồng (ông em trồng), thuộc loại chuối gì? (chuối sứ, chuối già. chuối cau…)
2) Thân bài:
a. Tả bao quát:
– Nhìn từ xa: Cây chuối có buồng cao to nhất trong bụi chuối, quanh cây có dăm bảy cây chuối con lớn nhỏ cao thấp suýt soát nhau, có cây cao gần hàng cây chuối mẹ, cỏ cây bé tí mới nứt lên từ gốc chuối.
– Đến gân: Gốc cây mẹ to bằng một vòng tay em cao độ 3 mét, thân cây lên cao thon nhỏ lại.
– Thân cây chuối trơn láng, xanh bóng, sờ mát tay.
b. Tảtừng bộ phận của cây:
– Lá chuối to; trái rộng như cái máng úp, vươn rộng ra xung quanh như một cái ô xanh biếc. Càng lên cao, lá nhại màu dần, lá non nhú ra cuộn tròn chĩa thẳng lên trời như một mũi kiếm.
– Lá chuối già khô vàng, quắt lại. rũ lòa xòa xuống gốc.
– Buồng chuối: cuống buồng to bằng cồ tay trổ ra từ giữa nách chuối, cong oằn, chĩa xuống đất đeo xung quanh năm bảy nải chuối. Nải chuối con xanh ngất, bé xíu, trái chuối chỉ to hơn ngón tay cái, mỗi trái chuối đều có một cuống râu màu đen. Nải chuối thấp là nái chuối bé nhất.
– Bắp chuối: phần cuối cùng của buồng chuối, màu đỏ tím, từa tựa một búp sen thon dài quá khô. Bắp chuối có thể cắt về làm rau, trộn gỏi rất ngon.
c. Sự chăm sóc cây chuối của ông:
– Ông vun gốc ủ lá cho ấm đất, ông cắt bó lá khô xấu.
– Ông tách cây chuối con để chuối mẹ phát triển, trổ buồng, trái to, lớn nhanh.
d. Ích lợi của cây chuối:
– Cho quả ăn bổ, ngọt thơm.
– Lá chuối dùng gói bánh, gói nem chả.
– Thân chuối để chăn nuôi, làm đồ mỹ nghệ xuất khẩu.
3) Kết luận:
– Nêu cảm xúc của em: biết ơn ông trồng cây để có quả ngon bổ cho gia đình ăn. Vườn nhà mát mẻ, tươi tắn nhờ màu xanh của cây lá ông trồng.
BÀI LÀM 2
(Tả lần lượt từng thời kì phát triển của cây)
1) Mở bài: giới thiệu cây chuối (Cây chuối sứ bố em trồng từ mấy tháng trước đã trổ buồng tươi tắn, còn cả bắp chuối chưa cắt.)
2) Thân bài:
a) Tả bao quát:
Chuối mẹ to nhất bụi chuối, mập mạp và vững chãi. Thân chuối mẹ xanh mướt. Lá già vàng khô, quắt lại rũ xuống, lá xanh to xòe rộng che mát cả gốc chuối.
b) Tả chi tiết:
– Chuối mẹ đã được tám tháng tuổi, tròn mập và trổ buồng. Từ chính giữa ngọn, cuống buồng chuối trổ ra cong oằn xuống đeo một bắp chuối to mập, màu tím đỏ.
– Vài ngày sau, từng lớp bắp chuối bung ra, ló từng nải chuối nhỏ xíu bằng bàn tay với những trái chuối nhỏ tí bằng ngón tay út.
– Trong vài ngày, các lớp ngoài của bắp chuối bung ra rơi xuống đất, để lộ quầy chuối đeo lói bắp chuối nhỏ bằng bắp tay người lớn.
– Bố cắt bắp chuối làm rau ăn rất tuyệt.
– Ngày qua ngày, trái chuối to dần, tròn căng lên. Buồng chuối to dần, sà xuống.
– Sau ba tháng, nải chuối già, quả to tròn, da xanh mát tựa như phủ một lớp phân trắng mỏng tang. Cuống râu trên trái cũng rụng đi, để lại một núm màu đen trên đầu trái chuối. Lá của cây chuối mẹ già đi trông thấy. Bên cạnh chuối mẹ, cây chuối con cũng đã trưởng thành. Cả bụi chuối xanh um, tàu lá xòe rộng như một cái ô to và đẹp, che mát một góc vườn.
– Bô cắt buồng chuối vào nhà rồi cắt từng nải theo cuống buồng.
c) Sự chăm sóc của bố đối với bụi chuối:
– Bố tách cây con cho cây lớn phát triển.
– Bố làm sạch cỏ dại, ủ lá khô cho gốc chuối ẩm ướt.
– Em giúp bố làm gì? (em giúp bố tưới nước, cắt bớt lá khô, lá già.)
d) Ích lợi của cây chuối:
– Sau khi cắt buồng, thân chuối dùng để chăn nuôi.
– Lá chuối dùng gói bánh, gói nem chả.
– Trái chuối ăn ngon, bổ, giàu dinh dưỡng.
3) Kết luận:
– Nêu cảm xúc của em khi ngắm cây chuối đã có buồng (Thích thú và biết ơn bố đã trồng, có trái chuối ăn ngon, bổ, yêu thích vườn nhà, yêu cây xanh, mở mang kiến thức về sự phát triển của cây trái)
Em hãy lập dàn ý cho bài văn tả cây thanh long đang ra quả.
BÀI LÀM 1
(Tả từng bộ phận của cây)
1) Mở bài: giới thiệu cây thanh long đang ra quả (Cây được trồng ở đâu, do ai trồng?)
2) Thân bài:
a. Tả bao quát:
– Thanh long là cây thân leo, thân cây phải bò lên một dàn hoặc trụ.
– Thân cây xanh biếc, có góc cạnh tựa cây xương rồng.
b. Tả chi tiết:
– Gốc thanh long: màu xanh đậm, sậm màu hơn thân leo, chỉ to hơn thân leo chút đỉnh.
– Thân thanh long: thân có ba khía và có gai như thân cây xương rồng, mỗi gai là một “đốt”.
– Thanh long có thể leo lên các cây hàng rào hoặc leo quanh một trụ cao độ lim .
– Tại mỗi “đốt mắt”, nơi nào mập mạp, cây đủ dinh dưỡng sẽ cho nụ hoa to, màu trắng xanh như búp sen nhọn.
– Hoa nở bung cánh màu vàng nhạt phớt xanh, xòe như đuôi rồng (nên có tên là thanh long), lác đác trên thân cây dăm bảy quả xanh mướt còn bé đeo cái hoa đuôi rồng như thế.
– Trên cây, dăm bảy quả trổ ra từ đợt trước già giặn hơn đã có màu xanh ẩn đo đỏ. Quả thanh long tròn trĩnh, có rua hoa, chung quanh có vẩy như vẩyrồng, quả có da trơn, bóng láng chuyển dần sang màu hồng đào là quả chín. Quả thanh long chín da đỏ bóng nhưng vẩy của quả vẫn xanh.
c. Chăm sóc thanh long:
– Tưới nước, ủ ấm cho gốc.
– Thanh long hướng ánh sáng vì vậy người trồng (bố, mẹ, ông bà hoặc người chăm sóc) luôn giữ cho gốc và cây thanh long được phủ ánh mặt trời.
– Dùng giấy bao quả thanh long khi quả còn màu xanh hơi phớt hồng để giữ cho thanh long chín già, quả tròn mà không bị chim chóc mổ ăn, kiến đục phá.
d. Quả thanh long:
– Bổ quả ra thịt thanh long màu trắng có hạt bé li ti như hạt mè, ăn ngọt và mát. (còn có giống thanh long thịt đỏ, hạt đen.)
3) Kếtluận:
– Nêu cảm xúc của em về hình dáng rất đẹp của quả thanh long.
– Nêu giá trị của cây thanh long trong nền kinh tế nông nghiệp (cây cho năng suất, quả đẹp. ngon, có thể xuất khẩu sang nhiều nước để đổi ngoại tệ.)
BÀI LÀM 2
(Tả từng thời kì phát triển của cây)
1) Mở bài:
Giới thiệu cây thanh long lúc mới trồng. (Dăm một đoạn thân cây có mắt gai xuống chỗ đất ẩm. Mầm mọc rễ bám đất và thân mọc ra bò lên cây.) Cây do ai trồng? Em thấy nó ở đâu?
2) Thân bài:
a. Tả bao quát:
– Gốc được dăm có thể đẻ nhánh cùng leo lan lên giàn trụ như thân chính, cũng có thểmột thân chính vẫn cho quả.
