Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan.
Bài làm
Trên một trăm năm mươi năm trước, có thể trong dịp vào Huế nhận chức Cung trung giáo tập, chức nữ quan dạy học cho các cung nữ, Bà Huyện Thanh Quan đã sáng tác bài Qua Đèo Ngang, một bài thơ hay, một bức tranh tâm trạng “nhớ nước”, “thương nhà” độc đáo.
Bốn câu đầu bài thơ tả cảnh:
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sống chợ mấy nhà.
Tác giả đến Đèo Ngang vào lúc chiều tà bóng xế, cảnh đẹp nhưng buồn. Ởđây, cỏ cây hoa lá chen chúc, xô bồ. Lốiđiệp từ (chen), điệp vần (lá, đá, hoa) gợi nét hỗn độn, hoang vu của một vùng núi non hiểm trở. Bà đưa mắt nhìn xuống dưới núi, bên sống. Bóng dáng con người thấp thoáng nhỏ bé, thưa thớt lác đác, lom khom, tiều vài chú, chợ mấy nhà.
Cảnh vật ấy đủ để nhà thơ cảm nhận một cách sâu lắng cái buồn vắng quạnh hiu của một chiều tà ở miền sơn cước.
Bốn câu sau bài thơ mượn cảnh tả tình, nói lên tâm sự của tác giả trước cảnh ấy.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc Thương nhà mỏi miệng cái gia gia Dừng chân đứng lại trời non nước Một mảnh tình riềng ta với ta.
Lúc chiều tà trên đèo vắng, tiếng cuốc kêu khắc khoải, tiếng đa đa vô hồi thắt quặn trong lòng nhà thơ càng gợi thêm nỗi niềm vời vợi nhớ thương. Bà nhớ nhà, nhớ quê, nhớ một thời vàng son nào đó đã qua trong một nỗi niềm cô quạnh buồn thương man mác của tâm hồn.
Khép lại bài thơ là hình ảnh bé nhỏ của nữ sĩ trước mặt là “trời non nước” vô tình như mở rộng ra đến vô tận. Chính vì vậy, bà cảm thấy cô đơn, quạnh quẽ, đành quay về với chính mình, đối diện với chính mình “ta với ta”. Hai chữ “ta” nhưng vẫn chỉ có “một mảnh tình riêng” nghĩa là vẫn chỉ có một người. Điều này đủ thể hiện nỗi cô đơn cùng cực của nữ sĩ khi ấy.
Về mặt nghệ thuật, Qua Đèo Ngang thuộc thể thất ngôn bát cú Đường luật, một thể thơ vốn kiểu cách, sang trọng. Thế nhưng với ngòi bút tài hoa điêu luyện của tác giả, bài thơ có ngôn ngữ giản dị, trong sáng này đã trở nên gần gũi, thân thuộc với tất cả mọi người. Bài thơ khiến ta thêm yêu đất nước với bao cảnh đẹp tình sâu và thêm trân trọng những hồn thơ rung động diệu kì trước những bức tranh non sống gấm vóc.
Chứng minh bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan là một bức tranh tả cảnh, đồng thời là nỗi lòng nhớ nước, thương nhà của tác giả.
Gợi ý viết bài
Bài thơ Qua Đèo Ngang là một bài thơ hay của Bà Huyện Thanh Quan được làm theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Bài thơ chia làm bốn phần, mỗi phần hai câu với kết cấu đề, thực, luận, kết.
Hai câu đề của bài thơ nêu lên thời điểm tác giả đến Đèo Ngang và thiên nhiên Đèo Ngang vào thời điểm đó:
Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Thiên nhiên ở Đèo Ngang vào buổi chiều tà thấp thoáng bóng dáng của sự sống, nhưng rất cằn cỗi và chật chội. Hai từ chen xuất hiện trong một câu thơ đã chứng tỏ điều đó.
Hai câu tiếp theo diễn tả cuộc sống của con người ở Đèo Ngang:
Lom khom dưới núi, tiều vài chú,
Lác đác bên sống, chợ mấy nhà.
Trong hai câu thơ trên, tác giả đã sử dụng biện pháp đảo ngữ và phép đối để làm tăng thêm nét hoang vắng ở Đèo Ngang. Con người xuất hiện một cách nhỏ nhoi, cô độc và lam lũ. Sự nhỏ bé của con người trước thiên nhiên bao la càng làm cho không gian ở Đèo Ngang thêm buồn và hiu quạnh.
