ĐỀ THI ĐẠI HỌC MÔN VĂN ĐỀ 5
Phần I— Bắt buộc cho mọi thí sinh
Câu 1. (1) Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Bên kia sông Đuống của Hoàng cầm:
“Bao giờ về bên kia sông Đuống
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh”.
Phần II— Thí sinh thi theo chương trình chưa phân ban làm câu 2a. Thí sinh đã đăng ký thi theo chương trình chuyến ban làm câu 2b.
Câu 2a. Phân tích diễn biến tính cách nhân vật Chí Phèo (trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao) từ lúc ở tù về cho đến khi giết Bá Kiến.
Câu 2b. Phân tích tâm trạng của chị em Liên đêm đêm thức đợi tàu trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam.
GỢI Ý LÀM BÀI
Câu 2a.Các ý chính:
1. Giới thiệu sơ lược về nhân vật Chí Phèo đến lúc Chí Phèo ở tù về.
2, Diễn biến tính cách nhân vật Chí Phèo từ khi ở tù về đến lúc giết Bá Kiến.
a) Ra khỏi tù, Chí Phèo hoàn toàn khác hẳn: về hình dạng và tính nết.
– Về hình dạng “cái đầu… răng… mặt… mắt… trông gớm chết”. .
– Về tính tình: thay đổi, uống rượu – say – rạch mặt ăn vạ (quỷ dữ).
– Như một định mệnh nghiệt ngã: Chí Phèo luôn “song hành” cùng Bá Kiến.
b) Ba lần đến nhà Bá Kiến là những biểu hiện sâu sắc trong diễn biến tính cách của Chí Phèo.
b1.Lần thứ nhất: Chí Phèo đến nhà Bá Kiến là ngay sau khi ở tù về. “Hắn về hôm trước… gọi tận tên tục ra mà chửi”. Chí Phèo biểu hiệnsự căm thù với kẻ đã gây ra tội lỗi và đẩy y vào tù. Chí Phèo “liều chết” với bố con Bá Kiến. Chí Phèo rạch mặt ăn vạ, Bá Kiến nham hiểm, xử nhẫn với Chí Phèo bằng rượu, tiền bạc và những lời đường mật.
b2. Lần thứ hai: Sau khi ở nhà Bá Kiến về được ba ngày, uống rượu hết tiền, y lại “ngật ngưỡng” đến nhà Bá Kiến để đòi nợ, để “kêu xin cụ Bá đi ở tù lại vì không có ruộng vườn, không có gì để sinh nhai”, Chí Phèo đòi “đâm chết dăm ba thằng rồi cụ bắt con giải huyện”…
Bá Kiến sai Chí Phèo đòi tiền nhà Đội Tảo. Bá Kiến cho Chí Phèo năm đồng, cắt cho năm sào vườn ở bãi sông. Chí Phèo vô tình thành tay chân cho Bá Kiến.
– Nhưng có một lần Chí Phèo tỉnh: Cái đêm trăng sau khi Chí Phèo uống rượu ở nhà Tự Lãng về, bị cảm, Thị Nở săn sóc và tỏ lòng thương yêu Chí…
Sau bao năm say và đập phá, Chí Phèo mới lại thấy âm thanh bình thường, quen thuộc, tha thiết thế. Chí nhớ lại những mơ ước ngày xưa “một gia đình nho nhỏ…”. Tình yêu của Thị Nở làm Chí cảm động, Chí “thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao”. Cái bản chất đẹp đẽ của người lao động trong Chí Phèo vẫn không tắt…
b3. Lần thứ ba: Bị Thị Nở cự tuyệt, Chí Phèo cảm thấy tuyệt vọng. Chí Phèo không thể có hạnh phúc, xã hội đã cự tuyệt quyền làm người của Chí. Và Chí đến nhà Bá Kiến để “đòi lương thiện”.
– Đây là những giây phút tỉnh táo nhất của Chí: Nhận ra kẻ thù, không đòi tiền uống rượu, đòi lương thiện, và biết là “không được nữa đi” thì xót xa, cay đắng.
– Chí Phèo giết Bá Kiến và giết luôn cả mình: đỉnh cao của ý thức cũng là đỉnh cao của bi kịch.
b4. Tóm lại:
– Cách kết thúc tác phẩm với cái chết bi thảm, với hình ảnh “chiếc lò gạch cũ” xa xa kia… là kết cục bi thảm, bế tắc.
– Sự phát triển của tính cách Chí Phèo là sự vận động phát triển phức tạp nhưng theo chiều thuận, hợp lí – như một tất yếu, một logíc của bi kịch trong xã hội cũ.
– Ý nghĩa tố cáo của truyện ngắn và giá trị nhân đạo toát ra từ số phận, cuộc đời của những kiếp người khốn khổ trong xã hội cũ.
– Ngòi bút tài hoa và tấm lòng nhân ái của Nam Cao: ông sắc sảo trong việc tố cáo xã hội đã đẩy con người cố nông vào con đường lưu manh tội lỗi không lối thoát và khẳng định nhân phẩm của họ ngay trong khi họ rơi vào tình trạng lưu manh tội lỗi ấy.
Câu 2b. Các ý chính:
1) Giới thiệu vắn tắt về Thạch Lam và truyện ngắn Hai đứatrẻ.
– Thạch Lam là cây bút văn xuôi trước cách mạng với phong cách viết truyện thường không có cốt truyện, nhẹ nhàng và thấm thìa sâu sắc, là truyện tâm tình…
– Hai đứa trẻ là truyện ngắn xuất sắc, tiêu biểu cho phong cách truyện ngắn của ông. Truyện viết về mảnh đời thường nhưng rất sâu kín của tâm hồn con người trước Cách mạng tháng Tám, gợi lên bao xót xa, thông cảm.
2) Phân tích tâm trạng chị em Liên đêm đợi tàu.
2.1 – Truyện ngắn Hai đứa trẻ được bố cục ba phần: Là bức tranh thiên nhiên, bức tranh đời sống xã hội nơi phố huyện, bức tranh tâm trạng con người (chị em Liên).
2.2 – Tâm trạng chị em Liên đêm đêm thao thức đợi tàu:
a) Chị em Liên đã có những ngày sống ởHà Nội “Hà Nội nhiều đèn lắm! Hà Nội sáng rực, vui vẻvà huyênnáo”. Do bố mất việc, cùng gia đình về phố huyện này (phố huyện nghèo, không ánh sáng, leo lét).
– Được mẹ giao trông cửa hàng tạp hóa, buồn tẻ, đơn điệu… nhưng làm sao bứt ra được!
– Chúng phải tự tìm lấy cho mình một chút gì để bấu víu, để tự an ủi, để ước mơ: đêm đêm chờ đợi một chuyến tàu chạy qua đù chỉ trong vài phút!
– Chờ đợi không phải là để bán thêm một ít hàng, không chỉ vì muốn nhìn chuyến tàu mà còn vì nguyên cớ sâu xa khác…
b) Tâm trạng đợi tàu được Thạch Lam miêu tả thật tỉ mỉ và với thái độ nâng niu, trân trọng.
– Đó là một nỗi chờ đợi khắc khoải: Mỗi đêm chỉ có một chuyến tàu đi qua phố huyện, chúng không thể bỏ lỡ. Cho nên, dù buồn ngủ ríu cả mắt, An và Liên vẫn cố chống lại cơn buồn ngủ. Ngay cả khi An không thể thức được nữa, vẫn còn dặn chị: “Tàu đến, chị đánh thức em dậy nhé”… Không chỉ có chị em Liên mà những người như chị Tí, bác Siêu họ cũng thức với đêm.
– Trong sự tăm tối, họ vẫn chờ đợi và hi vọng “mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”. Hình ảnh đoàn tàu “sáng rực, vui vẻ và huyên náo” chính là hình ảnh của “một cái gì tươi sáng”. Cho nên tàu qua rồi chị Tí mới dọn hàng về, bác Siêu mới gánh hàng trở vào trong xóm, Liên mới vực em vào ngủ…
– Chuyến tàu đêm trở thành nỗi nhớ, như dấu mốc quan trọng trong mỗi chuyến, mỗi cuộc đời của người nghèo nơi phố huyện. Vì vậy tác giả đã miêu tả rất tỉ mỉ những diễn biến trong đêm đợi tàu. Sự chờ đợi được tác giả miêu tả trang trọng, thiêng liêng:
+ Tàu sắp đến: Chuyến tàu được báo trước từ xa với hình ảnh “ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi”, “tiếng còi xe lửa ở đâu vanglại trong đêm…”. Và “ai nấy tỉnh hẳn, Liên đánh thức em và dắt em đứng dậy để nhìn cho rõ”như thỏa mãn sự khắc khoải chờ đợi cả ngày dài.
+ Tàu đến: “Tiếng còi rít lên và tàu rầm rộ đi tới”. Tàu lướt qua, tâm hồn hai đứa trẻ như bị cuốn hút bởi chuyến tàu “các toa đền đều sáng trưng… lố nhố những người…”.
+ Tàu đi vào đêm tối: “Để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt”. Nhưng tâm hồn chị em Liên vẫn theo mãi con tàu cho đến khi “chiếc đèn xanh treo trên toa sau cung, xa xa mãi, rồi khuất sau rặng tre” như “đã đem theo một chút thế giới đi qua”… Với chị em Liên đó vừa là kí ức, vừa là hi vọng nhưng chẳng khác gì một ảo ảnh, nó giống như một giấc mộng đẹp, một niềm mơ ước xa xôi không bao giờ trở thành hiện thực, nhưng vẫn cứ mong – dù chỉ là chốc lát. Và đêm nào cũng thế, cố thức để chờ đợi với sự háo hức, khát khao, tươi mới như lần đầu.
3.3 – Ý nghĩa tư tưởng:
– Với thái độ trân trọng, Thạch Lam đã quan sát và miêu tả một cách công phu, tinh tế, tỉ mỉ nhằm thể hiện tâm trạng của chị em Liên đêm đêm thức đợi tàu. Thông qua đó, tác giả muốn bày tỏ niềm thông cảm và xót thương với những kiếp người quẩn quanh mòn mỏi không bao giờ biết đến ánh sáng, hạnh phúc, túng quẫn về vật chất, nghèo nàn về tinh thần.
– Qua truyện ngắn, tác giả cũng nhắn một điều: Phải biết hi vọng ước mơ dù cho cái hi vọng ước mơ ấy chỉ nhỏ nhoi và chốc lát, phải biết vượt lên cái tẻ nhạt, cái vô vị hàng ngày để mà sống và tin yêu.
ĐỀ THI ĐẠI HỌC MÔN VĂN ĐỀ 6
Câu 1.
Nguyễn Tuân kết thúc truyện ngắn Chữ người tử tù bằng cảnh sau: “Ngục quan cảm động, vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt ri vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.
Anh (chị) hãy giải thích cảnh kết thúc kì lạ đó bằng cách:
a) Nêu các tình tiết chính của cốt truyện dẫn đến tình tiết kết thúc.
b) Trình bày những nét chủ yếu trong nhân cách của hai nhân vật người tù và quản ngục để thấy cái kết kì lạ nhưng có thể hiểu được.
Câu 2
a) Kể tên, khoảng thời gian sáng tác và năm xuất bản của các tập thơ của Tố Hữu theo trình tự từ đầu đến năm 1977.
b) Con đường thơ Tố Hữu gắn bó chặt chẽ với các chặng đường cách mạng Việt Nam từ những năm ba mươi máu lửa đến ngày toàn thắng về ta 1975. Vậy chỉ riêng tên các tập thơ của ông có thể gợi cho anh (chị) ý nghĩa khái quát gì về những chặng đường cách mạng đó?
GỢIÝ LÀM BÀI
Câu 1.Các ý chính:
1. Giới thiệu sơ lược về Nguyễn Tuân về Vang bóng một thời:
– Nguyễn Tuân sinh 1910, mất 1987, viết văn từ trước Cách mạng tháng Tám với nhiều thể loại văn xuôi và phê bình văn học (có thể kể tốn một số tác phẩm).
– Vang bóng một thời, tập truyện đầu tay in năm 1940 rất nổi tiếng được coi là “gần đạt tới sự toàn mỹ” (Vũ Ngọc Phan). Vang bóng một thời viết về thời đã qua, nay chỉ còn như một dư âm vang bóng. Nhân vật trong truyện là những trang tài tử, bậc hào kiệt, nghĩa sĩ, nhà nho thất thế. Mỗi truyện là một hoài niệm về nhân cách văn hóa cao thượng trong sạch, cứng cỏi, say mê cái đẹp để tương phản với xã hội thực dân phong kiến hiện tại đầy sự thấp kém, bỉ ổi. Vang bóng một thời hướng con người gắn bó với những giá trị văn hóa truyền thống, vươn tới khát vọng tinh thần cao cả giữa cuộc đời ô trọc, bẩn thỉu. (Chuyến dẫn vào Chữ người tử tù – một truyện hay nhất trong Vang bóng một thời).
2. Ý chuẩn bị, đặt vấn đề để đi vào giải thích:
– Vai trò của cảnh kết thúc trong truyện (đặc biệt là truyện lãng mạn): Nó gắn chặt với tư tưởng chủ đề của tác phẩm, một khâu cuối cùng hết sức quan trọng của cốt truyện, nó cũng thường biểu lộ trực tiếp thái độ hoặc khát vọng của nhà văn đối với con người và cuộc sống.
– Cái kết của Chữ người tử tù là một cái kết đặc biệt kì lạ, nó cũng là một cảnh tượng xưa nay hiếm. Nếu không đọc tác phẩm hoặc tách cái kết đó khỏi hệ thống cốt truyện và nhân vật thì sẽ không thể nào hiểu được, vì từ cổ chí kim đã bao giờ có cảnh quan giám ngục khóc vái một người tù với niềm kính cẩn đến thế. Thế giới ngục tù là thế giới tương phản đến tàn bạo. Vì sao có sự đổi ngôi này, vì sao có sự gắn bó tri âm giữa quản ngục với người tù? (Chuyển vào giải thích bằng hai căn cứ đề đã cho).
3. Nêu các tình tiết chính của cốt truyện dẫn đến cảnh kết:
– Nhà tù tỉnh Sơn chuẩn bị đón sáu tên tử tù nguy hiểm, trong đó đứng đầu là Huấn Cao.