– Thân thanh long có ba đến bốn khía, có gai như cây xương rồng.
b. Tả chi tiết:
– Gốc: to hơn thân một chút, màu xanh sậm.
– Thân: leo tròn trên một trụ, gần như khi thân leo kín dàn trụ thì đơm bông, cho quả.
– Bông như búp sen nhọn, mọc ra từ gai thân cây, màu trắng xanh.
– Bông nở bung, xòe cánh như đuôi rồng, màu trắng xanh phớt vàng mơ.
– Bông thụ phấn đậu quả màu xanh biếc, nhỏ xíu như cục tẩy của em.
– Trái lớn dần vẫn giữ hoa ở chóp đuôi của quả như đuôi rồng.
– Trái có màu xanh pha rêu, có rua vây màu xanh đậm.
– Khi trái lớn to bằng nắm tay, hoa khô rụng đi để lại cái cuống như đuôi rồng khép lại.
– Trái chuyển dần sang màu hồng đào, da căng bóng, trơn láng có vẩy rua màu xanh là trái chín có thể thu hoạch.
c. Chăm sóc thanh long:
– (Như phần chăm sóc cây thanh lọng theo cách tả từng bộ phận cây)
d. Cách ăn thanh long:
– Quả có thịt trắng (hoặc đỏ hồng đào) có hạt đen lấm tấm như hạt mè. Ăn ngọt, mát, dễ tiêu hóa, có thể dầm ăn với đường và đá lạnh.
3) Kết luận:
– Nêu cảm xúc của em: yêu thích một giống cây ăn quả dễ trồng, hoa đẹp và quả đẹp.
– Nêu giá trị kinh tế của cây (như bài cách tả từng bộ phận cây).
– Bày thanh long trong mâm quả rất đẹp, có thể dùng trang trí cây, hoa quả.
LUYỆN TẬP QUAN SÁT CÂY CỐI
(Tiết 1 – Tuần 22)
A. Mục tiêu:
– Biết quan sát cây cối, sắp xếp ý quan sát theo trình tự.
– Biết dùng hình ảnh so sánh và nhân hoá khi miêu tả cây cối.
B. Nội dung
1) Đọc lại ba bài văn tả cây cối đã học (“Sầu riêng”, “Bãi ngô”, “Cây gạo”) và nhận xét:
a. Tác giả mồi bài văn quan sát cây theo trình tự như thế nào?
– Bài “Sầu riêng”. Tả từng bộ phận của cây, tác giả chọn tả đặc điểm nổi bật của cây. (Mùi thơm “thơm mùi thơm của mít chín quyện với hương bưởi”; vị “béo cái béo của trứng gà”; hương vị “quyến rũ đến kì lạ”; hoa: hương hoa thơm ngát, “hoa đậu từng chùm, màu trắng ngà. Cánh hoa như vẩy cá, hao hao giống cánh sen con, lác đác vài nhụy li ti giữa những cánh hoa”; quả: “Nhìn trái sầu riêng lủng lẳng dưới cành trông giống những tổ kiến”.). , Rồi mới đến hình ảnh của cây (Dáng cây: “cành cây thẳng đuột”, thân: “khẳng khiu cao vút”, lá: “nhỏ xanh vàng, hơi khép lại tường như lá héo”.). Tác giả tả mùi hương của trái chín nhấn mạnh đến hai lần (đầu bài, cuối bài) vì sầu riêng nổi bật nhất là mùi thơm của nó rất nồng nàn.
– Bài “Bãi ngô” :Tả từng thời kì phát triển của cây: Giai đoạn mới gieo hạt (Cây ngô lấm tấm như mạ non). Giai đoạn phát triển (Cây rung rung trước gió, lá ngô rộng dài, trổ ra mạnh mẽ, nõn nà. Trên ngọn, một thứ búpnhư kết bằng nhung và phấn vươn lên). Giai đoạn thu hoạch (Hoa ngô xơ xác như cỏ may. Lá ngô quất lại rũ xuống. Những bắp ngô đã mập và chắc, chỉ còn chờ tay người đến hái mang về)
– Bài “Cây gạo” : Tả cây vào mùa ra hoa, cho quả, nở hoa (Cành nặng trĩu và đầy tiếng chim hót) kết quả (hoa rụng, rơi từ trên cao, đài hoa nặng chúi xuống, những cánh hoa đỏ rực quay tít như chong chóng thật đẹp”. Hình ảnh cây khi chờ quả to thu hoạch được (dáng vẻ xanh mát trầm tư, cây đứng im, cao lớn, hiền lành, làm tiêu cho những con đò cập bến và cho những đứa con về thăm quê mẹ); quả lớn thu hoạch (quả gạo múp míp, hai đầu thon vút như con thoi. Sợi bông trong quả đầy dần, căng lên; những mảnh vỏ tách ra cho các múi bông nở đều, chín như nồi cơm chín đội vung mà cười, trắng lóa.)
b. Các tác giả quan sát bằng những giác quan nào?
Bài | Giác quan quan sát |
Sầu riêng | -Mũi (ngửi mùi thơm) |
| – Mắt (nhìn hình ảnh) |
Bãi ngô | – Mắt (quan sát hình ảnh) |
| – Tai (nghe tiếng tu hú) |
Cây gạo | – Mắt (quan sát hình ảnh) |
| – Tai (nghe tiếng chim hót) |
c. Chỉ ra những hình ảnh so sánh và nhân hoá mà em thích. Theo em, các hình ảnh so sánh và nhân hoá này có tác dụng gì?
Hình ảnh so sánh và nhân hoá | Tác dụng |
Bài “Sầu riêng”: |
|
— Thơm mùi thơm của mít chín.’.. | – Cụ thể mùi, hình ảnh quả, hoa |
kì lạ. | của sầu riêng. |
— Cánh hoa hao hao giống cánh | – Bài văn sinh động, hình ảnh rõ |
sen con. | ràng. |
– Trái sầu riêng… tổ kiến. |
|
– Lá nhỏ… lá héo. |
|
Bài Bãi ngô: | – Làm rõ hình ảnh màu sắc từng |
– Mới ngày nào… như mạ non. | thời kì phát triển của cây. |
– Trên ngọn, một… vươn lên. | – Làm cho bài văn sinh động. |
– Hoa ngô… cỏ may. | Hình ảnh rõ ràng. |
Bài “Cây gạo”: | Tả rõ hình ảnh và cảm xúc của tác giả. |
– Cánh hoa quay tít như chong chóng |
|
Cây gạo đứng im… quê mẹ | – Làm cho bài văn sinh động, giàu tình cảm yêu quê. |
d. Trong ba bài văn trên, bài nào miêu tả một loài cây, bài nào miêu tả một cây cụ thể?
– Tả một loài cây: bãi ngô, sầu riêng.
– Tả một cây cụ thể: cây gạo.
c. Theo em miêu tả một loài cây có điểm gì giống và điểm gì khác với một cây cụ thể?
Miêu tả một cây Miêu tả một loài cây
Giống nhau Chọn tả đặc điểm nổi bật nhất của cây.
Khác nhau So sánh với hình ảnh đặc So sánh hình ảnh của một cây điểm của một loài cây khác. với các cây khác cùng loài.
2. Luyện tập:
Quan sát một cây mà em thích trong khu vực trường em (hoặc nơi em ở) và ghi lại những gì em đã quan sát được.
Các em có thể quan sát theo các bước được hướng dẫn ở sách Tiếng Việt lớp 4, tập 2, trang 40.
Gợi ý và một số hình ảnh
* Cây bàng:
– Cao 5-6 mét tán lá tỏa rộng, mọc thành tầng, che mát một khoảng sân trường.
– Thân cây bàng to hai vòng tay ôm.
– Vỏ cây đen mốc xù xì.
– Rỗ nổi ngoằn ngoèo.
– Cành chĩa ra xung quanh.
– Lá bàng bằng bàn tay hình như cái quạt nan, màu xanh lục. Lá già vàng đỏ rồi rụng xuống đất.
– Quả bàng: tròn, hơi dẹt, to bằng ngón chân cái.
– Hoa bàng: màu vàng, nhỏ li ti, chồi non mọc nhú màu xanh ngọc bích, lá chồi nhòn nhọn nhỏ xíu.
* Cây phượng:
– Cao 5 – 6 mét,tán lá tỏa rộng, vòm lá tròn như một cái nấm xanh khổng lồ che mát một khoảng sân trường.
– Thân cây to độ một vòng tay ôm.