Hai câu thơ tiếp theo nói lên tâm sự của nhà thơ:
Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.
Từ không gian bao la nhưng thanh vắng của Đèo Ngang bỗng vang lên tiếng kêu của hai loài chim. Tiếng kêu ấy không làm mất đi cái tĩnh mịch của không gian mà trái lại càng làm không gian im vắng hơn. Hai âm thanh ấy chỉ mang tính ước lệ để gợi lên nỗi nhớ nước, thương nhà của nhà thơ. Câu thơ mang âm điệu buồn và hoài cổ, thể hiện tâm trạng thương nhớ của nhà thơ đối với quá khứ và niềm xót xa đối với thực tại.
Hai câu cuối cùng trong bài thơ chính là nỗi cô đơn của Bà Huyện Thanh Quan khi dừng chân đứng lại, trời, non, nước:
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
Sáu câu thơ đầu của bài thơ là một không gian rộng lớn bao lấy con người, đến câu thơ cuối cùng thì hình ảnh của con người mới vượt lên và chiếm lấy vị trí thượng phong trong bức tranh phong cảnh ấy.
Đến Đèo Ngang, nhìn thấy cảnh vật nơi đây hùng vĩ và nên thơ, Bà Huyện Thanh Quan dừng lại để ngắm nhìn, để cảm nhận và thu vào lòng mình cái đẹp của thiên nhiên. Dẫu trong lòng còn ngổn ngang tâm sự và niềm cô đơn hiện hữu, bà vẫn thể hiện được tư thế hiên ngang của mình, thể hiện bản lĩnh đứng trên nỗi cô đơn của chính mình. Bà dám đối mặt với sự cô đơn chứ không chạy trốn.
Bài thơ là một bức tranh phong cảnh, nhưng cũng là một dòng tâm sự của nhà thơ, chính điền này làm nổi bật nỗi niềm nhớ nước, thương nhà của tác giả.
Phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan.
Bài làm
Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh, sống trong nửa đầu thế kỉ XIX, quê ở làng Nghi Tàm, ven Hồ Tây, kinh thành Thăng Long. Bà xuất thân trong một gia đình quan lại, có nhan sắc, có học, có tài thơ Nôm, giỏi nữ công gia chánh – bà được vua Minh Mệnh vời vào kinh đô Phú Xuân làm nữ quan “Cung trung giáo tập”.
Chồng bà là Lưu Nghi làm tri huyện Thanh Quan, tỉnh Thái Bình, nên người đời trân trọng gọi bà là Bà Huyện Thanh Quan.
Bà chỉ còn để lại sáu bài thơ Nôm thất ngôn bát cú Đường luật: Qua Đèo Ngang, Chiều hôm nhớ nhà, Thăng Long thành hoài cổ, Chùa Trấn Bắc, Chơi Đài Khán Xuân Trấn võ, Tức cảnh chiều thu.
Thơ của bà hay nói đến hoàng hôn, man mác buồn, giọng điệu du dương, ngôn ngữ trang nhã, hồn thơ đẹp, điêu luyện.
Trên đường vào Phú Xuân, bước tới Đèo Ngang lúc chiều tà, cảm xúc dâng trào lòng người, Bà Huyện Thanh Quan sáng tác bài Qua Đèo Ngang. Bài thơ tả cảnh Đèo Ngang lúc xế tà và nói lên nỗi buồn cô đơn, nỗi nhớ nhà của người lữ khách – nữ sĩ.
Lần dầu nữ sĩ “bước tới Đèo Ngang”, đứng dưới chân con đèo “đệ nhất hùng quan” này, địa giới tự nhiên giữa hai tỉnh Hà Tĩnh – Quảng Bình, vào thời điểm “bóng xế tà”, lúc mặt trời đã nằm ngang sườn núi, ánh mặt trời đã “tà”, đã nghiêng, đã chênh chênh. Trời sắp tối. Âm “tà” cũng gợi buồn thấm thìa. Câu hai tả cảnh sắc: cỏ cây, lá, hoa, đá. Hai vế tiểu đối, điệp ngữ “chen”, vần lưng: “đá” – “lá”, vần chân: “tà” – “hoa”, thơ giàu âm điệu, réo rắt như một tiếng lòng, biểu lộ sự ngạc nhiên và xúc động về cảnh sắc hoang vắng nơi Đèo Ngang hai trăm năm về trước:
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Chỉ có hoa rừng, hoa dại, hoa sim, hoa mua. cỏ cây, hoa lá phải “chen” với đá mới tồn tại được. Cảnh vật hoang sơ, hoang dại đến nao lòng.