– Trước khi tù đến, viên quản ngục đã tỏ lòng khâm phục Huấn Cao vì cái tài viết chữ đẹp. Trong lòng viên quản ngục đã có ý muốn biệt đãi Huấn Cao, nhưng vẫn cảnh giác cái tài bẻ khóa trốn ngục của ông.
– Đêm, quản ngục ngồi một mình, nghĩ về mình, về viên thơ lại dưới quyền”… hắn cũng như mình chọn nhầm nghề mất rồi”.
– Sáng hôm sau: Huấn Cao và năm kẻ tử tù khác được giải đến. Họ đều tỏ khí phách ngang tàng, ngạo nghễ (hành động dỗ gông đuổi rệp).
– Suốt nửa tháng, quản ngục biệt đãi Huấn Cao.
– Huấn Cao khinh bạc vì chưa hiểu quản ngục.
– Quản ngục mong muốn xin Huấn Cao mấy chữ đại tự trên lụa trắng.
– Có lệnh chuyển tù, quản ngục nhờ thơ lại đến nói với Huấn Cao tâm sự của mình. Huấn Cao đồng ý.
– Đêm viết chữ kì lạ trong ngục. Viết xong, Huấn Cao khuyên quản ngục bỏ nghề.
– “Ngục quan cảm động vái người tù… bái lĩnh”…
4. Giải thích bằng nhân cách của Huấn Cao và quản ngục
Nhân cách của hai người phải được thể hiện trong quan hệ giữa người nàyvới người kia (không yêu cầu phân tích nhân vật mà là trình bày nét chính của nhân cách).
a) Nhân cách Huấn Cao có ba điểm nổi bật:
– Con người tài hoa nghệ thuật viết chữ Hán đẹp, nhanh, đã từng nổi tiếng khắp vùng, nhưng ý thức được giá trị văn hóa của cái tài nên không phải ai xin chữ ông cũng cho: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà phải ép mình viết câu đối bao giờ”.
– Con người có khí phách phi thường: tiếng tăm đó đã đến tai viên quản ngục từ trước. Khi đã là một tử tù chò’ ngày lên đoạn đầu đài vẫn ung dung ngạo nghễ trong cảnh giam cầm, vẫn đường hoàng không nao núng: “Đến cảnh chết chém, ông còn chẳng sợ nữa là”. Viên quản ngục khâm phục khí phách này của ông. Trong khi Huấn Cao vẫn tỏ vẻ khinh bạc.
– Con người có tấm lòng “thiên lương” cao cả: Mặc dù tiền bạc, quyền lực không lung lay dược ông nhưng Huấn Cao không phải là con người có trái tim sắt đá. Bắt đầu thái độ Huấn Cao đối với quản ngục là khinh bạc, coi thường, nhưng khi biết quản ngục có tâm hồn trong sáng lạc vào nơi bùn nhơ thì Huấn Cao thay đổi thái độ “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài”… và Huấn Cao đã sẵn sàng cho chữ quản ngục.
Nhân cách Huấn Cao như một ánh sáng văn hóa rọi vào bóng đêm tù ngục, có thể làm cháy sáng những tâm hồn u ẩn.
b) Nhân cách viên quản ngục: .
– Đây không phải một viên quản ngục thông thường tàn bạo, ngu dốt trong nhà tù xã hội cũ. Ngay khi nghe tin Huấn Cao sẽ tới, quản ngục đã tỏ cảm tình với người tử tù.
– Viên quản ngục biết trọng người tài, biết tiếc cái tài, biết giá trị của cái đẹp, của văn hóa. Chính Huấn Cao bị cảm kích bởi quản ngục “một tấm lòng trong thiên hạ”, “một âm thanh trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”.
– Quản ngục là người có lương tri trong sạch “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”, khao khát thoát khỏi nơi ô uế này. Sau khi ý nguyện xin chữ đã được thỏa mãn, quản ngục nhận lời khuyên của Huấn Cao:phải thoát khỏi cái nghề này để giữ cái đời lương thiện.
Cảm phục chân thành đối với Huấn, Cao, quản ngục vừa khóc vừa vái và nói lời cuối cùng trong đoạn kết.
– Hành động cuối cùng của quản ngục chứng tỏ sức cảm hóa mạnh mẽ của cái đẹp, của giá trị văn hóa. Môi trường đen tối không phải lúc nào cũng tha hóa được con người nếu con người còn lương tri văn hóa, còn tình yêu đối với cái đẹp. Đó là khát vọng lãng mạn của nhà văn.
Câu 2.
1. Tên, khoảng thời gian sáng tác, năm xuất bản các tập thơ của Tố Hữu (yêu cầu đúng trình tự thời gian).
– Từ ấy (1937 – 1946) xuất bản: 1946
– Việt Bắc (1946 — 1954) xuất bản: 1954
– Gió lộng (1954 – 1961) xuất bản: 1961
– Ra trận và Máu và hoa sáng tác trong khoảng 1962 – 1977. Năm xuất bản: Ra trận: 1972, Máu và hoa: 1977.
2. Ý nghĩa khái quát của tên các tập thơ: Yêu cầu này nhằm khẳng định lại nhận định của sách giáo khoa: Con đường thơ Tố Hữu gắn bó chặt chẽ với các chặng đường cách mạng Việt Nam. Mỗi tập thơ là một chặng trên con đường đó. Tên tác phẩm thường có ý nghĩa khái quát nội dung tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm. (Lưu ý: Chỉ yêu cầu việc khái quát ý nghĩa của tên tập thơ, không yêu cầu phân tích tập thơ).
– Từ ấy: Bước đi đầu tiên nhà thơ gặp chân lí cách mạng. Đó là thời “máu lửa” gian nan của cách mạng, thời “xiềng xích” của quân thù giam cầm các chiến sĩ cách mạng và cả dân tộc và cả dân tộc bẻ gãy xiềng xích đứng lên tự giải phóng trong Cách mạng tháng Tám (cần có thêm dẫn chứng)
– Việt Bắc: Quân thù trở lại, cả dân tộc bước vào kháng chiến anh dũng chống thực dân Pháp. Việt Bắc là “thủ đô kháng chiến”, nơi có Bác Hồ, Trung ương Đảng lãnh đạo toàn dân cầm súng, Việt Bắc gợi lên tình cảm kháng chiến lớn lao xúc động: Tình quê hương đất nước, đồng bào, quân dân, đồng đội, tiền tuyến – hậu phương… Việt Bắc gợi lên niềm tự hào chiến thắng và niềm vui hòa bình trở lại.
– Gió lộng: Niềm vui lớn lao miền Bắc bước vào xây dựng CNXH và quyết tâm vững chắc đấu tranh thống nhất đất nước. Gió lộng là ngọn gió lãng mạn trong cảm hứng với niềm vui hiện tại, niềm tin tương lai và thắm thiết ân tình cách mạng.
– Ra trận: Cả đất nước “ra trận” “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Ra trận là cuộc chiến đấu hào hùng, là ý nghĩa thời đại của cuộc chống Mĩ, cứu nước. Dân tộc, con người Việt Nam ra trận. Nhà thơ phát hiện thêm nhiều quan hệ và phẩm chất của dân tộc và con người Việt Nam.
– Máu và hoa: Suy nghiệm về chiến thắng của dân tộc (hoa) và sựhi sinh của nhân dân (máu). Chiến thắng vĩ đại là công lao, là hi sinh xương máu của bao anh hùng liệt sĩ của cả dân tộc.
ĐỀ THI ĐẠI HỌC MÔN VĂN ĐỀ 7
PHẦN CHUNG
Phân tích hình tượng sông Đà trong Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân và từ đó rút ra những nhận xét về phong cách nghệ thuật của tác giả. .
PHẦN LỰA CHỌN CÂU 1 HOẶC CÂU 2
Câu 1.
Bình giảng khổ thơ sau trong bài Tràng giang của Huy Cận:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cảnh nhỏ: bóng chiều sa,
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.
Câu 2.
Bình giảng khổ thơ đầu trong bài Đây mùa thu tới của Xuân Diệu:
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới – mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng”
GỢI Ý LÀM BÀI
Phần chung: Các ý chính:
1. Giới thiệu khái quát về tác giả và tác phẩm.
2. Phân tích hình tượng sông Đà
a) Sông Đà hùng vĩ, hung bạo:
Sông Đà lôi cuốn Nguyễn Tuân bởi vẻ đẹp độc đáo đầy phóng túng, ngang tàng của nó. “Chúng thủy giai đông tẩu, Đa giang độc bắc lưu” (Mọi con sông đều chảy về hướng đông, chỉ riêng sông Đà chảy ngược về hướng bắc). Sông Đà có cá tính riêng, không chịu khuôn mình vào một dòng chảy ổn định mà luôn bứt phá, đổi thay để làm dậy sóng, dậy đá, làm nổi bật hết vẻ đẹp độc đáo của nó.
– Sông Đà có nhiều quãng hiểm trở, lòng sông sâu và hẹp… “con nai con hổ nhiều lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy vừa tắt phụt đèn điện”.
– Sông Đà có những quãng mặt ghềnh dài hàng cây số: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt”…
– Những hút nước trên sông “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào… Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cáigiếng hút ấy nó lôi tuột xuống”.
– Tiếng nước thác sông Đà gầm réo dữ dội: “nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”… “Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa… rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”.
– Đá sông Đà là những “thạch trận” đầy nguy hiểm. “Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông”. Hình thù kì quái “mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó…”. Đá cũng có tâm địa, hành vi, cá tính như người. Chúng bộc lộ hết mọi uy lực, mưu mẹo, phương thức để dọa dẫm trổ tài với con người, lừa con người đưa con thuyền vào cạm bẫy…
b) Sông Đà thơ mộng, trữ tình:
– Sông Đà gắn bó thân thiết và đầy tình cảm đối với Nguyễn Tuân, “Con sông Đà gợi cảm… Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra sông Đà… nó đằm đằm, ăm âm như gặp lại cố nhân”…
– Nguyễn Tuân đã từng “say sưa nhìn mây mùa xuân bay trên sông Đà… Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, nước sông Đà không xanh màu xanh canh hến của sông Gâm sông Lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa”… Màu nắng Đường thi“yên hoa tam nguyệt”…
– Con sông Đà “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mày trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Meo đốt nương xuân”.
– Sau những chặng bứt phá phóng túng, dữ dội, sông Đà trở nên hiền từ, thơ mộng. Dòng sông “lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc”. Cảnh ven sông “lặng tờ”, bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiên “như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”… “Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp”… “Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương… vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt”… “Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông, bụng trắng như bạc rơi thôi”… “sông Đà bọt nước lềnh đênh, bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”…
(Phân tích sông Đà hùng vĩ dữ dội và thơ mộng trữ tình gắn liền với những sáng tạo nghệ thuật của tác giả như cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh, khả năng so sánh, liên tưởng độc đáo, bất ngờ, các biện pháp nhân hóa, ẩn dụ. Năng lực quan sát, tưởng tượng v.v…).
3) Những nét chính trong phong cách nghệ thuật của tác giả.
a) Tài hoa, uyên bác, sự vật được khám phá thiến về phương diện văn hóa thẩm mĩ:
Kiến thức phong phú, sâu rộng, tư liệu tỉ mỉ, chính xác, khoa học. Sông Đà bắt nguồn từ đâu, dài bao nhiêu cây số, bao nhiêu thác ghềnh đều được tác giả miêu tả chính xác, sinh động và tỉ mỉ.
– Huy động vốn kiến thức của nhiều ngành khoa học (văn học, lịch sử, địa lí…). Nhìn nhận thể hiện sự vật dưới góc độ của nhiều ngành nghệ thuật: thi ca, hội họa, điện ảnh, âm nhạc…
– Khai thác tối đa mọi vẻ đẹp độc đáo của những chi tiết. Nước, thác, đá, cát, gió sông Đà, bờ sông Đà, hình ảnh những con thuyền và con người lao động trên sông Đà đều được tác giả làm bộc lộ hết mọi dạng vẻ sinh động. Nhiều sự vật bình thường dưới ngòi bút tài hoa của tác giả bông lấp lánh một vẻ đẹp mới lạ, hấp dẫn…
b) Có thiên hướng thể hiện những cảm giác mãnh liệt, gây ấn tượng đậm nét. Hoặc thật thơ mộng, trữ tình lãng mạn, hoặc thật dữ dội hùng vĩ (đặc điểm đó thể hiện rõ nét trong hình tượng sông Đà).
c) Phóng túng, tự do trong hư cấu nghệ thuật. Câu văn linh hoạt, uyển chuyển, có cấu trúc độc đáo không tuân theo một khuôn mẫu, chuẩn mực nhất định, giàu hình ảnh và nhạc tính, vốn từ ngữ phong phú dồi dào, cách sử dụng sáng tạo làm nảy sinh những ý nghĩa mới mẻ, gây ấn tượng mạnh. Thể loại tùy bút phát huy hết lợi thế của các đặc điểm, trên (chọn những từ ngữ, câu văn tiêu biểu để phân tích).
ĐỀ THI ĐẠI HỌC MÔN VĂN PHẦN TỰ CHỌN
Câu 1. Các ý chính
1. – Khổ thơ trên là khổ thơ kết thúc bài Tràng giang, một bài thơ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Huy Cận. Lần đầu tiên, khi Huy Cận xuất hiện giữa văn đàn với tập Lửa thiêng, Xuân Diệu đã nhận xét: “Trong thơ Việt Nam nghe bay dậy một tiếng địch buồn, không phải sao thiên thai, không phải điệu ái tình, không phải lời li tao kể chuyện một cái tôi, mà ấy là một bản ngậm ngùi dài”. Lời nhận xét đó vừa khẳng định đặc điểm riêng trong thơ Huy Cận, vừa khẳng định vị trí xuất sắc của Huy Cận trong làng Thơ Mới.
– Huy Cận cũng như các nhà thơ mới khác, đều yêu mến thiên nhiên, nhưng thiên nhiên của ông mang một phong vị riêng khó lẫn. Nếu như thiên nhiên trong thơ Xuân Diệu luôn đắm say, rạo rực, phô bày hết mọi sắc độ và ngạt ngào hương vị tình yêu thì trong thơ Huy Cận, cây cỏ, núi sông lại bình thản và lặng lẽ như thấm thìa nỗi buồn của cái tôi cô độc. Sống trong thế giới thực tại giả dối lúc bấy giờ, Huy Cận cảm thấy mình là “kẻ đánh mất thiên đường”, bơ vơ, bất hạnh và nhớ tiếc quá khứ. Quá khứ mà Huy Cận hướng tới là “trời xưa”, là không gian vũ trụ mang tính vĩnh cửu, tượng trưng cho chân – thiện – mĩ; là cõi thiên đường theo quan niệm của tác giả. Khổ thơ cuối cùng với nhữngkhổ thơ khác trong bài Tràng giang thể hiện rõ những đặc điểm đó.