– Vỏ cây đen mốc, xù xì.
– Rễ chìm dưới đất.
– Cành đâm ra xung quanh mang nhiều nhánh lớn.
– Lá phượng hơi tròn, nhỏ li ti như lá me, lúc nhỏ khép lại, già khô vàng, rơi xoay trong gió.
– Hoa: chỉ có hoa vào đầu hè (tháng 5), hoa tàn vào đầu thu (tháng 8, 9). Hoa màu đỏ rực, cánh tròn, mịn. Dài hoa dài như có núm, nhụy hoa dài lộ ra ngoài như rua. Hoa mọc từng chùm. Lúc ấy, cây phượng như treo đèn màu, đỏ rực một góc sân trường.
– Mùi hoa thơm nhẹ, như mùi cỏ lẫn mùi ngòn ngọt của mật đường, hơi có vị chát của lá xanh.
LUYỆN TẬP MIÊU TẢ CÁC BỘ PHẬN CỦA CÂY CỐI
(Tiết 2 – Tuần 22)
A. Mục tiêu:
– Học sinh biết quan sát các bộ phận của cây cối, biết chọn đặc điểm nổi bật của từng bộ phận cây để tả.
– Học sinh biết viết một đoạn văn để tả một bộ phận của cây cối.
B. Nội dung
– Học sinh đọc các đoạn văn tả lá, thân và gốc một số loài cây (trang 41, sách Tiếng Việt 4, lập 2), theo em, cách tả của tác giả trong mỗi đoạn có gì đáng chú ý?
Bài | Cách tả của tác giả |
Lá bàng | – Tả lá bàng phát triển và thay đổi theo bốn mùa trong năm. So sánh cây bàng với cây khác loài, (có những cây mùa nào cũng đẹp như cây bàng) |
Bàng thaylá | Tả theo thời kì phát triển của cây (chi tả cây bàng đang mùathay lá) |
Cây sồi già | Tả thân cây và gốc cây sồi đang mùa ra lá (tả từng bộ phận của cây) |
Cây tre | Tả cây tre, thân cây tre vào mùa măng tre mọc (tả từng bộ phận của cây: thân tre, cành lá tre, búp măng tre) |
C. Luyện tập
– Viết một đoạn văn tả lá, thân hay gốc của một cây mà em yêu thích.
BÀI LÀM 1
(Tả lá cây vú sữa)
Lá của cây vú sữa khá đặc biệt: mỗi cái lá cong cong hình bầu bầu, có hai mặt khác màu. Mặt trên của lá láng bóng, màu xanh biếc. Mặt dưới của lá màu vàng đồng hay là một màu gì không rõ, nó là chất đỏ của đồng pha với màu nâu của lá. Lá vú sữa hơi cứng, gân lá nổi ở mặt dưới của phiến lá. Bẻ một lá vú sữa, từ gân lá cưng cứng đó, một dòng nhựa đục chảy ra. Nhựa đục đó có tính kết dính như keo. Người dân quê có lúc dùng nhựa lá vú sữa thay cho keo, hồ dán. Tuy nhiên, nếu dây phải nhựa lá vú sữa nhiều, em có thể bị bỏng rát da tay. Vì thế em thích ăn quả vú sữa hơn là nghịch chơi với lá của nó.
BÀI LÀM 2
(Tảthân cây dừa)
Cây dừa xiêm không cao như cây dừa bung. Dừa xiêm cây nào cao nhất chỉ độ bốn mét kể cả ngọn. Từ gốc tròn mập mạp thân dừa thon đều đến ngọn. Thân cây chỉ to bằng một vòng tay ôm của em, vỏ cây màu đen xám, mốc thếch, sờ tay thấy ram ráp, khô. Thân cây có các vạch đen chia từng khoảng, càng lên cao, khoảng cách các vạch đen dài ra. Các vạch đen ây là sẹo của bẹ dừa khi lá dừa khô rụng xuống để cây lớn cao thêm. Dừa xiêm mọc thân thẳng, không cao lắm nên khi dừa có buồng cũng dễ hái quả. Thân dừa dội một tán lá xòe rộng, dài xanh mướt. Cây dừa chịu đựng nắng mưa cần mẫn chắt lọc từ đất chất bổ để nuôi lá xanh tươi, quả mát lành.
BÀI LÀM 3
Tưởng gốc bàng chẳng có gì lạ lẫm với chúng em nhưng nó cũng có những nét đặc biệt. Gốc bàng đại lão ở sân trường to hơn hai vòng tay chúng em, chỗ lồi chỗ lõm, da xù xì, đen nhẻm. Từ những chỗ lồi của gốc bàng, rễ cây nổi lên, bò ngoằn ngoèo trên mặt đất. Không biết bạn học sinh nào nghịch ngợm đã khắc lên gốc bàng mấy hình ngôi sao, một tên lớp 4A niên khoá nào không rõ. Làm cây đau và thành sẹo như thế là không tốt. Chúng em đều thích và yêu cây bàng. Chúng em quét lá, nhặt rác và vui chơi dưới gốc bàng, không làm cây trầy sứt, gãy cành. Vững chãi đỡ mấy tầng lá xòe rộng che mát sân trường, gốc bàng thì thầm cùng học sinh bài ca bóng mát yêu thương không dứt.
LUYỆN TẬP MIÊU TẢ CÁC BỘ PHẬN CỦA CÂY CỐI
(Tiết 1 – Tuần 23)
A. Mục tiêu:
– Học sinh biết quan sát và miêu tả các bộ phận của cây cối.
– Biết nhân hóa, so sánh để nêu bật hình ảnh của cây cối.
B.Nội dung
1. Đọc một số đoạn văn miêu tả hoa, quả (trang 50, 51 – sách Tiếng Việt lớp 4, tập 2) và nêu nhận xét về cách miêu tả của tác giả.
Bài | Cách miêu tả |
Hoa sầu | *Chọn tả đặc điểm nổi bật: |
đâu | – Chọn tả vào mùa hoa nở rộ nhất (nở như cười – nhân hóa) – Hoa nhỏ bé lấm tấm mấy chấm đen nở từng chùm, đu đưa như đưa võng, (so sánh) – Chọn tả nét đặc trưng nhất: mùi thơm “mùi thơm mát mẻ, dịu dàng, mát mẻ còn hơn cả hương cau, mà dịu dàng có khi còn hơn cả mùi thơm hoa mộc” |
Hoa mai | *So sánh với hoa khác loài. |
vàng | – So sánh với hoa đào về màu sắc, hình ảnh (Hoa mai cũng có năm cánh như hoa đào, nhưng cánh hoa mai to hơn cánh hoa dào một chút. Nhưng nụ mai không phô hồng mà ngời sắc xanh màu ngọc bích) — Nhân hoá và so sánh: “Cánh hoa mai xòe ra mịn màng như lụa” ; “mùi hương thơm lựng như nếp hương”. |
Quả cà |
*Tả từng thời kì phát triển của quả. |
chua | – Lúc xanh: “Hoa biến đi để cây tạo ra những chùm quả nõn chung màu với cây, với lá”. – Lúc chín: “Nắng đến tạo vị thơm mát dịu dần trong quả. Mỗi quả cà chua chín là một mặt trời nhỏ hiền dịu”. |
Trái vải | *So sánh với trái vải sa-lông cùng loài. |
tiến vua | “Vỏ của nó không đỏ mà ong óng một màu nâu. nhẵn lì chứ không có gai gồ ghề. Khi bóc vỏ ra rồi thì không có nước tèm lem, mà hột thì chỉ nhỏ bằng ngón tay út. Cùi vải dày như cùi dừa nhưng không trắng bạch mà trắng ngà.” |
C. Luyện tập
Đề:Viết một đoạn văn tả một loài hoa hoặc một thứ quả mà em yêu thích.
BÀI LÀM 1
(Đoạn văn tả hoa hồng)
Hoàng hậu của các loài hoa là hoa hồng. Cánh hoa khép kín, tròn nụ trong lớp đài hoa xanh tươi. Sương mai và nắng sớm réo gọi nàng hồng hé cười chúm chím lộ sắc hoa đỏ nhung trong cánh đài xanh biếc đã bắt đầu hung nhè nhẹ.
Sương chiều lãng đãng lạnh, âu yếm nụ hồng để về sáng nụ hoa hé dần từng lớp cánh mịn như nhung, đỏ thẫm. Hương hoa hồng ngan ngát, thoảng mát như sương thu sớm, nồng dịu như mùi hương nhu pha mật ngọt. Cái ngọt như mật ong của hương hoa gọi ong bướm đến, để nàng hồng kiêu hãnh khoe hết cánh, lộ lấm tấm nhụy vàng. Hoa hồng nghiêng mình đón nắng, hiến dâng cho đời sắc đẹp lộng lẫy của mình, hòa trong gió mùi thơm vô cùng quyến rũ.