Nữ sĩ sử dụng phép đôi và đảo ngữ trong miêu tả đầy ấn tượng. Âm điệu thơ trầm bổng du dương, đọc lên nghe rất thú vị:
Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông chợ mấy nhà.
Điểm nhìn đã thay đổi: đứng trên cao nhìn xuống dưới và nhìn xa. Thế giới con người là tiều phu, nhưng chỉ có “tiều vài chú”. Hoạt động.là “lom khom”, đang vất vả gánh củi xuống núi. Một nét vẽ ước lệ trong thơ cổ (ngư, tiều, canh, mục) nhưng rất thần tình, tinh tế trong cảm nhận. Mấy nhà, chợ bên sống thưa thớt, lác đác, chỉ mấy cái lều chợ miền núi, sở dĩ nữ sĩ gọi “chợ mấy nhà” là để gieo vần mà thôi: “tà” – “hoa” – “nhà”. Cảnh thật hoang vắng, heo hút, buồn, hoang sơ nơi con đèo xa xôi lúc bóng xế tà.
Tiếp theo, nữ sĩ tả âm thanh tiếng chim rừng: chim gia gia, chim cuốc gọi bầy lúc hoàng hôn. Điệp âm “con quốc quốc” và “cái gia gia” tạo nên âm hưởng du dương của khúc nhạc rừng, của khúc nhạc lòng người lữ khách. Lấy cái động (tiếng chim rừng) để làm nổi bật cái tĩnh, cái vắng lặng im lìm trên đỉnh Đèo Ngang trong khoảnh khắc hoàng hôn, đó là nghệ thuật lấy động tả tĩnh trong thi pháp cổ. Phép đối và đảo ngữ vận dụng rất tài tình:
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Nghe tiếng chim rừng mà “nhớ nước đau lòng”, mà “thương nhà mỏi miệng” chứng tỏ nỗi buồn thấm thìa vào chín tầng sâu cõi lòng, tỏa rộng trong không gian từ con đèo tới miền quê thân thương, sắc điệu trữ tình dào dạt, thiết tha, trầm lắng. Lữ khách là một nữ sĩ nên nỗi “nhớ nước”, nhớ kinh kì Thăng Long, nhớ nhà, nhớ chồng con, nhớ làng Nghi Tàm thân thuộc không thể nào kể xiết!
Bốn chữ “dừng chân đứng lại” thể hiện một nỗi niềm xúc động đến bồn chồn. Một cái nhìn mênh mang: “trời non nước”; nhìn xa, nhìn gần, nhìn cao, nhìn sâu, nhìn bốn phía., rồi nữ sĩ thấy vô cùng buồn đau, như tan nát cả tâm hồn, chỉ còn lại “một mảnh tình riêng”. Tác giả đã lấy cái bao la, mênh mông, vô hạn của vũ trụ, của “trời non nước” tương phản với cái nhỏ bé của “mảnh tình riêng”, của “ta” với “ta” đểcực tả nỗi buồn cô đơn xa vắng của người lữ khách khi đứng trên cảnh Đèo Ngang lúc ngày tàn. Đó là tâm trạng nhớ quê, nhớ nhà:
Dừng chân đứng lại trời non nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Qua Đèo Ngang là bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật tuyệt bút. Thế giới thiên nhiên kì thú của Đèo Ngang như hiển hiện qua dòng thơ. Cảnh sắc hữu tình thấm một nỗi buồn man mác. Giọng thơ da dương, réo rắt. Phép đối và đảo ngữ có giá trị thẩm mĩ trong nét vẽ tạo hình đầy khám phá. Cảm hứng thiên nhiên trữ tình chan hòa với tình yêu quê hương đất nước đậm đà qua một hồn thơ trang nhã. Bài thơ Qua Đèo Ngang” là tiếng nói của một người mà trở thành khúc tâm tình của muôn triệu người, nó là bài thơ của một thời và mãi mãi, bài thơ non nước.
LUYỆN TẬP
Đề 1. Giới thiệu về Bà Huyện Thanh Quan và bài thơ Qua Đèo Ngang.
Đề 2. Tâm trạng của Bà Huyện Thanh Quan thể hiện như thế nào qua bài thơ Qua Đèo Ngang.
Đề 3. Em hiểu như thế nào vềcâu thơ Một mảnh tình riêng ta với ta trong bài thơ Qua Đèo Ngang.
Leave a Reply