2) Hai câu thơ đầu của khổ thơ:
– Hình ảnh “mây cao đùn núi bạc” nhìn từ ngoại cảnh là một hình ảnh hùng vĩ, sông động, một hình ảnh đẹp, nhưng nhìn từ tâm trạng nhà thơ ta cảm thấy có một sự rợn ngộp, chữ “đùn” và “lớp lớp” gây ấn tượng mây tuôn chồng chất, không gian rộng mở đối lập với con người đơn chiếc, nhỏ nhoi và bất lực.
– Hình ảnh “chim nghiêng cánh nhỏ” đặt trong sự tương phản với “lớp lớp mây đùn” với “bóng chiều sa” càng làm rõ sự vội vã của cánh chim nhỏ nhoi trước bóng chiều sắp tắt. “Bóng chiều sa” – hoàng hôn ập xuống vội vàng đè nặng lên đôi cánh nhỏ. Nhà thơ muốn diễn tả sự đối lập. Cánh chim quá nhỏ bé, mỏng manh còn bóng chiều thì mênh mang, nặng nề đè nặng lên đôi cánh nhỏ. “Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa” cũng là cảm giác của con người cá nhân cảm thấy mình nhỏ bé, bất lực và cô đơn giữa cuộc đời.
(Liên hệ mở rộng đến những câu thơ, khổ thơ khác trong bài để thấy sự kế tục và phát triển của nội dung, tình cảm, nghệ thuật trong khổ thơ trên.
Ví dụ:
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”.
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang”
“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”.
v.v…)
3) Hai câu cuối của khổ thơ:
– Trước cảnh hoàng hôn buông xuống, sông nước mênh mang, lòng buồn nhớ quê hương trỗi dậy da diết. “Lòng quê” như muôn ngàn con sóng gợn lên trong tâm hồn tác giả.
– Đã có lần Huy Cận tỏ ý phiền lòng khi từ “dợn dợn” của ông bị đọc sai và in thành “dờn dợn”. Hai từ “dợn dợn” không có trong từ điển? Nó là sự sáng tạo của nhà thơ. “Dờn dợn” chỉ nói được hình ảnh của sóng. Còn “dợn dợn” vừa nói được cảnh nước trôi, sóng gợn vừa nói được cảm giác rợn ngợp của lòng người. Câu thơ vừa nói được cảm giác cô đơn của con người cá nhân vừa nói được nỗi nhớ quê hương khắc khoải và niềm mong mỏi được che chở, được sống trong tình quê hương thân thuộc.
“Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Có một sự gặp gỡ giữa câu thơ cuối của Tràng giang với một tứ thơ trong bài Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu – một nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc:
“Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
Yên ba giang thượng sử nhân sầu” .
Người lữ khách trong thơ Thôi Hiệu nhìn thấy khói tỏa sóng gợn mà nhớ tới quê hương, còn nhân vật trữ tình trong bài Tràng giang, đứng trước cảnh sông dài trời rộng “không khói hoàng hôn” mà lòng vẫn dâng đầy nỗi sầu nhớ. Cái buồn của Thôi Hiệu bắt nguồn trực tiếp từ ngoại cảnh. Còn nỗi sầu nhớ của Huy Cận có căn nguyên từ cõi lòng của nhà thơ. Nó tỏa ra từ thế giới nội tâm của cái tôi cá nhân Huy Cận. Hai chữ “nhớ nhà” vừa cụ thể vừa trừu tượng. Đó không chỉ là một mái nhà, một quê hương mà còn là nỗi khát khao tìm một chỗ dựa cho tâm hồn cô đơn, trống vắng của tác giả.
– Đề từ Tràng giang bắt nguồn từ tên gọi một con sông Trung Quốc đã trở thành một đề tài quen thuộc của thơ Đường, nhưng khung cảnh thiên nhiên trong khổ thơ cuối và trong cả bài thơ là khung cảnh thiên nhiên Việt Nam gần gũi, thân thuộc. Huy Cận đã tìm thấy trong cảnh làng quê Việt Nam một nét êm đềm lặng lẽ, phảng phất hồn quê hương, lắng đọng tâm sự để gửi gắm nỗi niềm riêng của mình vào đó. Vì thế, bài thơ vừa thấm thìa một nỗi đau đời, vừa phảng phất tình yêu quê hương xứ sở. Tình cảm đó của nhân vật trữ tình là cái gốc “dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc” như Xuân Diệu nhận định.
Câu 2. Các ý chính:
1. Xuân Diệu là “đại biểu” xuất sắc nhất của phong trào Thơ mới lãng mạn Việt Nam (1932 – 1945). Thơ ông bộc lộ một niềm khát khao giao cảm với đời, bộc lộ lòng khao khát sống, khao khát tình yêu hạnh phúc. Chính lòng nhiệt tình ấy đã giúp ông làm phong phú khả năng chiếm lĩnh và diễn đạt thế giới thiên nhiên và cuộc sống con người. “Kinh nghiệm của Đông và Tây, truyền thống và hiện đại, kết tinh ở một tâm hồn nghệ sĩ khát khao giao cảm với đời đã giúp Xuân Diệu khám phá được nhiều biến thái tinh vi của thiên nhiên cũng như nội tâm của con người”(1). Trong xã hội cũ, những khát vọng đẹp đẽ của con người cá nhân không được đáp ứng. Càng khao khát chiếm lĩnh hạnh phúc trần thế bao nhiêu, Xuân Diệu lại càng cảm thấy sự tồn tại vô nghĩa của con người trong thế giới thực tại. Đi liền với ước vọng tìm kiếm một nguồn sống mạnh mẽ, rạo rực là cảm giác cô đơn, bế tắc. Đó là nguyên nhân làm cho trong thế giới nghệ thuật của ông: “Mùa xuân và bình minh đi liền với những chiều thu tàn và những đêm trăng lạnh, sự nồng nàn đi liền với cảm giác bơ vơ, sự ham hố vồ vập với cuộc đời đi liền với nhu cầu thoát li tất cả” (2). Thơ Xuân Diệu bên cạnh thế giới đầy hương sắc của mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ như “vội vàng”, có vẻ đẹp buồn thương, lặng lẽ, đài các của mùa thu như Đây mùa thu tới. Khổ thơ đầu của bài thơ thể hiện rõ nét đặc trưng đó.
(1) (2) Sách giáo khoa Ngữ văn 11.
2. Hai câu đầu của khổ thơ:
– Hai câu đầu của khổ thơ là bức tranh mùa thu buồn thương, ảo não. Xuân Diệu đã hướng về thiên nhiên mùa thu như những người bạn tâm tình. Mùa thu không còn là đối tượng miêu tả khách quan mà mang những tình cảm chủ quan, trở thành đối tượng tiếp nhận tâm sự của tác giả. Bởi thế ông nhìn rặng liễu mùa thu mà liên tưởng đến hình ảnh của con người. Liễu của ông tuy vẫn còn dáng dấp ước lệ của thơ ca cổ điển nhưng đã mang theo một cảm xúc mới mẻ. “Rặng liễu đìu hiu” là liễu của muôn đời nhưng lại hiện lên trong cách nhìn hiện đại với dáng hình thướt tha, ủ rũ, buông những suối tóc dài và mang một tâm hồn sầu muộn: lệ ngàn hàng. Biện pháp láy lại các thanh bằng và các khuôn âm, khuôn vần “iu”, “uôn”, “uống”, “ang”… ở các câu thứ nhất và thứ hai có tác dụng gợi ấn tượng và hình ảnh về dáng vẻ buông xuôi, mềm mại, ủ rũ lặng lẽ của liễu, đồng thời tạo nên nhạc điệu hòa hợp với nỗi buồn sâu lắng trong lòng người.
3. Hai câu cuối của khổ thơ:
– Với tâm hồn nhạy cảm, tác giả như lắng nghe được bước chân rõ rệt của mùa thu đang hiện dần lên: “Đây mùa thu tới, mùa thu tới”. Hai lần “mùa thu tới” được điệp lại như một lời xác nhận sự hiện diện rõ ràng của đối tượng. Từ “Đây” khẳng định cụ thể thêm không gian tồn tại trực tiếp của mùa thu đồng thời bộc lộ những rung động bất ngờ và mạnh mẽ của tác giả.
– Mùa thu đã thành con người và tất cả những gì của mùa thu đã sống kiếp người (Điều đó xuất phát từ quan niệm thẩm mĩ của tác giả. Đối với Xuân Diệu, con người là chuẩn mực của mọi vẻ đẹp trên trần thế). Mùa thu nhuộm sắc lá vàng trên màu áo mơ phai, sắc mơ vàng của mùa thu mơ mộng, đầy gợi cảm vừa làm nên cái đẹp sang trọng, đài các vừa diễn tả được nỗi sầu thương của một tâm hồn đầy rung cảm trước thiên nhiên.
– Ngoài vẻ đẹp, nét buồn lặng lẽ, Đây mùa thu tới còn diễn tả bước đi của thời gian. Khổ thơ đầu mang những dấu hiệu đặc trưng của mùa thu mới chớm. Liễu mới vào thu, mùa thu bắt đầu xuất hiện trong sự chờ đợi của lòng người: “Đây mùa thu tới, mùa thu tới”. Mùa thu khoe phô sắc độ kiều diễm ở đầu bài thơ để rồi dần dần tàn tạ, dời bước theo thời gian, chia tay với con người trong nỗi sầu li biệt “Khí trời u uất hận chia li – Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói – Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì”.
(Mở rộng liên hệ với những khổ thơ khác trong toàn bài để làm rõ hơn vẻ đẹp buồn đặc trưng của mùa thu Xuân Diệu).
4. Mùa thu là một đề tài quen thuộc của nhiều thế hệ thi sĩ. Với Xuân Diệu, mùa thu được cảm nhận tinh tế, gợi cảm bằng nỗi buồn có sẵn trong lòng mình. Bức tranh mùa thu đẹp một vẻ đẹp buồn, mang dấu ấn nỗi niềm cô đơn của con người cá nhân Xuân Diệu. Nỗi niềm ấy thấm đẫm một tinh thần nhân bản, nó làm cho những cái tôi lẻ loi xích lại gần nhau để tồn tại cùng với những tình cảm cao cả và đẹp đẽ.
ĐỀ THI ĐẠI HỌC MÔN VĂN ĐỀ 8
A – PHẦN CHUNG
Câu 1.
Phân tích phẩm chất anh hùng của các nhân vật và hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành.
B – PHẦN TỰCHỌN
Câu 2a.
Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên:
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đeo mày phủ
Nơi nào qua, lòng lại chẳng – yêu thương?
Khita ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn!
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng.
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hóa quêhương”.
Câu 2b.
Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Việt Bắc của Tố Hữu:
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”.
GỢI Ý LÀM BÀI
Câu 1. Các ý chính:
1. Giới thiệu về tác giả và tác phẩm:
– Nguyên Ngọc (Nguyễn Trung Thành là bút danh dùng trong thời kì hoạt động ở miền Nam những năm chống Mĩ cứu nước) tên khai sinh là Nguyễn Văn Báu, sinh năm 1932, quê ở huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mĩ, ông nhiều năm hoạt động ở Tây Nguyên, vốn sống ấy đã giúp Nguyên Ngọc thành công ở tiểu thuyết đầu tay Đất nước đứng lên (1956) và sau này là Rừng xà nu.
– Viết về hai cuộc kháng chiến (chống Pháp và chống Mĩ), tác phẩm của Nguyên Ngọc đề cập những vấn đề trọng đại của vận mệnh dân tộc và đất nước, xây dựng những tính cách anh hùng tiêu biểu cho nhân dân. Truyện ngắn Rừng xà nu viết năm 1965 đăng lần đầu trên tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng miền Trung Trung Bộ (số 2, 1965) được đưa vào tập truyện và kí Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc (1969).
2. Phẩm chất anh hùng của nhân vật trong truyện ngắn Rừng xà nu (Đây là phần trọng điểm bài làm)
– Tình cảm quê hương đất nước sâu nặng qua truyện ngắn Rừng xà nu.
Tác giả Nguyễn Trung Thành đã thể hiện được những phẩm chất anh hùng của dân làng Xôman, của nhân dân các dân tộc Tây Nguyên- đó là tình cảm gắn bó thiết tha sâu nặng với quê hương đất nước, với núi rừng Tây Nguyên, căm thù giặc sâu sắc, một lòng một dạ đi theo cách mạng, không ngại gian khổ hi sinh, tin tưởng tuyệt đối vào sự thắng lợi của cách mạng.
– Những nhân vật tích cực trong truyện ngắn Rừng xà nu là đại diện tiêu biểu cho các thế hệ cách mạng của làng Xôman. Cụ Mết là đại diện cho thế hệ cách mạng từ thời chống thực dân Pháp, đồng thời cũng là người truyền lại cho các thế hệ sau truyền thống và lịch sử của làng, của cộng đồng. Anh Quyết là đại diện của Đảng, của các phong trào cách mạng, người đi đầu trong phong trào đồng khởi, kiên cường khi giáp mặt với kẻ thù, với cái chết. Tnú, Mai là tiêu biểu cho thế hệ thanh niên giác ngộ lí tưởng về Đảng của dân làng Xôman. Dít, bé Heng là hình ảnh các thế hệ cách mạng lớn lên nhanh chóng, tiếp nối thế hệ cha anh. Tính cách, số phận và con đường đi của các nhân vật này đều mang ý nghĩa đại diện cho nhân dân, cho cộng đồng, số phận mỗi cá nhân thống nhất trọn vẹn với số phận của cả cộng đồng.