BÀI LÀM 2
(Đoạn văn tả hoa cúc)
Rực rỡ phô sắc vàng chói, bền bỉ chịu đựng cùng thời gian, những chậu cúc nở hoa từ cuối năm âm lịch vẫn giữ được sắc xuân đến tận cuối Giêng. Vô số cánh hoa thon thon, màu vàng, xếp khít đều nhau, dày lên từng lớp, xòe tròn chung quanh, ủ nhụy hoa màu vàng sậm ở giữa. Thân cúc mảnh nhưng cứng cáp, đỡ nụ hoa to bằng cái chén con, xòe phiến lá có răng tròn xanh biếc, tôn đóa hoa màu vàng rực. Thời tiết nào của bốn mùa trong năm, hoa cúc cũng thích hợp để vươn cành, đơm nụ. Vì thế, ngày nay người ta trồng hoa cúc quanh năm. Hoa cúc vừa sang vừa bình dị. Trong nhà, trong văn phòng, trong hội nghị, ở nơi tôn nghiêm chùa tháp, hoa đều làm cảnh trí sáng lên một nét trang trọng và ấm áp thân tình. Hoa cúc quả xứng danh là hoa quân tử.
BÀI LÀM 3
(Đoạn văn tả quả xoài)
Không một giống xoài nào cho quà ngon bàng xoài cát Hòa Lộc của vùng Đồng Tháp, Nam Bộ. Quả xoài tròn dày, thon dài, đẹp như tranh vẽ. Da xoài lúc xanh có màu xanh nhạt, lấm tấm lưa thưa những chấm nhở xíu như dấu châm câu. Da xoài bọc một lớp thịt dày săn chắc, ôm cùi xoài mỏng dính. Khi chín, quả xoài cát chuyển dần sang màu vàng mơ, rồi vàng đậm, các dấu chấm thành màu nâu nhạt. Đó là lúc vị xoài ngon nhất: một vị ngọt thơm thanh thanh, dìu dịu, ăn vào ngọt lừ, rất hấp dẫn. Chính vì vậy, xoài cát Hòa Lộc là loại xoài có giá bán cao, đem lại lợi nhuận kinh tế không nhỏ và là niềm tự hào của nông dân miệt vườn miền Tây Nam Bộ.
BÀI LÀM 4
(Đoạn văn tả quả thơm)
Thơm còn gọi là dứa, khóm, được trồng ở khắp nơi trên đất nước ta. Thơm cho quả ở mọi vùng đều có sắc thái giống nhau nhưng theo mỗi vùng, vị ngọt cua thơm cũng khác. Được thưởng thức quả thơm của nhiều vùng, em cảm thấy quả thơm ở quê em – Khánh Hòa có vị ngọt ngon nhất. Thơm Khánh Hòa có vị ngọt đặc trưng của thơm hòa quyện với vị mằn mặn đậm đà của muối biển tạo nên một vị ngọt gắt, tê đầu lưỡi, ngon vô cùng. Nhìn kĩ thì quả thơm quê em có hình dáng hơi khác những quả thơm xứ khác một chút: quả thơm quê em bé hơn, nó chỉ to hơn cái bình trà chút xíu, mắt quả thơm khô
hơn những quả thơm Đà Lạt hay thơm của miền Tây Nam Bộ. Cùi thơm chỉ to bằng ngón tay cái của em. Quả thơm nào cũng mang theo một đầu quả nhiều tia màu xanh phủ một lớp phấn trắng, có gai, xoay tròn đều xếp lên nhau như đuôi rồng nhiều lớp. Khi xanh, quả thơm có màu xanh biếc. Trái lớn dần thì vỏ cũng chuyển sang màu hồng đỏ, vàng ửng cái sắc đỏ tía của Mặt Trời, của nắng pha gió biển, đem lại cho quả một vị ngọt đặc sắc riêng.
ĐOẠN VĂN TRONG BÀI VĂN MIÊU TẢ CÂY CỐI
(Tiết 2 – Tuần 23)
A.Mục tiêu:
– Học sinh nhận biết từng đoạn văn và nội dung của mỗi đoạn trong bài văn miêu tả cây cối.
– Học sinh biết viết từng đoạn văn một cách gãy gọn, chuyển ý liền mạch, khúc chiết.
B. Nội dung
1. Các em đọc lại bài “Cây gạo” của nhà văn Vũ Tú Nam (sách Tiếng Việt lớp 4, tập 2, trang 32)
2. Tìm các đoạn văn trong bài văn nói trên và cho biết nội dung của từng đoạn.
| Đoạn |
| Nội dung |
Đoạn1: | “Cây gạo… thật đẹp. “ | – Giới thiệu cây gạo già đến mùa ra hoa. | |
|
|
| – Tả hoa gạo. |
Đoạn 2: | “Hếtmùa hoa …. | … quê mẹ.” | – Hình dáng cây gạo và quang cảnh xung quanh |
Đoạn 3: | “Ngày tháng,.. | gạo mới” | Hoa gạo kết trái, lớn dần đến lúc thu hoạch. |
• Ghi nhớ:
Trong bài văn miêu tả cây cối:
1) Mỗi đoạn văn có một nội dung nhất định, chẳng hạn: tả bao quát, tả từng bộ phận của cây hoặc tả cây theo từng mùa, từng thời kì phát triển.
2) Khi viết, hết mỗi đoạn cần xuống dòng.
C. Luyện tập
1. Xác định các đoạn văn và nội dung chính của từng đoạn trong bài văn “Cây trám đen ” (sách Tiếng Việt lớp 4, tập 2, trang 53)
| Đoạn |
| Nội dung |
Đoạn 1: | “Ở đâu… một gang” | – Giới thiệu mấy cây trám den. – Tả bao quát hình dáng cây. | |
Đoạn 2: | “Trám đen. | ..chạm hạt ” | – So sánh trám đen tẻ và trám đen nếp về hình ảnh quả và chất lượng của quả. |
Đoạn 3: | “Cùitrám đen. | .. hay cốm” | – Vị béo, bùi và thơm của quả trám đen. Cách ăn quả trám đen. |
Đoạn 4: | “Chiều chiều… | đầu bảng” | – Cảm xúc của tác giả đối với cây trám đen của bản làng. |
2. Hãy viết một đoạn văn nói về lợi ích của một loài cây mà em biết.
BÀI LÀM 1
(Ích lợi của cây chuối)
Hẳn mọi người dân Việt Nam đều biết đến ích lợi đa dụng của cây chuối. Không chỉ cho quả ăn thơm, ngon ngọt và giàu dinh dưỡng, cây chuối còn cho con người lá dung để gói bánh, gói xôi. Vào ngày Tết, bánh tét, bánh dày, bánh gai đều gói bằng lá chuối. Lá chuối tươi xanh mát một góc vườn còn làm thơm chõ xôi, làm tươi xanh dĩa bánh ít trong ngày giỗ kị. Lá chuối khô dùng gói bánh gai, bánh mật, giữ ẩm cho bánh đa, bánh tráng không bị vỡ giòn. Lá chuối trong kĩ thuật ẩm thực đã là nét đặc sắc, có vị ngon riêng của món ăn Việt. Màu xanh của lá chuối trên bàn ăn còn là niềm tự hào về một đất nước trong lành, mộc mạc hiếu khách và đậm nét trữ tình. Chặt buồng để ăn qua rồi, người nông dân còn dùng thân chuối để chăn nuôi gia súc. Tiến xa hơn nữa, ngành mĩ nghệ xuất khẩu đã bện dây chuối phơi từ bẹ chuối, sản xuất những mặt hàng đẹp và đắt giá không ngờ: ghế bành, sô-pha, giỏ xách… Trong tất cả bộ phận của cây chuối, không có một phần nào bị vứt bỏ. Chuối là loại cây dễ trồng và có giá trị cao, dễ sử dụng là thế.
BÀI LÀM 2
(Ích lợi của cây mía)
Mía là loại cây công nghiệp đem lại lợi nhuận đáng kểcho ngân quỹ quốc gia. Vào mùa mía thu hoạch, các loại xe vận tải nặng chở hàng nghìn tấn mía về nhà máy. Nhà máy hoạt động ngày đêm để cho ra hàng trăm tấn đường các loại: đường kết tinh, đường phôi, đường phèn, đường mật… Bã mía sau khi đã được ép lấy nước, chất cao thành đống, chờ xe chở về nhà máy giấy. Với các kĩ thuật khác nhau, bã mía biến thành giấy bìa, giấy báo, giấy vở học sinh các loại… Một mùa thu hoạch mía đường, người nông dân hể hả thu về một món tiền lớn, nâng cao đời sống kinh tế gia đình và mua sắm nhiều vật dụng mà cả nhà ước ao. Mùa mía đem lại tiếng cười cho người dân quê em, cho bố mẹ em và ca nhà lại bắt tay chăm sóc một vụ mía mới.
BÀI LÀM 3
(Ích lợi của cây bàng)
Hầu hết sân trường nào cũng có trồng bàng. Cây bàng đem lại bóng mát cho chúng em vui chơi, tô điểm cho cảnh sắc sân trường một màu xanh dịu dàng, mát mẻ. Lá bàng thon tròn như chiếc quạt, lau sạch đi dùng để gói xôi. Cậu học trò nhỏ ở quê như em dẫu có đi đâu xa, có đến nơi nào nhộn nhịp tân kì hơn, ắt hẳn không bao giờ quên được món quà quê được gói trong lá bàng. Cái vị thơm ngon của xôi nếp, vị bùi ngọt của khoai lang hầm quyện với mùi thơm của lá bàng khi đã hơi héo vàng là một mùi thơm tuyệt diệu lắng đọng vào trái tim cậu học trò nhỏ một tình yêu quê mộc mạc mà da diết, không bao giờ quên. Chim chóc làm tổ, nhảy nhót trên từng tầng lá bàng xòe rộng là một cảnh hữu tình, xoa dịu mọi nồi vất vả của thầy cô, của học trò và đem lại không khí trong lành, môi trường xanh, sạch đẹp cho trường em.
BÀI LÀM 4
(Ích lợi của cây hoa hồng)
Muôn hoa đều tô điểm cho đời thêm vui tươi, rực rỡ. Hoa hồng lại đặc biệt chiếm vị trí cao trong ngành trang trí. Nét kiều diễm, lộng lẫy của hoa hồng đem lại cho cảnh trí xung quanh một nét sang trọng, tinh tế, lịch sự. Trong sân nhà, chậu hoa hồng khoe sắc thắm và tỏa hương làm bố em vui thích, khỏe khoắn hơn sau một ngày làm việc mệt nhọc. Hoa hồng còn là một vị thuốc nam dễ uống. Khi em bị ho cảm nhẹ, mẹ cắt một vài nụ hồng và chưng cách thủy với đường cho em uống. Chỉ một vài chén thuốc thơm như thế là em khởi bệnh ngay. Người ta cất tinh dầu hoa hồng để làm nước hoa – một sản phẩm đắt tiền mà không một ai không biết. Thế mới biết, nàng hồng mảnh dẻ ấy chẳng phải chỉ biết khoe bộ áo váy kiêu sa của mình. Nàng hồng còn đem lại cho đời biết bao lợi ích.
LUYỆN TẬP XÂY DỰNG ĐOẠN VĂN MIÊU TẢ CÂY CỐI
(Tiết 1 – Tuần 24)
A. Mục tiêu:
Học sinh biết dựa vào dàn ý chi tiết tả cây cối, viết các đoạn văn miêu tả cây cối.
B. Nội dung
1. Học sinh đọc dàn ý tả cây chuối tiêu (Sách Tiếng Việt lớp 4, tập 2, trang 60, 61).
2. Dựa vào dàn ý trên, bạn Hồng Nhung dự kiến viết 4 đoạn văn, nhưng chưa viết được đoạn nào hoàn chỉnh. Em hãy giúp bạn viết hoàn chỉnh 4 đoạn văn này. (Viết vào chỗ có dấu […]).
Đoạn 1
Vườn nhà bà ngoại em tuy ít cây nhưng mùa nào quả nấy. Xum xuê tán lá là cây xoài cát, thấp mà sai quả là cây quýt đường. [Mé Tây vườn, bà em trồng nhiều bụi chuối. Em thích nhất một cây chuối tiêu sai quả trong bụi chuối ở góc vườn.]
Đoạn 2:
Nhìn từ xa. cây chuối như một chiếc ô xanh mát rượi. Thân cây cao hơn đầu người, mọc thẳng, không có cành, xung quanh là mấy cây con đứng sát lại thành bụi. [Thân chuối màu xanh, da trơn láng, sờ mát tay. Thân cây chuối mẹ đang có quả này to bằng một cánh tay ôm của người lớn].
Đoạn 3
Cây chuối có nhiều tàu lá, có tàu đã già khô, bị gió đánh rách ngang và rũ xuống gốc. Các tàu lá còn xanh thì liền tấm, to như cái máng nước úp sấp. Những tàu lá ở dưới màu xanh thẫm. Những tàu ở trên màu xanh mát, nhạt dần. [Chính giữa các tàu lá chuối, lá non mới mọc, cuốn lại như một mũi mác dài chĩa thẳng lên trời màu xanh đọt chuối. Giữa các nách của tàu lá, cuốn của buồng chuối to bằng cổ tay em, cong oằn xuống đất đeo những nải chuối cỏ quả đã no tròn. Các nải chuối xoay đều quanh cuống buồng. Ở trên cao là nải to, ở dưới nài bé hơn một chút. Nải cuối cùng chỉ lưa thưa dăm quả không đều nhau. Quả chuối căng tròn, vỏ của quả màu xanh bóng. Đầu quả, hoa râu đã rụng để lại một cái núm đen. Buồng chuối đã già dặn, đến lúc ăn được.]
Đoạn 4:
[Chuối cho qua ăn ngon và bổ. Lá chuối dùng gói bánh, gói xôi. Thân chuối dùng để chăn nuôi.]Chuối có ích như thế nên bà em thường xuyên chăm bón cho chuối tốt tươi.
LUYỆN TẬP XÂY DỰNG MỞ BÀI
TRONG BÀI VĂN MIÊU TẢ CÂY CỐI
(Tiết 2 – Tuần 25)
A. Mục tiêu:
Học sinh biết viết mở bài trong bài văn miêu tả cây cối theo hai cách: mở bài gián tiếp hoặc mở bài trực tiếp.
B. Nội dung
1. Dưới đây là hai đoạn có thểdùng để mở đầu bài văn tả cây hồng nhung. Hai cách mở bài ấy có gì khác nhau?
a) Vườn nhà em có môt cây hồng nhung không biết trồng từ năm nào (mở bài trực tiếp).
b) Mùa xuân đến, hoa trong vườn nhà em đua nhau khoe sắc. Hoa nào cũng đẹp, nhưng đẹp hơn cả là cây hoa hồng nhung. Cây hoa này ông emtrồng từ lúc nào em cũng không nhớ rõ, nhưng nó là cây hoa mà em yêu quý nhất (mở bài gián tiếp).
2. Hãy viết đoạn mở bài theo cách mở bài gián tiếp cho bài văn tả cây phượng, cây hoa mai hoặc cây dừa.
BÀI LÀM 1
a) Cây phượng vĩ trồng giữa sân trường em.
Sân trường Tiểu học của em không lớn lắm. Ba dãy phòng học nối nhau thành hình chữ u bao bọc một mảnh sân vừa đủ để học sinh của năm khối lớp xếp hàng ngay ngắn chào cờ. Trên vuông sân ấy, ngay giữa sân trường, cây phượng vĩ vươn tay xoe tròn vòm lá, che mát một khoảng sân.
b) Trước sân nhà, ba em trồng một cây hoa mai.
Ba em là một người say mê trồng cây cảnh. Với ba em, trồng cây, nhất là trồng cây cảnh, hoa lá là một nghệ thuật. Ba em bảo: “Cây cối, hoa lá đem lại không gian trong lành, tươi đẹp cho con người. Đẹp trước hết là phải khỏe, bình an.”‘. Chính vì thế, ba em đã trồng một cây mai tứ quý ngay trước sân nhà vì ba cho rằng: ‘”Tứ kì mai nở, vạn sự bình an.”.
c) Đầu xóm có một cây dừa.
Làng em trải dài theo hương lộ liên xã. Từ xưa, hình dáng làng đã chia ra ba xóm đi về ba ngã đường băng qua các xã. Không hẹn nhưng mỗi xóm đều có một cây cao, to tỏa bóng mát ở đầu xóm. Xóm Thượng có một cây đa cao đại thụ như cổng chào, ở xóm Hạ là lũy tre to cao vút, còn xóm em là xóm Trung, ngay ngõ rẽ vào xóm một cây dừa cao lớn nghiêng mình soi bóng trên dòng mương.