Để làm rõ phẩm chất anh hùng của dân làng Xôman, của nhân dân Tây Nguyên, cần đi sâu phân tích một số nhân vật tiêu biểu như Tnú, cụ già Mết, Dít…
3. Phân tích hình tượng cây xà nu
– Sựgắn bó của cây xà nu với đời sống người Tây Nguyên
Bên cạnh các nhân vật Tnú, cụ già Mết, Mai, Dít,. bé Heng… nhà văn Nguyễn Trung Thành còn xây dựng thành công một hình tượng nữa, để lại nhiều ấn tượng sâu sắc cho người đọc là cây xà nu. Không phải ngẫu nhiên mà trong truyện ngắn của Nguyễn Trung Thành, cây xà nu được nhắc đi nhắc lại tới gần 20 lần. Cây xà nu là một hình tượng quán xuyến trong cả truyện, nó có mặt trong đời sống hằng ngày của dân làng Xôman (ngọn lửa xà nu trong bếp mỗi gia đình, trong bếp lửa nhà ưng tập hợp dân làng, tấm bảng bằng nứa xông khói xà nu để anh Quyết dạy chữ cho Mai và Tnú.,.). Cây xà nu cũng gắn liền với những sự kiện quan trọng
trong đời sống của dân làng, nó giống như một nhân chứng lịch sử chứng kiến bao thăng trầm của dân làng Xôman (ngọn đuốc trong tay của cụ già Mết và dân làng vào rừng lấy giáo, mác đã giấu kĩ để chuẩn bị cho cuộc nổi dậy, đêm đêm dân làng Xôman mài vũ khí dưới ánh đuốc xà nu, đêm đồng khởi của làng cũng bừng trong ánh đuốc xà nu…).
– Cây xà nu còn là biểu tượng cho nhân dân Xôman, cho sức sống, phẩm cách và vẻ đẹp của con người Tây Nguyên
Cây xà nu ham ánh sáng và khí trời “nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng…”, cây cũng như Tnú, như dân làng Xôman yêu tự do. Rừng xà nu cũng như dân làng Xôman chịu bao đau thương tang tóc bởi sự tàn phá của bom đạn giặc. “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão… có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người bị đại bác chặt đứt làm đôi”. Những cây xà nu có một sức sống thật mãnh liệt, sự khắc nghiệt của thiên nhiên và bom đạn của kẻ thù cũng không sao hủy diệt nổi: “Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khỏe như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Và cứ thế, lớp cây non vượt lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã, cũng như các thế hệ Xôman, lớp này tiếp lớp khác đứng lên, kế tiếp nhau chiến đấu cho đến thắng lợi hoàn toàn, Anh Quyết hi sinh đã có Tnú và Mai thay thế. Mai ngã xuống giữa lúc tuổi trẻ đầy sức sống thì Dít lớn lên nhanh đến không ngờ, trở thành bí thư chi bộ kiêm chính trị viên đại đội, rồi bé Heng, lớp đàn em của Dít cũng đang lớn lên rất nhanh…
– Bút pháp nghệ thuật của tác giả
Cây xà nu còn là biểu tượng của núi rừng Tây Nguyên, che chở cho dân làng Xôman, “cứ thế, hai ba năm nay, rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn ra che chở cho dân làng”. Và đọng lại trong hình ảnh mở đầu và kết thúc truyện là những cánh rừng xà nu bạt ngàn “đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những rừng xà nu nối tiếp đến chân trời”. Tuy nhiên, cây xà nu không chỉ góp phần thể hiện nội dung chủ đề của truyện, mà còn gắn liền với bút pháp nghệ thuật của tác giả, với chất trữ tình sử thi của truyện ngắn: bức tranh hoành tráng.
Câu 2a. Các ý chính:
– Xuất xứ đoạn thơ, chủ đề bài thơ Tiếng hát con tàu: cảm hứng đi vào thực tế, khát vọng trở về với nhân dân của nghệ sĩ.
Sự ra đời của bài thơ Tiếng hát con tàu gắn liền với một sự kiện kinh tế – xã hội lúc bấy giờ. Đó là năm 1958 có phong trào vận động thanh niên miền xuôi lên mở mang kinh tế, văn hóa ở miền núi. Phong trào này được sự ủng hộ nhiệt tình của đông đảo các tầng lớp nhân dân… Bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên ra đời trong không khí sôi nổi ấy. Những sự kiện đó chỉ là một gợi ý, là điểm xuất phátđể Chế Lan Viên thể hiện khát vọng được về với nhân dân, về với cuộc sống rộng lớn, đồng thời cũng là trở về với ngọn nguồn của nghệ thuật.
– Bình giảng khổ thứ nhất để làm nổi bật tình cảm gắn bó của con người với một vùng đất.
Tiếng hát con tàu là khúc hát say mê rạo rực của một tâm hồn đã thoát khỏi cái khung chật hẹp của một cái tôi nhỏ bé để ra với chân trời rộng lớn của nhân dân, đất nước. Trong niềm vui mói, hồn thơ của Chế Lan Viên như hóa thành con tàu tâm tưởng hăm hở trong hành trình về với nhân dân, về với cuộc đời rộng lớn. Nhưng về với nhân dân cũng chính là đến với lòng mình, làm giàu có thêm cho tâm hồn mình, từ đó nhà thơ đã đi đến sự khẳng định “Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu”. Cả phần hai – cũng là phần chủ yếu của bài thơ – dành cho việc tái hiện hình ảnh nhân dân và gợi lại những kỉ niệm đẹp, sâu nặng tình nghĩa trong những năm kháng chiến gian khổ. Theo dòng hoài niệm, mạch thơ dẫn đến những câu thơ mang tính khái quát, triết lí:
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương?
Cảnh sương giăng, đèo mây phủ hiện lên rất chung (bởi không nói vềmột làng bản cụ thể nào) nhưng lại không hề chung chung, bởi ta vẫn dễ dàng nhận ra cảnh sắc riêng của Tây Bắc. Khi bình giảng có thể so sánh thêm với những câu thơ của Tố Hữu: “Nhớ từng bản khói cùng sương – Sớm khuya bếp lửa người thương đi về” (Việt Bắc).
Câu thơ thứ hai “Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương?” là một câu hỏi tu từ – hỏi chỉ để mà khẳng định rõ hơn tình cảm gắn bó sáu nặng của nhà thơ đối với con người, cảnh vật Tây Bắc, với mọi miền đất xa xôi và hẻo lánh khác của đất nước.
Ở hai câu thơ tiếp theo, Chế Lan Viên đã sử dụng những cặp đôi xứng: Khi ta ở / khi ta đi đất ở / đất hóa tâm hồn, để qua đó nói lên tình cảm gắn bó máu thịt của mình với Tây Bắc. Chính tình cảm đó đã dẫn tới một sự chuyển hóa từ “đất ở” vốn vô tri vô giác trở thành “đất hóa tâm hồn”.
– Ý nghĩa lớn lao của tình yêu, tình cảm con người đối với một vùng quê.
Sang khổ thơ thứ hai, mạch thơ dường như đột ngột chuyển sang một rung cảm và suy tưởng khác – về tình yêu và đất lạ.
“Anh nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương”
Ở khổ thơ này, ta cũng thấy một nét quen thuộc rất dễ nhận ra của phong cách thơ Chế Lan Viên – đó là sự suy ngẫm, triết lí. Những câu thơ viết về tình yêu không phải chỉ là của một tâm hồn tự bộc lộ,biểu hiện những trạng thái của lòng mình, mà còn là của người tự quan sát lòng mình và suy ngẫm, triết lí về tình yêu qua sự chiêm nghiệm. Những hình ảnh so sánh ở đây mang một ý nghĩa triết lí: mỗi hiện tượng, sự vật chỉ có thể tồn tại và phát triển trong mối quan hệ khăng khít với một hiện tượng, sự vật khác – như cái rét của mùa đông, như mùa xuân với bộ lông trở biếc của chim rừng. Đó cũng là bản chất của tình yêu như là sự khăng khít giữa hai tâm hồn – nó diễn ra như một tất yếu của tự nhiên và không thể tách rời.
Tất cả những câu thơ trên như là tiền đề để Chế Lan Viên đi tới một nhận xét có tính đúc kết, khái quát:
“Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương”
Như vậy chính tình yêu là chất kết dính, làm nên sự chuyển hóa kì diệu, khiến cho “đất lạ” – mảnh đất vốn xa lạ với chúng ta trở thành “quê hương” – nơi chôn nhau cắt rốn, gắn bó máu thịt với mỗi con người. Nhưng tình yêu ở đây không chỉ giới hạn trong tình cảm lứa đôi, mà nó còn là biểu hiện kết tinh của những tình cảm quê hương đất nước. Bởi thế mà khổ thơ này dường như có sự đột ngột rẽ ngang của dòng xúc cảm, nhưng thực ra vẫn nằm trong mạch suy nghĩ và dòng cảm xúc chung của cả bài.
Câu 2b. Các ý chính:
— Khái quát về xuất xứ và chủ đề của đoạn thơ:
Việt Bắc là một trong những bài. thơ đặc sắc của Tố Hữu và của thơ ca thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp. Thông qua cuộc đối thoại tưởng tượng giữa người ra đi và người ởlại trong ngày vui chiến thắng, bài thơ đã thể hiện niềm nhớ thương tha thiết và tình cảm đằm thắm, sắt son của người dân Việt Bắc với cách mạng, với Đảng, với Bác Hồ, đồng thời cũng thể hiện tình cảm của người cán bộ kháng chiến với thiên nhiên núi rừng và con người Việt Bắc.
Đoạn thơ trích gần mười câu biểu hiện nỗi nhớ của người cán bộ kháng chiến đối với Việt Bắc lúc chia tay. Mở đầu đoạn thơ là nỗi nhớ nhung:
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người”
Nhớ “hoa”, nhớ “người” thực ra chỉ là cách nói để diễn tả nỗi nhớ cảnh, nhớ người Việt Bắc của người cán bộ sắp về xuôi.
Với tám câu thơ tiếp theo, nỗi nhớ của người cán bộ được thể hiện cụ thể. Cảnh và người hòa quyện với nhau. Trong bốn cặp thơ lục bát, câu sáu dùng cho nhớ cảnh, câu tám diễn tả nỗi nhớ con người. Cảnh và người trong mỗi cặp thơ lại có những đặc điểm và sắc thái riêng. Cứ thế đoạn thơ lại lần lượt gợi nhớ những vẻ đẹp nên thơ của Việt Bắc, gợi lên ở người đọc những rung động trước khung cảnh vừa hùng vĩ, vừa mênh mông bát ngát.
— Nhớ cảnh, nhớ người:
Phong cảnh mà tác giả gợi tả ở đây là phong cảnh của núi rừng Việt Bắc với bốn mùa trong năm. Mỗi mùa có một vẻ đẹp riêng. Mùa đông với “hoa chuối đỏ tươi”, còn mùa xuân với hình ảnh “mơ nở trắng rừng”. Mùa hè đến với âm thanh “Ve kêu rừng phách đổ vàng”. Mùa thu hấp dẫn gợi cảm với “Rừng thu trăng rọi hòa bình”. Mùa nào của Việt Bắc cũng đẹp, cũng đáng yêu, mỗi mùa là một bức tranh.
Nhưng nổi bật hơn cả trong bức tranh hòa bình ấy là vẻ đẹp của con người Việt Bắc. Đó là những con người lao động cần cù, chất phác, giàu tình nghĩa. Con người và hoạt động của con người là một bộ phận không thể tách rời trong khung cảnh Việt Bắc. Dường như khó có thể hình dung “đèo cao nắng ánh” lại thiếu hình ảnh người lên núi, mùa xuân lại thiếu hình ảnh “người đan nón”, hè sang lại thiếu hình ảnh “cô em gái đi hái măng”. Thiên nhiên và con người hòa quyện, tô điểm cho nhau, và trong nỗi nhớ của con người ra đi, kỉ niệm về con người Việt Bắc là đậm đà nhất, sâu sắc nhất.
– Nhận xét về nghệ thuật thơ lục bát (có thể bình giảng từng cặp lục bát hay theo chủ đề cảnh riêng, người riêng).
Đoạn thơ cũng thể hiện rõ phong cách thơ Tố Hữu: trữ tình sâu lắng, tha thiết ân tình và mang đậm tính dân tộc. Thể thơ lục bát quen thuộc được sử dụng rất thành công. Cách sử dụng đại từ xưng hô “ta – mình” vừa truyền thống lại vừa hiện đại (trước đây thường chỉ được sử dụng khi diễn tả tình yêu lứa đôi, nay được Tố Hữu dùng để chỉ người cán bộ ra đi và người dân Việt Bắc ở lại). Đặc biệt từ “nhớ” được lặp lại nhiều lần, mỗi lần sắc thái khác nhau và cấp độ tăng lên làm cụ thể hơn tấm lòng lưu luyến của tác giả với chiến khu, với cảnh và người Việt Bắc.
Có thể nói đoạn thơ này -là một trong những đoạn thơ hay nhất, xúc động nhất của Việt Bắc: nó có một giá trị tạo hình, được cẩu trúc hài hòa cân đối, nằm trong tổng thể chung của bài thơ, lại vừa có tính độc lập tương đối.
ĐỀ THI ĐẠI HỌC MÔN VĂN ĐỀ 9
Câu 1.
Anh (chị) hãy phân tích nhân vật Hoàng trong truyện ngắn Đôi mắt của nhà văn Nam Cao.
Câu 2a.
Anh (chị) hãy phân tích bài thơ Chiều tối (Mộ) của nhà thơ Hồ Chí Minh:
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không,
Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết, lò than đã rực hồng”.
(Nam Trân dịch)
Phiên âm:
Mộ
“Quyển điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vàn mạn mạn độ thiên không,
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng”.
Câu 2b. Dành cho các thí sinh theo chương trình THCB.