LUYỆN TẬP XÂY DỰNG KẾT BÀI
TRONG BÀI VĂN MIÊU TẢ CÂY CỐI
(Tiết 1 – Tuần 26)
A. Mục tiêu:
Học sinh biết viết kết bài mở rộng và không mở rộng trong bài văn miêu tả cây cối.
B. Nội dung
1. Có thể dùng các câu sau để kết bài không? Vì sao?
a) Rồi đây, đến ngày xa mái trường thân yêu, em sẽ mang theo nhiều kỉ niệm của thời thơ ấu bên gốc bàng thân thuộc của em. (Đề bài: Tả cây bàng ở sân trường em).
– Kết bài không mở rộng: nêu cảm xúc của em về cây bàng.
b) Em rất thích cây phượng vĩ phượng không những cho chúng em bóng mát để vui chơi mà còn làm tăng thêm vẻ đẹp của trường em. (Đề bài: Tả cây phượng ở sân trường em).
– Kết bài không mở rộng: nêu ích lợi của cây phượng.
2. Em hãy viết kết bài mở rộng cho một trong những đề tài dưới đây:
a) Cây tre ở làng quê:
“Cây tre ở làng kết nên thành lũy bảo vệ cho làng. Lũy tre che mát, chắn gió cho làng. Xưa,tre làm gậy tre,chông tre chống giặc. Nay, tre đi vào sản xuất tiên tiến, mĩ nghệ giỏ tre, làn tre xuất khẩu, bông tre, sợi tre trong công nghệ dệt. Tre làng, hình ảnh muôn thương, ngàn nhớ, dũng cảm kiên trung của người con Việt hiện thực mà lãng mạn như một bài thơ.”
b) Cây tràm ở quê em.
“Cây tràm đã trở thành cây biểu tượng cho quê em và sản phẩm của nó chiếm lĩnh thị trường: dầu tràm trong ngành dược, tinh dầu tràm trong kĩ nghệ ướp thơm vật liệu. Người dân quê em quý từng tấc đất rừng tràm vì đó là tiền, là bạc, là công sức, là hồn của quê. Về đến quê, em được hít thở không khí ngát hương tràm. Rời quê đi học, em mang theo trong mình trái tim yêu quê và thấm đẫm hương tràm.”
c) Cây đa cổ thụ dầu làng.
“Tuổi thơ của em gắn liền với hình ảnh cây đa cổ thụ đầu làng. Cây đa làng em đã hoá thành hình ảnh chung của làng quê Việt: cây đa được khắc trên tranh sơn mài, cất cánh không phải theo chú Cuội lên cung Trăng mà vượt nghìn cây số đến với bạn bè khắp năm châu. Cây đa trở thành hình ảnh nghệ thuật thấm đẫm tình dân quê mộc mạc, là niềm tự hào của riêng em, của mọi người Việt Nam.”
LUYỆN TẬP MIÊU TẢ CÂY CỐI
(Tiết 2 – Tuần 26)
A. Mục tiêu:
Học sinh biết lập dàn bài chi tiết cho đề bài văn tả cây cối.
B. Nội dung
1. Lập dàn bài cơ bản bài văn miêu tả cây cối.
DÀN BÀI CƠBẢN
1) Mở bài: Giới thiệu cây định tả.
(Cây được trồng ở đâu? Do ai trồng)
2) Thân bài:
a) Tả bao quát:
– Cây to như thế nào? Tuổi của cây? (Cây đại thụ, cây non mới mọc, cây đã được vài năm…)
– Hình dáng cây như thế nào? (cao lớn, vòm lá tròn, ngọn nhọn, tán rộng…)
b) Tả từng bộ phận của cây:
– Thân cây thế nào? (to lớn, lênh khênh, chót vót, thấp lùn..), vỏ cây thế nào? (xù xì, ram ráp; láng bóng, nhẵn thín…), màu gì?
– Gốc cây to bằng cỡ nào? (một vòng tay ôm, bằng cái cối bột…)
– Rễ? (chỉ tả được khi nhìn thấy loại cây có rễ nổi)
– Cành nhánh ra sao? (đâm tỉa nhiều cành, thẳng đuột, suôn dài, cành khều khào, gân guốc…)
– Lá? (chi chít, lưa thưa..), hình dáng lá như thế nào? (cong cong, tròn bầu, dài như lưỡi mác, có răng cưa…)
– Hoa màu gì? Hình dáng như thế nào? Quả to cỡ nào? Hình dáng, màu sắc như thế nào?
c) Ích lợi của cây:
– Trong đời sống.
– Trong nền kinh tế của nước nhà.
d) Cách chăm sóc cây của người trồng, của gia đình và của người xung quanh.
3. Kếtluận:
– Nêu cảm nghĩ và việc làm của em đối với cây.
Đề bài: Lập dàn bài tả một cây có bóng mát (hoặc cây ăn quả, cây hoa) mà em yêu thích.
BÀI LÀM 1
(a) Phương pháp tả lần lượt từng bộ phận của cây.
Dàn bài chi tiết:
1. Mở bài: Giới thiệu cây bàng trong sân trường. (Vị trí của cây, tuổi của cây)
2. Thân bài:
a) Tả hình ảnh bao quát của cây:
– Cây cao bao nhiêu mét? (5m đến 6m cành lá tỏa rộng che mát một khoảng sân), vòm lá thế nào? (chia thành nhiều tầng, xòe tròn như một chiếc ô lớn)
b) Tả các bộ phận của cây:
– Thân cây thế nào? (xù xì, da thân cây màu đen mốc, thân cây càng lên cao càng phân ra làm nhiều nhánh, phân tầng lá rõ rệt.)
– Gốc cây? (to bằng hai vòng tay học sinh chúng em)
– Rễ? (nối ngoằn ngoèo trên mặt đất như những con rắn đang nhỏm mình bò tới)
– Lá bàng? ( Lá bàng tròn to bằng bàn tay em, hình tròn như cái quạt nan thằng Bờm. Lá già màu vàng sậm, đỏ rồi rơi xuống đất. Lá non mới nhú xanh biếc như ngọn đèn lấp ló trong vòm cây. Lá xanh thẫm, dày, xếp đều tầng lá, chi chít rợp bóng mát.)
c) Hoạt động của người, vật (chim chóc…), cảnh vật xung quanh cây:
– Nắng chiếu sáng trên vòm cây, len qua kẽ lá, rót xuống sân thành những đốm sáng hoa văn li ti, nhấp nháy làm tấm áo lụa mặt đất được dệt một tấm thảm hoa đặc sắc mà không một xưởng dệt công nghiệp nào có thểtạo nên vóc vải như thế.
– Chim hót líu lo, nhảy chuyền trong vòm lá, ríu rít gọi nhau.
– Chúng em quây quần chơi vui, học bài, tập thể dục dưới gốc bàng.
d) Ích lợi của cây bàng:
– Lá cây che bóng mát.
– Hình ảnh nên thơ, thân thuộc của học đường.
3) Kết bài:
– Nêu tình cảm của em đối với cây bàng.
– Nêu kỷ niệm của em với cây bàng (nếu có).
BÀI LÀM 2
(b) Phương pháp tả lần lượt từng thời kì phát triển của cây.
Dàn bài chi tiết:
1) Mở bài: Giới thiệu cây bàng trong sân trường, ngay thời điểm em đang chọn tả.
2) Thân bài:
a) Tả lần lượt từng thời kì phát triển của cây:
– Có thể chọn tả hình ảnh cây thay đổi theo từng mùa trong năm:
* Xuân: lộc non mơn mởn.
* Hè: lá xanh um.
* Thu: lá xanh thẫm, quả bàng chín trong kẽ lá.
* Cuối thu đầu đông: cây dần thay lá.
– Có thể chọn tả cây phát triển từ lúc còn bé (Lúc em học lớp 1, cây bàng là cây non, chỉ có một vòm lá. Hiện nay cây bàng đã cao to, vòm lá chia thành bốn, năm tầng lá.)
b) Các bộ phận của cây cũng phát triển, thay đổi theo thời gian.
c) Hoạt động của người, vật (chim chóc, ong bướm…) quanh cây.
– Những chú nhím non nhảy nhót dưới bóng cây. Ong, bướm rập rờn bên vòm lá.
d) Ấn tượng, ích lợi của cây bàng:
– Mọi vật đều thay đổi không ngừng như cây luôn luôn phát triển để lớn lên. Em cũng cùng cây phát triển, học tập và trưởng thành.
– Mai này cây lo lớn thành cây đại thụ cùng với mái trường Tiểu học đón các mầm non và đưa vào Trung học các học sinh trưởng thành của mình.
3) Kết bài:
Tình cảm của em với cây bàng trong sân trường.
BÀI LÀM 3
Dàn bài tả cây hoa
1. Mở bài: Giới thiệu cây hoa định tả?
Cây được trồng ở đâu? Do ai trồng? Cây có từ bao giờ?
2. Thân bài:
a) Tả bao quát:
– Cây to cỡ nào? Màu sắc gì nổi bật? (Nên giới thiệu màu hoa)
b) Tả chi tiết:
– Gốc hoa? (một gốc hoặc gốc đẻ chồi non), độ cao của thân cây? cành? (cứng, có gai – hoa hồng; thẳng đuột, mang theo lá – hoa cúc; ẻo lả – hoa cẩm tú, hoa thuộc dòng cỏ; ngậm nước, có gai – xương rồng; ngậm nước, bọc cuống lá, bẹ lá – các loại hoa thuộc dòng lá bẹ như môn).
– Nụ hoa? (tròn, nhọn, li ti…), nụ hoa màu gì? Khi nở, cánh hoa như thế nào? Hương hoa thế nào? (ngào ngạt, thoang thoảng, ngan ngát), hương hoa tựa hương gì? (mật ngọt, mùi cỏ, mùi nếp chín…)
– Hoa? Hoa to bằng cỡ nào? Hình gì? (tròn, thuôn dài, loa kèn, tua rua như đèn lồng…), Nhụy hoa màu gì?
c) Ích lợi của cây hoa: .
– Tô điểm cho cảnh trí thèm đẹp, tươi mát, làm cho không khí thêm trong lành.
– Có thể làm vị thuốc (nếu có).
d) Cách chăm sóc hoa hoặc sự chăm sóc của em và những người chung quanh đối với cây hoa.
3. Kết luận:
– Nêu cảm xúc của em đối với cây hoa.
– Cây hoa gợi cho em kỷ niệm nào đã qua, ý tưởng nào trong tương lai (nếu có).
II. Chọn cách mở bài:
1. Mở bài trực tiếp: Giới thiệu ngay cây định tả
Ví dụ:
Hết Tết, ba em đem mấy cành hồng dăm vào trong chậu. Ấy thế mà giờ đây nó đã cao lên thành một chậu hồng xinh xắn.
2. Mở bài gián tiếp: Giới thiệu những sự vật, cảnh trí chung quanh cây hoặc những nhận định, ý niệm có mối tương quan đến cây rồi mới giới thiệu cây định tả. Có thể giới thiệu thơ, ca dao về các loài cây có mối liên hệ với cây định tả làm lời dẫn giới thiệu cây định tả.
Ví dụ:
a) Vào những ngày nghỉ, bọn trẻ chúng em rủ nhau chơi đùa sân đình làng. Sân đình làng lát gạch, chơi ô ăn quan hoặc con quay thì thật tuyệt. Tuyệt hơn nữa là bóng mát của cây đa che mát một khoảng sân đình. Cây đa, với vòm lá to lớn, sừng sững, đồ sộ ngự bên cạnh công đình.
b) “Hoa ban xòe cánh trắng
Lan tươi màu nắng vùng
Cành hồng khoe nụ thắm
Đợi đến ngày tỏa hương ”
Câu thơ trong bài học vần của lớp một đã đem các sắc màu hoa đặt gần nhau thành chùm hoa tươi thắm. Hoa lan mẹ em trồng không phải màu vàng. Hoa của chậu lan này đỏ thắm và mang một cái tên mỹ miều: Nhược Lan.
III. Viết từng đoạn thân bài:
1.Tảlá dừa:
Các tàu lá dừa xanh sẫm, xòe ra mọi phía. Mỗi tàu lá dừa mang các sóng lá đối xứng nhau, xếp đều, xanh mướt như một lọn tóc tết sam. Cây dừa nghiêng bóng, chải tóc bên dòng kênh. Bấy nhiêu tàu lá dừa là bấy nhiêu lọn tóc tết sam đu đưa trong gió, rì rào như một khúc dạo đầu êm dịu của bản nhạc đồng quê.
2. Tả quả cam chín:
Ngày tháng dần qua, rễ cam cần mẫn chắt lọc từ đất dinh dưỡng và uống ngọt những tia nước bà tưới cho cây. Quả cam mới ngày nào bằng viên bi, giờ đã lớn dẩn thành quả to bằng cái chén con, da xanh bóng. Lá cam xanh biếc, vẫy tay gọi nắng, vỏ cam mỏng dần, mỏng dần rồi ửng màu vàng tươi dưới lớp da xanh. Trái cam mọng nước kéo cành oằn la đà gần sát đất. Mỗi một làn gió qua. nghe như hương cam chín ùa về một lúc. Cam đã đến kì trảy quả.
IV. Chọn cách kết bài:
1.Kết bài mở rộng:
– Nêu ích lợi, tầm quan trọng của cây đối với: kinh tế quốc gia, môi trường sống (phạm vi rộng).
– Nêu việc cần làm để phát triển cây hoặc bảo vệ, nhân rộng cây trồng.
– Nêu hình ảnh cây trong văn hóa, nghệ thuật truyền thống.
– Nêu tình cảm, mối liên tưởng của em về hình ảnh, ích lợi của cây trong tương lai.
2. Kết bài không mở rộng:
– Nêu tình cảm của em đối với cây một cách cụ thể trong thời điểm hiện tại,
– Nêu ích lợi (trong phạm vi hẹp) của cây.
Ví dụ:Bài văn tả cây hoa mai.
a) Khi những nụ mai xòe cánh, tỏa hương, Chúa Xuân đã ngự khắp không gian, câu đối đỏ treo la liệt chợ Tết. Em theo mẹ đi chợ Tết, được hưởng không khí thơm nồng của bánh mứt, của muôn hoa. Rồi hoa mai nở vàng rực cây và em được thêm một tuổi mới. Xúng xính màu áo mới, em cùng cây mai chờ đón giao thừa. (Kết bài mở rộng)
b) Em rất thích cây mai bố trồng. Em thường giúp bố tỉa lá, tưới cây. Cây mai tô điểm sân nhà em thêm tươi đẹp và thêm ấm áp mỗi độ xuân về. (Kết bài không mở rộng)
CÁC BÀI VĂN MẪU
Đề 1 Tả một cây có bóng mát.
BÀI LÀM 1
(Tả cây bàng trong sân trường)
Trường em không lớn lắm, ngôi trường Tiểu học ở một thị trấn nhỏ chỉ gọn lỏn có ba dãy phòng học xây thành hình chữ H nên sân chơi chia thành hai nơi. Ở sân trước, từ cửa sổ phòng học lớp 5A nhìn ra, cây bàng cổ thụ xum xuê cành lá che mát một khoảng sân trường.