Anh (chị) hãy bình giảng đoạn thơ sau đây trong bài Tây Tiến của Quang Dũng:
“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
GỢI Ý LÀM BÀI
Câu 2a. Các ý chính:
1. Bài thơ “Chiều tối (Mộ) cũng viết về chuyện đi đường. Trời gần tối, người tù vẫn trên hành trình bị áp tải. Lúc này tạo vật sau một ngày vận động đang chuyển dần sang trạng thái nghỉ ngơi. Không gian của bài thơ chính là phong cảnh phóng khoáng rộng rãi của núi rừng. Người tù quan sát cảnh vật. Trời tối dần, những cánh chim đang bay về nơi yên nghỉ. Hình ảnh cánh chim trên bầu trời buổi chiều hôm vẫn được sử dụng rất quen thuộc trong bài thơ:
“Chim hôm thoi thót về rừng”
(Nguyễn Du – Truyện Kiều)
“Chim bay về núi tối rồi”
(Ca dao)
“Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”
(Huy Cận – Tràng giang)
2. Trong bài thơ Chiều tối, nhà thơ đặc biệt chú ý khai thác không khí và khung cảnh của tạo vật vào lúc chiều dần tối. Câu thơ thứ hai: “Chòm mày trôi nhẹ giữa tầng không” càng góp phần tạo thêm vẻ buồn hắt hiu của cảnh chiều tối. Bóng chiều đã’đổ xuống từ lâu và bóng tối dần chiếm lĩnh cả không gian. Người tù không khỏi cảm thấy lẻ loi trong khung cảnh đó của tạo vật. Thiên nhiên hoang vắng và ảm đạm có phần phù hợp với cảnh ngộ của thiên nhiên, không có một “chòm sao đưanguyệt”, một bình minh ửng hồng, một rừng núi rộn tiếng chim ca và ngan ngát hương bay.
3. Bài thơ từ khung cảnh thiên nhiên hoang vắng chuyển sang bức tranh xã hội ấm áp:
“Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết, lò than đã rực hồng”
– Hình ảnh một xóm nhỏ, ở đây cô gái đang lao động, công việc vất vả nhưng dường như với người con gái vùng rừng núi này đã quá quen thuộc. Trong Nhật kí trong tù cũng thấp thoáng cảnh bất hạnh (Nửa đêm nghe tiếng khóc chồng …).
– Hình ảnh người phụ nữ trong bài thơ với bản chất khỏe khoắn của người lao động đã góp phần tạo cho bức tranh thêm sức sống. Và đặc biệt là lò than rực hồng thành hình ảnh trung tâm của bức tranh cho thiên nhiên tuy hắt hiu buồn trong cảnh chiều hôm trở nên ấm cúng hơn.
– Toàn bộ khung cảnh thiên nhiên đang chìm trong màu xám nhạt chuyển sang màu tối. Cũng vì thế hình ảnh lò than rực hồng có sức lôi cuốn đặc biệt.
– Bài thơ Chiều tối mang nhiều yếu tố hội họa. Chất họa vừa điểm xuyết vừa tỏa lan trong không gian và chi phối đến toàn bộ khung cảnh. Nếu chuyển bài thơ Chiều tối sang ngôn ngữ hội họa thì chúng ta sẽ có một bức tranh cảnh vật, có con người, có màu tối, màu sáng, có khu vực đã đi vào yên nghỉ, có khu vực vẫn bền bỉ hoạt động. Người phụ nữ vẫn hăng say trong công việc, người tù vẫn trên hành trình bị áp giải.
4. Khung cảnh bài thơ Chiều tối được quan sát và miêu tả từ một điểm nhìn rất gần gũi, chân thực của chính người trong cuộc. Cặp mắt của người tù – người chiến sĩ cách mạng – ở đây nhìn sự vật theo hướng vận động. Thiên nhiên chuyển dần từ ngày sang đêm và con người cũng đang vận động trong công việc của mình. Không gian và thời gian của bài thơ được ý thức rõ rệt trong miêu tả. Thời gian của những buổi hoàng hôn trong Nhật kí trong tù được miêu tả trong nhiều bài thơ: Hoàng hôn, Chiều tối, Cánh chiều hôm… Đây cũng không phải là hiện tượng ngẫu nhiên. Trên hành trình bị áp giải, người tù thường có những cảm nhận sâu sắc vào lúc hoàng hôn, khi con người đã ở vào lúc mệt mỏi nhất sau một ngày đường vất vả và thiên nhiên tạo vật cũng chuyển dần sang trạng thái nghỉ ngơi. Vào thời điểm này dễ có tâm trạng buồn. Thôi Hiệu nghĩ đến quê hương vào lúc hoàng hôn: “Quê hương khuất bóng hoàng hôn – Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”. Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, nhiều nhân vật thường có tâm trạng khắc khoải nhất vào lúc hoàng hôn “Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng”. Cảm hứng thi ca trong bài Chiều hôm không ở vào trong trường hợp ấy. Trong bức tranh có phần ảm đạm của chiều tối vẫn có những nét tươi sáng tin cậy của tác giả với tình cảm lạc quan.
Câu 2b. Các ý chính:
1. Giới thiệu chung về tác giả và tác phẩm:
Bốn câu thơ trích ở đoạn đầu của bài Tây Tiến nói về những cuộc hành quân đầy gian khổ của đoàn quân Tây Tiến trên địa bàn rừng núi miền Tây vô cùng hiểm trở, heo hút.
2. Câu 1: hay ở âm thanh, dùng toàn thanh trắc để diễn tả sự cheo leo gập ghềnh của dốc núi dốc lại dốc, khúc khuỷu, thăm thẳm (5/7 thanh trắc).
3. Câu 2: miêu tả đoàn quân trên núi cao như đứng trên “cồn mây”, mũi súng chạm đỉnh trời. “Súng ngửi trời”, tác giả có cách dùng từ rất bạo, vừa tả được vị trí người lính trên đĩnh núi vừa có chất nghịch ngợm trong cách nhìn, cách diễn tả của người lính trong gian khổ mà vẫn vui.
4. Câu 3: Câu thơ như gập đôi, diễn tả sườn núi vút lên và đổ xuống gần như đứng thẳng.
5. Câu 4: Toàn vần bằng, dường như diễn tả đoàn quân tạm dừng chân ngang sườn núi, phóng mắt nhìn ra xa, thấy những ngôi nhà ở Pha Luông thấp thoáng ẩn hiện qua một không gian mịt mùng trong sương rừng mưa núi.
Câu 3 và câu 4 có một phối âm tuyệt vời. Câu 3 nhiều vần trắc, câu 4 toàn vần bằng, liền một hơi, gợi liên tưởng đến cách phối âm tương tự của hai câu thơ Tản Đà trong bài Thăm mả củ bèn đường:
“Tài cao, phận thấp, chí khí uất
Giang hồ, mè chơi, quên quêhương”
ĐỀ THI ĐẠI HỌC MÔN VĂN ĐỀ10
Câu 1.
Phân tích hình tượng cây xà nu, rừng xà nu để làm rõ ý nghĩa tượng trưng cho sức sống và phẩm chất của người dân Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mĩ ở tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành.
Câu 2:
Làm rõ vẻ đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến trong khổ thơ
sau
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh vềđất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
(Tây Tiến – Quang Dũng)
GỢI Ý LÀM BÀI
Câu 1. Các ý chính:
1. Giới thiệu khái quát về tác phẩm:
– Rừng xà nu là bản anh hùng ca ca ngợi ý chí kiên cường, sức mạnh đoàn kết và chiến thắng của những người dân Tây Nguyên yêu nước trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
– Là một trong những tác phẩm tiêu biểu viết về cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước vĩ đại của dân tộc. Tác phẩm giàu chất sử thi và cảm hứng lãng mạn.
– Một trong những thành công nổi bật của tác phẩm là xây dựng được một hình tượng nghệ thuật mang ý nghĩa biểu trưng, giàu chất lăng mạn: hình tượng cây xànu, rừng xà nu.
2. Cây xà nu, rừng xà nu là một hình tượng nghệ thuật đặc sắc
– Rừng xà nu là một bức tranh hoành tráng. Trong đau thương dữ dội, rừng xà nu vẫn đẹp, vẫn xanh, vẫn trẻ trung. Bom đạn kẻ thù không ngăn nổi sức vươn lên mãnh liệt của rừng xà nu. Lớp cây này ngã xuống, lớp cây khác lại nảy mầm. Sự sống từng phút, từng giờ sinh sôi, vượt lên trên cái chết.
– Rừng xà nu “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng”. Đưa thân mình hứng lấy hàng loạt đạn đại bác. Cả rừng xà nu không cây nào không mang thương tích…
– Xà nu là một loại cây thanh nhã mà rắn rỏi, ham ánh sáng mặt trời: “Nó phồng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng”.
– Cây xà nu bất chấp bom đạn, tồn tại vượt lên sự hủy diệt của kẻ thù. Hào hùng, hiên ngang ngay cả khi gục ngã: “Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra tràn trề, thơm ngào ngạt”… “Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực lại bị đạn đại bác chặt đứt làm đôi nhưng cạnh một cây mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, lứnh nhọn như mũi tên lao thẳng lèn bầu trời”…
– Rừng xà nu không chỉ là khung cảnh thiên nhiên của một làng cụ thể. Nó là hình ảnh, là không gian tượng trưng của đất Tây Nguyên bất khuất trong những ngày dữ dội. Xây dựng hình tượng cây xà nu, Nguyễn Trung Thành đã tạo ra một không gian sử thi đầy bi tráng của đất và người miền Nam anh dũng. Hình ảnh “những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời” đến “hút tầm mắt” ở cuối tác phẩm là một minh chứng hùng hồn về sức sống bất diệt của rừng xà nu.
3. Hình tượng cây xà nu, rừng xà nu tượng trưng cho sức sống và phẩm chất của người dân Tây Nguyên.
– Hình ảnh rừng xà nu tầng tầng lớp lớp tiếp nhau lớn lên dưới bom đạn của kẻ thù cũng là hình ảnh của dân làng Xôman từ thế hệ này đến thế hệ khác nối tiếp nhau đứng lên giữ gìn xứ sở và truyền thống của dân tộc mình từ đời này sang đời khác. Lịch sử làng Xôman là lịch sử của những chuỗi ngày đau thương mà anh dũng. Đã có bao nhiêu người phải ngã xuống, Bà Nhan bị chặt đầu, cột tóc treo đầu súng, anh Xút bị treo cổ trên cây vả đầu làng. Anh Quyết hi sinh. Vợ con Tnú bị tàn sát… Nhưng không một ai run sợ. Người trước ngã, người sau đứng lên, tiếp sau họ có Dít, có bé Heng. Các thế hệ nối tiếp nhau như lớp lớp cây rừng xà nu bất khuất.
– Cây xà nu bất chấp bom đạn cũng như con người Tây Nguyên kiên cường, dũng cảm, không khuất phục trước kẻ thù. (Phân tích ngắn gọn một số nhân vật tiêu biểu như cụ Mết, Tnú, Mai, Dít… để chứng minh).
– Chọn cây xà nu, rừng xà nu làm biểu tượng, tác giả đã tạo ra được sự phù hợp kì lạ giữa những phẩm chất của cây và người Tây Nguyên trong tác phẩm. Hình tượng cây xà nu, rừng xà nu mang ý nghĩa tượng trưng cho sức sống mãnh liệt và phẩm chất cao đẹp của người dân Tây Nguyên. Nó làm cho tác phẩm mang đậm tính sử thi, chất anh hùng ca và cảm hứng lãng mạn. Hình tượng cây xà nu, rừng xà nu là một thành công độc đáo trong sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Trung Thành.
Câu 2.Các ýchính:
1. Hai câu đầu của khổ thơ cho ta thấy lẽ sống cao đẹp của người lính Tây Tiến. Cuộc sống chiến trường khắc nghiệt, dữ dội đầy thử thách: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”. Câu thơ gợi lên ấn tượng về sự mất mát, đau thương, về những hi sinh thầm lặng của người lính nơi biên ải, nhưng trước thực tế khắc nghiệt đó, người lính không chùn bước. Họ xác định rõ mục đích chiến dấu của mình “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Thái độ sẵn sàng dấn thân, ngang tàng, kiêu dũng.
Hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên trong khổ thơ mang vẻ đẹp bi tráng của những người anh hùng thuở trước (Tráng sĩ nhất khứ hề bất phục phản). Họ tự nguyện hiến dâng tuổi thanh xuân, hiến dâng sự sống của mình cho Tổ quốc. Lời thơ vang lên như một lời thề chiến đau, thể hiện khí phách và bản lĩnh của người chiến sĩ.
2. Vẻ đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến được khắc họa nổi bật nhất ở những câu thơ viết về cái chết. Trong khổ thơ này cũng như trong cả bài thơ, đã nhiều lần tác giả nói đến cái chết của người lính Tây Tiến. Những cái chết bi thương, khốc liệt nhưng đầy tự hào, kiêu hãnh. Nhà thơ đã thay những từ chỉ cái chết trực tiếp bằng những từ ngữ Hán Việt trang trọng (“mồ viễn xứ”, “áo bào thay chiếu”, “về đất”)… để nói về cái chết bi thương mà hùng tráng của họ.
“Áo bào thay chiếu” – thực tế đời sống chiến trường khổ cực thiếu thốn. Người lính ngã xuống không có một manh chiếu để khâm liệm, không có gì ngoài bộ quần áo đang mặc trên người. Đồng đội đành chôncất anh trong tư thế đó. Đó là một sự thật trần trụi đầy đau đớn, xót xa. Nhưng chính thái độ sẵn sàng chấp nhận cái chết và mục đích cao cả của người lính đã làm cho cái chết của họ trở nên thiêng liêng, đẹp đẽ, bi thương mà hùng tráng, không hề bi lụy. vẻ đẹp đó được tác giả lí tưởng hóa qua những từ ngữ xúc động.
“Áo bào”là áo vua bím cho người tráng sĩ ra trận. Nơi chiến trường, người lính ngã xuống gửi thân xác của mình trong tấm áo bào là hành động đẹp đẽ, kiêu hùng và lãng mạn. Người lính chấp nhận cái chết một cách tự nguyện, thanh thản mà không hề ân hận, phân vân vì đã thực hiện được lẽ sống của mình.
“Về đất”- người lính đến với cái chết như trở về cội nguồn của mình để tâm hồn và thể xác của mình hòa vào đất đai Tố quốc.
3. “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. “Khúc độc hành” là khúc tráng ca về cuộc đời chinh chiến của người chiến sĩ. Sông Mã từng chứng kiến bao gian khổ, hi sinh của đoàn quân Tây Tiến. Tiếng gầm của sông Mã là lời vĩnh biệt thống thiết, trầm hùng của núi sông Tổ quốc tiễn đưa linh hồn người lính về cõi bất tử.
Trong tiếng gầm ấy có cả sự ngậm ngùi, xót xa, hờn căm và yêu dấu, tiếc thương và cảm phục của tâm hồn người làm thơ. Từ ngữ và giọng điệu lời thơ đã tạo nên không khí thiêng liêng và bi tráng làm xúc động lòng người.