Trường em vừa kỷ niệm mười lăm năm ngày thành lập trường, có lẽ cây bàng cũng có cùng năm tuổi ấy. Thân cây cao lớn, chĩa ra thành nhiều tầng lá, ngọn bàng đã vượt quá mái ngói lớp học. Gốc hàng to khoảng hai vòng tay ôm. Từ chỗ lồi của gốc bàng, rễ bàng; to bằng cổ chân em bò ngoằn ngoèo trên mặt đất như những con rắn đang nhổm mình phóng tới. Thân cây bàng xù xì, màu nâu đen. Càng lên cao, thân cây càng thon lại và đâm nhánh ra tứ phía. Nhánh to thì bàng cổ tay người lớn, nhánh nhỏ cũng bằng cổ tay em. Nhánh cây đâm tua tủa nhiều cành mang vô số phiến lá thuôn tròn như cái quạt mo thằng Bờm. Mặt trên của lá bàng màu xanh biếc, láng bóng. Mặt dưới của phiến lá màu xanh ngọc, như được phủ một lớp phấn trắng, gân lá ở dưới cuống lá nổi cộm, cứng cáp. Thế nên, em có thể cầm cuống lá bàng, chọn một lá to, làm cái quạt khi chơi đồ hàng. Lúc này đang giữa tháng ba, lá bàng xanh thắm một màu, đan xen nhau chi chít trong từng tầng lá. Lá bàng mọc thành tầng, càng lên cao, vòng tròn của tầng lá nhỏ lại. Vòm lá bàng như một cái bánh ga-tô khổng lồ, xanh sẫm, nhiều tầng. Xen lẫn trong tầng lá ấy, trái bàng tròn, to bằng ngón chân cái, hình thon thon, dẹt như hạt quả đát, da xanh bóng. Sang thu, quả bàng chín vàng sẽ rơi xuống gốc. Chúng em nhặt lấy, đập ra ăn. Hạt của quả bàng có vị ngòn ngọt và hơi béo. Tưởng như trong tầng lá bàng dày chen kín ấy chẳng còn có chỗ trống nào cho chim chóc đậuđược, nhưng đứng dưới gốc bàng, em vẫn nghe được tiếng chim chuyền cành, gọi nhau lích rích. Khi sân trường vắng vẻ, có lúc tình cờ, em nghe tiếng chim hót một hồi dài như bản nhạc lanh lảnh, ngân nga một lúc rồi vút cao, dứt giọng. Nghe tiếng chim hót mà em chẳng thấy bóng chim đâu. Sân trước của trường là nơi chúng cm chào cờ. Chắc hẳn, cây bàng đã chứng kiến không biết bao nhiêu buổi lễ chào cờ nghiêm trang và rất nhiều buổi lễ long trọng khác. Tán lá bàng xòe rộng cho chúng em vui chơi, che chở cho chim chóc náu mình khi mưa gió, hót vang khí trời trong, nắng ấm. Từng phiến lá bàng thì thầm trong gió hay rơi rụng xuống sân trường làm quạt cho chúng em chơi đều góp phần làm cho ngôi trường của chúng em thêm xanh, đẹp. Mỗi đợt gió thổi qua, từng tầng lá bàng lao xao, lao xao. Tiếng lao xao dài tận mãi tưởng như không dứt. Vững chãi trong sân trường, cây bàng cổ thụ khắc ghi vào chuỗi ngày học tập thời thơ ấu của em những kỷ niệm đẹp, êm đềm, ngân nga cùng năm tháng.
Mai này, khi xa mái trường Tiểu học, em chắc chắn sẽ rất nhớ cây bàng. Bởi chính dưới gốc bàng này, cô học trò nhút nhát là em đây đã trở thành người chỉ huy đội giỏi, phấn đấu học tập, không ngừng vươn lên trong vòng tay thân ái của bạn bè, với sự dạy bảo tận tình của các thầy cô giáo cùng tình yêu thương vô bờ bến của cha mẹ.
BÀI LÀM 2
(Tả cây đa đầu làng, hay trước sân đình làng)
Quê em là một xã vùng cửa biển. Cả xã có sáu thôn ôm gọn cửa sông ra biển nên nói mặt xã hướng biển, lưng xã tựa đồng hoặc ngược lại đều đúng, ở chỗ cửa con sông ra biến chảy hẹp như lạch ấy là đình làng Thuận Lợi. Đình được dựng hướng chính đông, mặt đình hướng ra biển. Ở phía nam cổng đình là một cây đa trăm tuổi trầm tư cùng gió biển và ruộng lúa bao xung quanh.
Cây đa cao lớn tỏa rợp bóng mát. Gốc đa to độ bốn năm người ôm. Gốc đa chỗ lồi, chỗ lõm lạo thành vài ba cái hốc. Ngay dưới gốc đa, rễ đa nâu đen, to bằng bắp tay nửa chìm, nửa nổi trên mặt đất, bò loằng ngoằng, tỏa rộng bốn phía, bám chặt vào đất. Một phần rễ không chịu bám vào đất mà bò uốn lượn, ôm lấy gốc đa rồi mới vươn xa luồn vào lòng đất. Gốc đa nom kì vĩ như một tác phẩm điêu khắc gỗ, khắc chìm nổi ngoạn mục. Thân cây đa vươn cao theo từng chồ lồi lõm của gốc, lên cao độ bốn, năm mét. Thân cây đa phân thành các nhánh to như cột đình, chỗ phình to, chỗ uốn lượn trông nghệ thuật như một cây cảnh không lồ được, uốn rất công phu, vỏ cây màu nâu đen, sần sùi, nổi nhiều mắc cây, có mắc to như cái vành nón lá. Từ trên cành, rễ phụ buông xõa xuống từng chùm cao thấp chung quanh gốc cây, trông xa giống như chòm râu tóc của một ông già; lại gần, rễ phụ nom như rèm sáo trúc la đà,dung đưa trước gió. Nhánh đa đâm vô số cành, mang dày lá đa. Những chiếc lá đa to bằng bàn tay em bé, hơi giống lá bồ đề, chen kín vòm lá. Lá đa dày đến nỗi chẳng tia nắng nào có thể lọt qua kẽ lá mà rót xuống mặt đất. Vòm lá tròn dày như một chiếc ô khổng lồ che một khoảng đất rộng khô ráo ngay cả khi trời mưa. Vào những trưa êm vắng hay lúc chiều tà tĩnh mịch, đứng dưới gốc đa em nghe hơi gió thoảng mát lạnh, vòm lá rì rào như có ai cười, ai nói. Không gian lúc ấy có vẻ âm trầm, hơi rờn rợn, có lẽ do vòm lá quá dày nên đứng dưới gốc đa khi chiều tà em thấy có vẻ tối hơn bên ngoài. Gốc đa lúc ấy như một chốn thâm nghiêm tạo cho em cảm giác hơi sờ sợ. Trừ những lúc chiều tà vắng vẻ, còn những lúc khác dưới gốc đa lúc nào cũng có lác đác dăm ba người nghỉ mát, trò chuyện hoặc đám trẻ mục đồng hội hợp, nghỉ ăn trưa, chơi đủ thứ trò chơi của trẻ con.
Mùa xuân, cây đa nảy lộc, lá non màu đỏ hung. Búp đa nhọn tua tủa, đâm thẳng lên trời. Vòm lá đa như dược thắp sáng bằng vô sổ đòn quả nhót đỏ trên nền xanh thẩm của lá, búp da thắp sáng màu lừa rồi chuyển dần sang xanh. Vụ lúa Đông – Xuân chín, sân đình tràn ngập thóc, rơm, vòm lá đa lúc ấy xanh rì. Khi đồng chỉ còn trơ gốc rạ, thóc đã vào kho, cây đa bắt đầu ra hoa. Hoa đa giống như nụ chè, màu trắng ngà. Sang hè, quả đa to bằng đốt ngón tay, chín đỏ mọng rồi thâm lại như trái bồ quân. Lúa vụ hai phơi khắp sân đình gọi lũ chim câu về trên khắp cánh đồng, còn cây đa gọi chim muông đến chia quả chín. Trong vòm lá đa, chim chóc từng đàn trú ngụ ở đây, tưởng như hết cả chim muông cùng về. Chúng hót véo von, cãi nhau om sòm. Có lúc chúng im lìm, chỉ nghe tiếng lích rích, có lúc chợt huyên thuyên, chí chóe một hồi dài. Chim hót ríu ran từ sớm đến chiều tà. Cây đa tôn thêm nét cổ kính của đình làng. Mọi người dân làng em từ già đến trẻ đều xem cây đa như một nơi tôn nghiêm chẳng khác gì đình thờ thành hoàng của làng. Vào ngày cúng đình, gốc đa dược dọn dẹp sạch sẽ, bày biện bàn ghế. Dân làng bày bàn ghế đến tận sân sau của đình. Từ chỗ gốc đa đến sân sau đình, đó là nơi dân làng liên hoan, chia nhau lộc bánh quả, xôi chè, cơm thịt đã dâng cúng tổ tiên. Chỉ một nắm xôi thịt, vài ba cái bánh nhưng chứa chan tình làng nghĩa xóm, niềm tôn kính ông bà, tôn trọng lệ làng, lễ giáo thêm phần trang nghiêm. Cây đa còn chứng kiến những vụ mùa bội thu cua bà con nông dân, những tràng cười hê hả, những màn trình diễn văn nghệ cua bà con các đội sản xuất. Với riêng em, cây đa là cả một quãng thời thơ ấu: học tập, vui chơi, mơ mộng đến một tương lai xán lạn và là hình ảnh làng quê yêu dấu trong tim.
Mai này lớn lên. em sẽ mang hình ảnh cây đa đi theo trong mỗi bước chặng đường sự nghiệp. Vì từ cội nguồn truyền thống dân tộc, quê hương là nơi yêu dấu, là nơi tôn nghiêm cua mỗi con người. Cây đa đình làng chính là hình ảnh quê hương tha thiết ấy.
Đề 2Tả một cây ăn quả.
BÀI LÀM 1
<