ĐỀ THI ĐẠI HỌC MÔN VĂN ĐỀ11
Câu 1.
Đời thừalà truyện ngắn xuất sắc của Nam Cao viết về người trí thức tiểu tư sản trong xã hội cũ.
Anh (chị) hãy:
a) Phân tích tấn bi kịch của nhân vật Hộ trong thiên truyện ngắn này.
b) Lấm rõ tư tưởng nhân đạo sâu sắc mới mẻ của Nam Cao qua việc thể hiện tấn bi kịch đó.
c. Chỉ ra những đặc sắc về nghệ thuật (không cần phân tích).
Câu 2.Bình giảng khổ thơ sau trong bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên
“Con gặp lại nhân dân như nai về suối củ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa .
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng .gặp cánh tay đưa.”
(Theo Vốn 12, phần Văn học Việt Nam – NXB Giáo dục, 1999.tr. 124)
GỢI Ý LÀM BÀI
Câu 1.Các ý chính
1. Giới thiệu khái quát về Nam Cao, truyện ngắn Đời thừa và tấn bi kịch tinh thần của nhân vật Hộ
2. Phân tích tấn bi kịch tinh thần của nhân vật Hộ.
a) Bi kịch tinh thần ở đây được biểu hiện là tình trạng của những con người có hoài bão, có lí tưởng chân chính nhưng bị hoàn cảnh trói buộc không sao thực hiện được điều đó. Nhân vật tự ý thức được tình trạng của mình, cố tìm lối thoát nhưng không tìm được, sống triền miên trong những dằn vặt giày vò đau đớn về tinh thần.
b) Bi kịch tinh thần của Hộ thể hiện ở những mặt sau
– Hộ là nhân vật có tài năng, có tâm huyết, có lương tâm nghề nghiệp, có hoài bão văn chương chân chính nhưng do nhu cầu cơm áo mà buộc phải viết thứ văn chương tầm thường, nhạt nhẽo, vô vị. Hộ ý thức được điều đó, thấy xấu hổ và tự lên án mình, biết mình trở thành “một kẻ vô ích, một người thừa”, nhưng vẫn không thể nào khác được.
– Hộ coi trọng và muốn sống theo nguyên tắc tình thương nhưng lại vi phạm vào lẽ sống cao đẹp ấy, để rồi lại ăn năn, hối hận.
3. Tư tưởng nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của Nam Cao
a) Phát hiện và phân tích sâu sắc tấn bi kịch tinh thần đau đớn của Hộ, Nam Cao đã tố cáo cái xã hội đày đọa con người trong sự nghèo đói, vùi dập những ước mơ, làm chết mòn đời sống tinh thần và lẽ sống cao đẹp của con người.
b) Trong khi miêu tả con người bị đẩy vào tình trạng có những hành động tàn nhẫn, Nam Cao vẫn dứt khoát không chấp nhận cái ác, vẫn kiên định giữ nguyên tắc tình thương của mình. Điều đáng quý là mặc dù sống trong đau đớn và bế tắc, có lúc mong muốn được giải thoát để lo sự nghiệp cho riêng mình, nhưng Hộ không chấp nhận sự tàn nhẫn, và cũng không thể vứt bỏ tình thương. Những giọt nước mắt đầy xót thương của Hộ ở cuối thiên truyện đã cho ta thấy rõ điều đó.
c) Trước cách mạng, Nam Cao thuộc thế hệ nhà văn từ khoảng 1930 đến 1945 đã thức tỉnh sâu sắc về ý thức cá nhân, về sự tồn tại có ý nghĩa của mỗi cá nhân trên đời. Với Đời thừa, Nam Cao là nhà văn đồng tình với khát vọng được cống hiến, được sáng tạo của người nghệ sĩ chân chính. Qua tấn bi kịch tinh thần của nhân vật Hộ, Nam Cao thể hiện khát vọng của con người vươn tới một cuộc sống có ích, có ý nghĩa, được phát huy đến tận độ khả năng tiềm tàng chứa đựng trong mỗi con người.
4. Những đặc sắc về nghệ thuật của Đời thừa
Có thể chỉ ra những đặc sắc sau
a) Cách dựng truyện tự nhiên, dung dị nhưng vẫn gây được ấn tượngsâu đậm và tạo được hiệu quả nghệ thuật cao. Cách dẫn truyện linh hoạt, phóng túng mà vẫn nhất quán, chặt chẽ.
b) Xây dựng thành công một nhân vật thuộc loại nhân vật tư tưởng (nhân vật Hộ) nhưng vẫn có tính cách, cá tính và bản chất xã hội xác định.
c) Nghệ thuật miêu tả, phân tích tâm lí đạt tới trình độ bậc thầy.
Câu 2. Các ý chính
1. Giới thiệu vắn tắt về Chế Lan Viên, bài thơ Tiếng hát con tàu và vị trí khổ thơ
2. Nêu ý chung của cả khổ thơ: Niềm khao khát và hạnh phúc được trỏ’ về với nhân dân của nhà thơ.
3. Bình giảng hai câu đầu: Trở về với nhân dân và trở về với môi trường sống quen thuộc, thân thiết, làm nảy nở, phát triển sự sống. Đồng thời, đó cũng là ngọn nguồn của sự sáng tạo nghệ thuật.
Phân tích những hình ảnh so sánh: Nai về suối cũ, cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa.
4. Bình giảng hai câu cuối: Nhân dân là người nuôi dưỡng sự sống, làm hồi sinh sự sống.
Phân tích những hình ảnh so sánh: Đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa, chiếc nối ngừng bỗng gặp cánh tay đưa.
5. Nhận xét chung về cách xây dựng hình ảnh, về giọng điệu của khổ thơ:
– Xây dựng so sánh phức với chuỗi hình ảnh gần gũi, tự nhiên, lấy từ cuộc sống thiên nhiên và cuộc sống con người.
– Giọng thơ tha thiết, chân thành (chú ý sắc thái biểu cảm của những từ “con”, “đứa trẻ thơ”).
– Khổ thơ đã thể hiện nét phong cách của Chế Lan Viên: Suy tưởng sâu lắng và sáng tạo hình ảnh phong phu.
ĐỀ THI ĐẠI HỌC MÔN VĂN ĐỀ 12
Câu l
Nghệ thuật châm biếm trong truyện ngắn Vi hành của Nguyễn Ái Quốc.
Câu 2.
Bình giảng bốn câu sau đây trong bài Thơ duyên của Xuân Diệu:
“Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân
Chim nghe trời rộng giang thêm cảnh
Hoa lạnh chiểu thưa sương xuống dần”.
Câu 3.
Niềm say mê thiên nhiên, say mê cuộc sống trong bài thơ Vội vàngcủa Xuân Diệu. Vì sao nhà thơ có thái độ vội vàng, cuống quýt trước sự trôi chảy của thời gian?
GỢI Ý LÀM BÀI
Câu 1. Các ý chính:
1. Xuất xứ và tư tưởng chủ đề của truyện ngắn Vi hành:
Vi hànhlà một trong những truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Ái Quốc. Tác phẩm được viết bằng tiếng Pháp đăng trên báo Nhân Đạo của Đảng Cộng sản Pháp số ra ngày 19-2-1923.
– Tác phẩm nhằm đả kích tên vua bù nhìn Khải Định trong dịp y sang Pháp dự cuộc “đấu xảo” tại Mácxây vào năm 1922.
2. Chất châm biếm bắt đầu từ cách đặt tên cho tác phẩm là Vỉ hành. Vi hành có nghĩa là cuộc đi kín đáo không muốn ai biết của những bậc tôn quý trong xã hội, ví như truyền thuyết kể về vua Thuấn (Trung Quốc) xưa chẳng hạn. Còn ở đây, Nguyên Ai Quốc dùng chữ “vi hành” là để chỉ cuộc đi lén lút, ám muội của Khải Định trên đất Pháp.
3. Tạo tình huống nhầm lẫn, sự nhầm lẫn tăng tiến.
– Đội thanh niên Pháp nhầm người kể chuyện (tác giả) là vị hoàng đế dưới tàu điện ngầm.
– Mọi người dân Pháp nhầm tác giả là vị hoàng đế: “Đến nay, tất cả những ai ở Đông Dương có màu da trắng đều là bậc khai hóa, thì bây giờ đến lượt tất cả những ai có màu da vàng đều trở thành hoàng đế ở Pháp”.
– Sự châm biếm lên tới cao điểm. Chính phủ Pháp dù đích thân mời vị hoàng đế sang làm thượng khách cũng nhầm mọi người da vàng trên đất Pháp: “Cái vui nhất là ngay đến Chính phủ cũng chẳng nhận ra được khách thật của mình nữa và để chắc chắn khỏi thất thố trong nhiệm vụ tiếp tân, Chính phủ bèn đối đãi tất cả mọi người An Nam vào hàng vua chúa và phái tùy tùng đi hộ giá tuốt”.
4. Nghệ thuật châm biếm sắc sảo:
– Các chi tiết đều tập trung làm nổi bật mâu thuẫn cơ bản:
Mâu thuẫn giữa địa vị tôn nghiêm, cao quý của một đấng vua, một vị thượng khách của nước Pháp trong chuyến “Pháp du” được tuyên truyền bằng lời lẽ tán dương to tát với thực chất một anh hề lố lăng bị người Pháp khinh bỉ, chế giễu (hình dáng, điệu bộ, trang phục…) “vi hành” để tiện việc riêng và vì những lí do không cao thượng.
– Dùng biện pháp phóng đại. Phóng đại để tô đậm mâu thuẫn châm biếm. Cái đáng cười càng thêm đáng cười và sự phủ định càng mạnh mẽ (dẫn chứng và phân tích dẫn chứng).
– Sử dụng cách chơi chữ trào phúng, so sánh ví von trào phúng và giọng văn trào phúng, châm biếm sâu cay.
5. Đây là một truyện ngắn châm biếm có lượng thông tin cao, viết rất cô đọng, hàm súc. Truyện được viết theo văn phong hiện đại phương Tây.
Câu 2.Các ý chính:
lễ Nếu hiểu “duyên” là sự tương ứng, hài hòa, giao cảm, gắn bó, thì Thơ duyên là bài thơ về mối quan hệ hòa hợp người với người, giữa người với vũ trụ, với đất trời, với cây cỏ, chim muông… giữa cảnh thiên nhiên giao hòa ấy anh với em không thể “vô tâm” được nên “Lòng anh thôi đã cưới lòng em”. Qua đây ta có thể hiểu thêm tâm hồn Xuân Diệu, một tâm hồn ham sống, tha thiết yêu đời, yêu người, khao khát giao cảm và hòa mình với cuộc đời.
2. Hai câu đầu thể hiện những tình cảm tinh vi về thiên nhiên và sự sống, những cảm nhận của cái tôi cá nhân trước cuộc đời. Có biết bao thôi thúc mạnh mẽ của nhịp sông qua cái dáng bay “gấp gấp” của đám mây. Có biết bao đồng cảm đắm say trước vẻ đẹp ở đời qua cái “phân vân” của cánh cò. “Con cò trên ruộng” thì như cảm thông với “Mây biếc về đâu bay gấp gấp” nên cánh cò “phân vân” không biết nên dừng lại hay bay đi.
Hoài Thanh đã so sánh: “Giữa cánh cò của Vương Bột bay lặng lẽ trong ráng chiều với con cò của Xuân Diệu không bay mà cảnh phân vân có sự cách nhau của một ngàn năm và hai thế giới”. Một ngàn năm tức là tính từ thơ Đường thế kỉ IX sau Công nguyên, hai thế giới là thế giới của thơ Đường, thế giới của cái ta, của cái chung (thời phong kiến) còn thế giới Thơ mới là thế giới của cái tôi, của cá nhân, của cái riêng. Và vì vậy sự cách biệt ấy trong thơ thể hiện ở chỗ: một đằng thì tả sự vận động bên ngoài, mắt thường thấy được, một đằng thì cảm nhận được sự vận động vô hình dường như chỉ mới có trong gân cốt của cánh cò. Con cò trong Vương Bột như tan vào cái vĩnh cửu, còn cánh cò “phân vân” trong thơ Xuân Diệu đã in dấu ấn cá nhân vào thời đại nhà thơ.
3. Hai câu thơ sau cho ta thấy , rõ hơn những cảm nhận tinh tế và tài hoa của Xuân Diệu về cuộc sống. Nhà thơ như đã hòa hồn mình vào muôn vật xung quanh cho nên mói thấy được cái cảm giác trống trải, rợn ngợp của một cánh chim bé nhỏ, cô đơn trước không gian cao rộng, mênh mông và hoang vắng, mới thấy được cái rùng mình ớn lạnh của một bông hoa khi sương chiều buông xuống. Những cảm nhận tinh vi bằng thị giác, bằng xúc giác, bằng ấn tượng như thế mang rất rõ dấu ấn của cái tôi cá nhân của nhà thơ, những từ nghe, giang, lạnh là những từ được dùng rất điêu luyện, thể hiện rõ tài năng nghệ thuật của Xuân Diệu.
4. Chỉ riêng khổ thơ này cũng cho thấy Xuân Diệu không hề đối lập cái tôi của mình với cuộc sống, với thế giới xung quanh. Ngược lại, cái tôi ấy luôn khao khát đạt tới sự giao cảm với cuộc đời. Đó thực sự là một quan niệm tích cực về lẽ sống, về cách nhìn cuộc sống.
Câu 3. Các ý chính:
1. Nêu ngắn gọn về nhà thơ Xuân Diệu, thơ ông trước Cách mạng tháng Tám 1945 và bài Vội vàng.
Xuân Diệu (1916 – 1985), “nhà thơ mới nhất” (Hoài Thanh), làm thơ, viết văn, nghiên cứu, phê bình văn học, dịch thuật. Trước cách mạng, ông có hai tập thơ: Thơ thơ, Gửi hương cho gió, và hai tập văn xuôi Phấn thông vàng, Trường ca.
Bài Vội vàng in trong tập Thơ thơ (1938), tập thơ đầu tay, khi đó nhà thơ vừa bước vào tuổi thanh xuân đẹp đẽ nhất của đời người.
2. Niềm say mê thiên nhiên, khát vọng sống dạt dào mãnh liệt đã tạo ra một thế giới nghệ thuật của riêng Xuân Diệu.
— Ở Vội vàng, nhà thơ quan niệm tình yêu, tuổi trẻ và mùa xuân là phần ngon nhất của cuộc đời, là hạnh phúc, là thiên đường trên cõi trần thế. Nhà thơ muốn tận hưởng hương thơm, màu sắc và âm thanh:
“Của ong bướm này đây tuần thảng mật
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa”
— Thơ tình của Xuân Diệu là “bài ca sự sống” (Huy Cận). Nhà thơ huy động mọi giác quan, mọi giác quan được thức nhọn, được căng lên và cường độ cao nhất để cảm thụ ngoại giới:
“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”
Những tính từ, động từ có cường độ mạnh (ôm, cắn, riết, chếnh choáng, no nê) thể hiện một lòng ham hố hưởng thụ cuộc sống.
3. Vì sao nhà thơ lại vội vàng, giục giã trước sự trôi chảy của thời gian?
– Thiên nhiên là vô hạn, mùa xuân đi qua rồi mùa xuân trở lại, nhưng tuổi trẻ của con người chẳng “hai lần thắm lại” vì thế phải vội vàng, cuống quýt, tận hưởng tuổi trẻ.
– Thấy thời gian vùn vụt trôi đi, nhà thơ vội vàng kêu gọi tận hưởng tình yêu, tận hưởng những thanh sắc của cuộc sống. Vì thế thời gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu là sự dồn nén của quá khứ, tương lai về hiện tại và trong hiện tại, nhà thơ chú ý đến “Cái bây giờ”.
4. Như vậy tất cả các ý trên đều nói lên một điều: Xuân Diệu có ý thức khẳng định cái tôi cá nhân. Người đọc cũng cảm nhận được Xuân Diệu là một con người ham sống, yêu đời, luôn mong muốn giao hòa với đời, với mọi người, với thiên nhiên vũ trụ.
ĐỀ THI ĐẠI HỌC MÔN VĂN ĐỀ 13
ĐỀ THI TUYỂN SINH ĐẠI HỌC,
CAO ĐẲNG NĂM2004 – KHỐI C
Câu 1. Trình bày những nét chính trong phong cách nghệ thuật của Tố Hữu.
Câu 2. Anh (chị) hãy phân tích bài thơ Chiều tối (Mộ) và bài thơ Giải đi sớm (Tảo giải) ở tập Nhật kí trong tù (Ngục trung nhật kí) để làm nổi bật những nét đẹp trong tâm hồn tác giả Hồ Chí Minh.
Câu 3. Phân tích hình ảnh thiên nhiên và con người phố huyện nghèo lúc chiều tối trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam (chú ý làm rõ những nét đặc sắc trong nghệ thuật miêu tả của tác giả).
GỢI Ý TRẢ LỜI
Câu 1. Các ý chính
– Thơ Tố Hữu là thơ trữ tình chính trị, quan tâm thể hiện những vấn đề lớn, lẽ sống lớn, tình cảm lớn của cách mạng và con người cách mạng. Khuynh hướng sử thi nổi bật trong những sáng tác từ cuối cuộc kháng chiến chống Pháp trỏ’ về sau.,
– Thơ Tố Hữu tràn đầy cảm hứng lãng mạn, luôn hướng người đọc một chân trời tươi sáng.
– Thơ Tố Hữu có giọng tâm tình ngọt ngào, tha thiết – giọng của tình thương mến. Nhiều vấn đề chính trị, cách mạng đã được thể hiện như những vấn đề của tình cảm muôn đời…
– Thơ Tố Hữu đậm đà tính dân tộc không chỉ trong nội dung mà còn trong nghệ thuật biểu hiện: các thể thơ và thi liệu truyền thống được sử dụng nhuần nhuyễn, ngôn từ giản dị, vần điệu phong phú, nhạc tính dồi dào..ế
Câu 2. Có thể triển khai trên hai vấn đề:
a) Giới thiệu chung về tác giả Hồ Chí Minh, tác phẩm Nhật kí trong tù và hai bài thơ
– Hồ Chí Minh là nhà thơ cách mạng vĩ đại đồng thời là tác giảvăn học lớn. Sự nghiệp sáng tác của Người phong phú, đa dạng, gồm có ba bộ phận chính, trong đó thơ ca chiếm một vị trí nổi bật. Nhật kí trong tù (Ngục trung nhật kí) là tác phẩm thơ tiêu biểu, được viết trong khoảng thời gian từ mùa thu 1942 đến mùa thu 1943, tức là thời gian Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam tại Quảng Tây (Trung Quốc).
– Chiều tối (Mộ) và Giải đi sớm (Tảo giải) là hai bài thơ có giá trị của tập Nhật kí trong tù (Ngục trung nhật kí), vừa được gợi cảnh sốnggian truân của Bác trong những ngày bị giam cầm vừa mang tính chất tự biểu hiện sâu sắc. Qua hai bài thơ này, ta có thể nhận ra những nét đẹp trong tâm hồn tác giả Hồ Chí Minh.
b) Phân tích bài Chiều tối (Mộ)
– Dù lâm vào hoàn cảnh bị đọa đày, Bác vẫn thể hiện tình cảm yêu mến thiết tha và thái độ đồng cảm, chia sẻ với tạo vật, thiên nhiên vùng sơn cước lúc chiều buông. Cánh chim mỏi mệt (quyện điểu) và chòm mây lẻ loi (cô vân) vừa là đối tượng của niềm thương cảm vừa chính là biểu hiện bên ngoài của nỗi buồn trong lòng người tù trên còn đường đày ải, xa đất nước quê hương.
– Sự chuyển cảnh ở nửa sau bài thơ cho thấy lòng yêu con người, yêu cuộc sống đặc biệt sâu sắc của Bác. Bác đã nói về hình ảnh cô gái xóm núi xay ngô với biết bao cảm xúc trìu mến. Bác hiểu nỗi nhọc nhằn vất vả của người lao động (cụm từ ma bao túc được lặp lại theo trật tự đảo ngược ở câu 3 và 4 góp phần biểu đạt ý này) nhưng đồng thời cũng nhìn thấy nét đẹp riêng, chất thơ riêng ở những cảnh đời bình dị (điều ít gặp trong thơ cổ điển).
– Ánh hồng của lò than được nhắc tới ở cuối bài thơ (qua chữ hồng -nhăn tự trong tác phẩm) cho thấy tâm trạng Bác đang chuyển biến từ buồn sang vui. Quan trọng hơn, nó giúp ta hiểu được niềm lạc quan đáng quý của nhà cách mạng. Rõ ràng trong hoàn cảnh nào Bác cũng hướng tới phần tươi sáng của cuộc đời.
c) Phân tích bài Giải đi sớm (Tảo giải)
– Giải đi sớm 1 cho thấy những gian truân của chuyến đi đày, thể hiện cái nhìn thấu suốt, điềm tĩnh của Bác đối với hoàn cảnh. Tư thế của Bác là tư thế của người chiến sĩ chủ động, sẵn sàng đương đầu cùng thử thách (được hình tượng hóa qua hình ảnh đêm tối, đường xa, hình ảnh những cơn gió lạnh liên tiếp thổi tới) do Bác ý thức được rất rõ những trở ngại tất yếu trên con đường mình đang dấn bước (chú ý phân tích khía cạnh biểu trưng của các hình ảnh chinh nhân, chinh đồ).
– Vừa lên đường, Bác đã hướng nhìn lên trời cao, tìm thấy ở trăng sao hình ảnh của người bạn đồng hành tin cậy (chú ý phân tích các từ ôm (ủng), lên (thướng) vừa thể hiện được quỹ đạo chuyển động của sự vật vừa thể hiện được niềm hứng khởi trong lòng người đi). Ở đây, lòng yêu thiên nhiên, sự nhạy cảm đối với cái đẹp, chút lãng mạn rất thi sĩ và tinh .thần thép cùng được biểu lộ và thống nhất với nhau (phải có được sức mạnh tinh thần thế nào mới vui được với trăng sao trong hoàn cảnh ấy).
– Giải đi sớm II miêu tả cuộc đi đường trong ánh bình minh rực rỡ, nối tiếp rất đẹp với bài thứ nhất nói về cuộc đi trong đêm tối và gió rét. Kiểu tư duy thơ luôn hướng về ánh sáng, hướng về tương lai được thể hiện ởđây rất rõ. Ta nhận thấy có sự giao hòa tuyệt vời giữa Bác với thiên nhiên tràn đầy sinh khí. Cái nồng của cảm xúc bên trongđược nhóm lên nhờ hơi ấm (noãn khí) bên ngoài, nhưng đến lượt mình, chính nó như làm đất trời thêm phần ấm áp. Như vậy, trong bài thơ vừa có hình ảnh một vị chinh nhân cứng cỏi, vừa có hình ảnh một thi nhân tràn đầy cảm hứng về cái đẹp.
d) Những nép đẹp trong tâm hồn tác giả Hồ Chí Minh được thể hiện qua hai bài thơ
– Bác rất yêu thiên nhiên, luôn dạt dào cảm xúc thi ca trước mọi sắc thái sông của nó (từ cảnh hiu hắt, tiêu sơ đến cảnh hoành tráng, lộng lẫy).
– Bác yêu con người, gắn bó trước hết với cuộc sống con người (nhất là cuộc sống của người lao động); thường biểu lộ tình cảm một cách tự nhiên, bình dị; dễ hòa đồng với chung quanh.
– Bác có tinh thần thép, ý chí rõ về đường đi của mình, kiên nghị trước thử thách, tự chủ trong mọi hoàn cảnh. Bác luôn lạc quan, tràn đầy lòng tin vào cuộc sống, tương lai, vào xu thế vận động tích cực của sự vật.
Câu 3.
a) Giới thiệu chung về tác giả Thạch Lam và truyện ngắn Hai đứa trẻ
– Thạch Lam (1910 – 1942) là một tác giảtiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại, rất nổi tiếng với những truyện ngắn vừa mang đậm phong vị trữ tình vừa thể hiện cảm quan hiện thực sâu sắc.
Hai đứa trẻ(in trong tập Nắng trong vườn -1938) là truyện ngắn thuộc loại tiêu biểu nhất của Thạch Lam, đã miêu tả một cách đầy ám ảnh bức tranh đòi sống ở phố huyện nghèo lúc chiều tối và tâm trạng đợi tàu của hai đứa trẻ.
b) Hình ảnh thiên nhiên ở phố huyện nghèo lúc chiều tối trong Hai đứa trẻ .
– Thiên nhiên với các cụ thể:
Hình ảnh và màu sắc: hoàng hôn đỏ rực, dãy tre làng sẫm đen, ngàn sao lấp lánh, đom đóm nhấp nháy, bóng tối thăm thẳm, dày đặc…; âm thanh: tiếng ếch nhái văng vẳng, tiếng muỗi vo ve, tiếng hoa bàng rụng khe khẽ từng loạt…; mùi vị: mùi quen của cát bụi, “mùi riêng của đất, của quê hương này”… Đặc điểm chung: êm ả, đượm buồn, thấm đượm cảm xúc trìu mến nâng niu của một nhà văn luôn nặng tình với những gì là biểu hiện của hồn xưa dân tộc.
– Vai trò của hình ảnh thiên nhiên: gợi đúng đặc trưng của không gian phố huyện; làm nền cho hoạt động của con người; gián tiếp thể hiện tâm trạng nhân vật; tạo nên chất trữ tình riêng biệt cho truyện ngắn.
– Nghệ thuật miêu tả của tác giả: đặt thiên nhiên dưới con mắt quan sát của Liên — một đứa trẻ; câu văn có nhịp điệu như thơ; hình ảnh
bóng tối được láy đi láy lại như một môtíp đầy ám ảnh; âm thanh màu sắc, mùi vị khéo hòa hợp với nhau…
c) Hình ảnh con người ở phố huyện nghèo lúc chiều tối trong Haiđứa trẻ
– Các hình ảnh và hoạt động: những người bán hàng về muộn đứng nán lại nói chuyện, mấy đứa bé nghèo lom khom nhặt nhạnh các thanh nứa, tranh tre trên nền chợ, chõng nước tồi tàn của mẹ con chị Tí, gánh phở vắng khách của bác Siêu, cảnh nhếch nhác của gia đình bác xẩm, cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu của chị em Liên… Các tâm trạng: buồn bã, ít hi vọng vào lối kiếm sống có tính chất cầu may hiện tại, mong đợi mơ hồ, xa xôi… Đặc điểm chung của “hình ảnh con người”: héo hắt, xơ xác, mỏi mòn, tương hợp với hình ảnh thiên nhiên, tất cả được vẽ ra bằng một ngòi bủt tả chân sắc sảo, rất gần với các nhà văn hiện thực phê phán…
– Tình cảm nhà văn dành cho những con người nghèo khổ nơi phố huyện: thông cảm, xót thương, muốn có sự thay đổi đến với cuộc đời của họ.
– Nghệ thuật miêu tả của tác giả: tập hợp một loạt chi tiết tương đồng gợi không khí tàn tạ (ngày tàn, chợ tàn, kiếp người tàn…); dựng lên những mẩu đối thoại vẩn vơ; nhấn mạnh sự đối lập giữa cái mênh mông của bóng tối với vùng sáng nhỏ nhoi của ngọn đèn; chú ý làm rõ trạng thái tâm hồn của nhân vật…
ĐỀ THI ĐẠI HỌC MÔN VĂN ĐỀ 14
ĐỀ THI TUYỂN SINH ĐẠI HỌC,
CAO ĐẲNG Năm2005 – KHỐI C
Câu 1. Nêu tóm tắt giá trị lịch sử, giá trị văn học của bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Câu 2.
Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp.
(Bên kia sông Đuống, Hoàng cầm, Văn học 12, tập một, NXB Giáo dục, tái bản 2004, tr.79)
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mải
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất .Nước mình núi Bút, non Nghiên
Con cóc, con gà quêhương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dẫn nào đã góp lênÔng Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà
Điểm
Vàở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao nước, một lối sống ông cha
(Đất Nước, trích chương V trường ca Mặt đường khát vọng Nguyền Khoa Điềm, Văn học 12, tập một, NXB Giáo dục, tái bản 2005, tr.201)
Phân tích hai đoạn thơ trên.
Theo anh (chị), hai trích đoạn thơ ấy có những nét gì chung và riêng trong cách cảm nhận về quê hương, đất nước của các tác giả?
Câu 3.Nhận định về Nam Cao, sách Văn học 11 viết: “Ông có sở trường diễn tả, phân tích tâm lí con người.”
(Văn học 12, tập một, NXB Giáo dục, tái bản 2004, tr.201)
Qua nhân vật Hộ trong truyện ngắn Đời thừa, anh (chị) hãy chứng minh nhận định trên.
GỢI Ý TRẢ LỜI
Câu 1.
1. Giá trị lịch sử của bản Tuyên ngôn Độc lập
– Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập trước hàng chục vạn đồng bào tạiquảng trường Ba Đình, Hà Nội. Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện lịch sử đúc kết nguyện vọng sâu xa của dân tộc Việt Nam về quyền độc lập, tự do, cũng là kết quả tất yếu của quá trình đấu tranh gần một trăm năm của dân tộc ta đế có quyền thiêng liêng đó.
– Bản Tuyên ngôn đã tuyên bố chấm dứt chế độ thực dân, phong kiến ở Việt Nam và mở ra một kỉ nguyên mới cho dân tộc ta: kỉ nguyên độc lập, tự do, kỉ nguyên nhân dân làm chủ đất nước.
2. Giá trị văn học
– Tuyên ngôn Độc lập là một áng văn yêu nước lớn của thời đại. Tác phẩm khẳng định mạnh mẽ quyền độc lập của dân tộc, gắn độc lập với quyền sống của con người, nêu cao truyền thống yêu nước, truyền thống nhân đạo của người Việt Nam.
– Tuyên ngôn Độc lập là một áng văn chính luận mẫu mực. Dung lượng tác phẩm ngắn gọn, cô đọng, gây ấn tượng sâu sắc. Kết cấu tác phẩm mạch lạc, chặt chẽ; xác thực; lập luận sắc bén, giàu sức thuyết phục. Ngôn ngữ tác phẩm chính xác, gợi cảm, tác động mạnh mẽ vào tình cảm, nhận thức của người nghe, người đọc.
Câu 2.
1. Giới thiệu chung về đề tài và tác phẩm
– Quê hương, đất nước là một đề tài xuyên suốt, nổi bật trong văn học Việt Nam. Nhiều tác phẩm viết về đề tài này đã thể hiện những suy tư sâu sắc, niềm tự hào dân tộc và tình yêu quê hương, đất nước của các nhà thơ. Bên cạnh nét chung, mỗi tác giả lại có cách cảm nhận riêng về quê hương, đất nước.
– Giới thiệu hai tác phẩm: Vào một đêm giữa tháng 4-1948 ở Việt Bắc, Hoàng Cầm nghe tin giặc đánh phá quê hương mình, ông xúc động viết bài Bên kia sông Đuống. Năm 1971, ở chiến khu Trị Thiên, hướng về tuổi trẻ Việt Nam trong những ngày sục sôi đánh Mĩ, Nguyễn Khoa Điềm viết trường ca Mặt đường khát vọng, trong đó có chương V- Đất Nước. Cả hai tác phẩm đều được xem là thành tựu xuất sắc của thơ ca Việt Nam hiện đại.
2. Phân trích hai trích đoạn thơ
a) Trích đoạn thơ trong Bên kia sông Đuống
– Bài thơ Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm là hoài niệm về quê hương thanh bình trong quá khứ và nỗi xót xa trước quê hương đau thương trong hiện đại. Đoạn trích nằm ở phần đầu bài thơ, thể hiện niềm yêu mến, tự hào về quê hương Kinh Bắc tươi đẹp, trù phú, giàu truyền thống văn hóa.
– Câu thơ Bên kia sông Đuống gợi điểm nhìn trong tâm tưởng. Dường như là nhà thơ đang ở bên này – vùng tự do, mà nhìn về bên kia – nơi quê hương bị giặc chiếm đóng, từ đó gợi dậy bao hồi tưởng về Kinh Bắc ngày xưa tươi đẹp, thanh bình.
– Trong ba câu tiếp theo, quê hương được tái hiện vừa khái quát, vừa cụ thể. Đời sống vật chất được gợi lên từ hương vị lúa nếp thơm nồng. Đời sống tinh thần hội tụ trong nét văn hóa đặc sắc: tranh Đông Hồ.
– Phân tích sâu hai câu thơ về tranh Đông Hồ. Tác giả đã nêu bật cái chất dân gian, cái hồn dân tộc của tranh Đông Hồ từ đề tài, ý nghĩa đến màu sắc, chất liệu độc đáo. Cần làm rõ khả năng gợi tả, vừa biểu hiện cảm xúc của các từ (tươi trong, sáng bừng, đặc biệt là các nét nghĩa của cụm từ màu dân tộc (nghĩa cụ thể: chất liệu, màu sắc lấy từ đất đá, cây cỏ quê hương: nghĩa bóng: hình ảnh quen thuộc trong đời sống hằng ngày, nghệ thuật vẽ tranh dân gian – tất cả tạo nền bản sắc dân tộc độc đáo).
b) Trích đoạn thơ trong Đất Nước
– Trường ca Mặt đường khát vọng viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ các thành thị vùng tạm chiếm ở miền Nam: nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mĩ, hướng về nhân dân, đất nước, ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình, đứng dậy xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc. Đoạn thơ trích thuộc phần đầu của chương V.
Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” chi phối cách cảm nhận của nhà thơ về các phương diện địa lí, lịch sử,.văn hóa… của đất nước.
– Tám câu đầu: tác giả cảm nhận đất nước qua những địa danh,thắng cảnh. Những địa danh, thắng cảnh ấy gắn với cuộc sống, số phận, tính cách của nhân dân, được cảm thụ qua tâm hồn nhân dân. Chú ý khả năng gợi cảm nghĩ, liên tưởng, tưởng tượng của các hình ảnh, cảnh vật: tình nghĩa thủy chung, thắm thiết (hình ảnh núi Vọng Phu, hòn Trống Mái); sức mạnh bất khuất (chuyện Thánh Gióng); cội nguồn thiêng liêng (hướng về đất tổ Hùng Vương); truyền thống hiếu học (cách cảm nhận về núi Bút non Nghiên); đất nước tươi đẹp (cách nhìn dân dã về núi Con Cóc, Con Gà, về dòng sông Cửu Long gợi dáng những con rồng).v..v… Đất nước hiện lên vừa gần gũi, vừa thiêng liêng.
– Trong đoạn trích thơ, tác giả đã sử dụng những chất liệu văn hóa dân gian để nói về đất nước. Đây cũng là biểu hiện chiều sâu tư tưởng đất nước của nhân dân trong cảm hứng sáng tạo của nhà thơ.
– Hai câu cuối nâng ý thơ lên tầm khái quát: sự hóa thân của nhân dân vào bóng hình đất nước. Nhân dân chính là người đã tạo dựng, đã đặt tên, ghi dấu ấn cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông của miền đất này.
3. So sánh cách cảm nhận về quê hương, đất nước trong hai trích đoạn thơ .
a) Nét chung:
Hai trích đoạn thơ đều thể hiện sự cảm nhận về quê hương đất nước qua những địa danh, hình ảnh, cảnh vật cụ thể, gợi nhiều liên tưởng; qua mạch nguồn, chất liệu văn hóa dân gian, dân tộc. Cả hai cách cảm nhận trong hai trích đoạn thơ đều làm nổi bật truyền thống văn hóa, vẻ đẹp tâm hồn của con người Việt Nam, khơi sâu thêm niềm yêu mến, tự hào về nhân dân, đất nước.
b) Nét riêng:
– Trích đoạn thơ trong Bên kia sông Đuống hướng về một miền quê cụ thể với cảm xúc trữ tình tha thiết: tình yêu đất nước bắt đầu từ tình yêu quê hương của chính mình, ở trích đoạn thơ trong Đất Nước, nhà thơ nói về nhiều miền quê với suy tư sâu lắng: đất nước là của nhân dân.
– Trích đoạn thơ trong Bên kia sông Đuống thể hiện sự tinh tế của người nghệ sĩ trong cảm nhận vẻ đẹp. riêng của quê hương. Trích đoạn thơ trong Đất Nước thể hiện tư duy chính luận sắc sảo của tác giả trong cảm nhận những cảnh vật địa danh… có sức khái quát cao về dân tộc, đất nước.
Chính những nét cảm nhận riêng nói trên đã góp phần tạo nên sức lôi cuốn, hấp dẫn của từng bài thơ cũng như sự phong phú, đa dạng của thơ ca viết về quê hương, đất nước.
Câu 3.
1. Giới thiệu về tác giả
– Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc trước cách mạng, ông có vốn sống phong phú, khả năng đồng cảm đặc biệt với mọi cảnh ngộ,tâm trạng của con người, có biệt tài diễn tả, phân tích tâm lí nhân vật.
– Sở trường đó của Nam Cao được thể hiện rõ nét ở truyện ngắn Đời thừa (1943) qua việc diễn tả, phân tích những diễn biến tâm lí phức tạp của nhân vật Hộ.
2. Việc diễn tả, phân tích nhân vật Hộ của Nam Cao trong Đời thừa.
a) Nam Cao đã diễn tả, phân tích rất sâu sắc những giằng xé trong tâm trạng nhân vật Hộ.
– Trước hết là những day dứt của Hộ về nghề nghiệp. Anh có khát vọng cao đẹp, muốn “nâng cao giá trị đời sống của mình” bằng lao động sáng tạo nghệ thuật, cống hiến cho đời những tác phẩm có giá trị. Nhưng thực tại đen tối, hoàn cảnh gia đình túng quẫn buộc anh phải viết thứ văn chương “vô vị, nhạt nhẽo”. Anh đau khổ vì thấy mình đã thành “một kẻ vô ích, một người thừa”.
– Nam Cao còn miêu tả rất tinh tế những dằn vặt của Hộ về nhân cách. Hộ vốn là một người nhân hậu, vị tha. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, Hộ cũng không từ bỏ tình thương, làm một kẻ tàn nhẫn. Nhưng do bức xúc về công việc viết lách, anh trút hết nỗi buồn bực lên đầu vợ con, gây đau khổ cho người mà mình yêu thương, rồi lại hối hận vì chính điều đó.
b) Nam Cao đã khéo léo tạo tình huống đầy kịch tính để đẩy xung đột nội tâm của nhân vật lên đỉnh điểm. Xung đột nội tâm của Hộ thể hiện ởmâu thuẫn không thể dung hòa giữa sống với hoài bão nghệ thuật và sống theo nguyên tắc tình thương. Chính vì không thể chọn một trong hai con đường nên Hộ rơi vào bế tắc.
Tâm trạng căng thẳng, bế tắc của Hộ được diễn tả theo cái vòng quẩn quanh: khát vọng – thất vọng – nhẫn tâm – hối hận – khát vọng – thất vọng… càng ngày càng nặng nề hơn.
c) Nam Cao rất linh hoạt trong việc sử dụng ngôn ngữ để miêu tả nội tâm. Có chỗ nhà văn dùng lời người kể chuyện để miêu tả tâm lí nhân vật: “Hắn băn khoăn nghĩ đến một tác phẩm nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời”. Có khi là lời nhân vật tự biểu hiện nội tâm của mình: “Ta đành phí một vài năm để kiếm tiền…” Có lúc vừa là lời người kể chuyện, vừa là lời nội tâm của nhân vật: “Khốn nạn! Khốn nạn thay cho hắn!… Chao ôi! Hắn đã viết những gì?…” Tất cả góp phần diễn tả sinh động tâm lí nhân vật Hộ.
3. Kết luận
– Nghệ thuật diễn tả, phân tích tâm lí nhân vật của Nam
Nam Cao rất sắc sảo, tinh tế với những thủ pháp đặc sắc: tạo tình huống đầy kịch tính; diễn tả sự vận động nội tâm theo vòng quẩn quanh; sử dụng ngôn ngữ linh hoạt… tất cả khắc họa rõ nét tâm lí, tính cách nhân vật Hộ.
– Qua nhân vật Hộ, Nam Cao đã cho thấy khát vọng vươn tới một
cuộc sống có ích, có ý nghĩa của người trí thức nghèo, đồng thời cho thấy tình cảnh đau khổ bế tắc của họ trong xã hội cũ: muốn theo đuổi lí tưởng nghệ thuật thì phải bỏ tình thương; muốn cho tử tế theo lẽ sống nhân đạo thì chấp nhận làm “người thừa” trong văn chương. Từ đó dẫn tới ý tưởng: chỉ khi nào xóa bỏ cái xã hội đen tối, bất công đương thời thì khi đó mới có thể chấm dứt được cải cảnh ngộ quẫn bách, cái bi kịch đáng thương của những người như Hộ.
ĐỀ THI ĐẠI HỌC MÔN VĂN ĐỀ 15
ĐỀ THI TUYỂN SINH ĐẠI HỌC,
CAO ĐẲNG NĂM2006 – KHỐI C
I. PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ CÁC THÍ SINH
Câu 1. Anh (chị) hãy nêu ý nghĩa hình ảnh “con tàu” và địa danh “Tây Bắc” trong bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên.
Câu 2. Trong bài Cảm nghĩ về truyện ‘Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài viết:
“Nhưng điều kì diệu là dẫu trong cùng cực đến thế mọi thế lực của tội ác cũng không giết được sức sống con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệt”.
(Tác phẩm văn học 1930-1975 Tập hai,
NXB Khoa học Xã hội, 1990, tr.71)
Phân tích nhân vật Mị trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ (đoạn trích được học) của Tô Hoài để làm sáng tỏ nhận xét trên.
II. PHẦN TỰCHỌN
(Thí sinh chọn câu 3a hoặc câu 3b)
Câu 3a. Theo chương trình THPT không phân ban
Bình giảng khổ thơ sau trong bài Đây mùa thu tới của Xuân Diệu:
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng:
Đây mùa thu tới – mùa thu tới
Với ảo mơ phai dệt lávàng.
(Văn học 11tập một, NXB Giáo dục, tái bản 2004, tr.131)
Câu 3b. Theo chương trình THPT phân ban thí điểm
Trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, của Nguyễn Minh Châu đã xây dựng được một tình huống truyện mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống. Anh (chị) hãy làm rõ điều đó.
GỢIÝ TRẢ LỜI
Câu 1,
1. Ý nghĩa của hình ảnh “con tàu”
– Chế Lan Viên viết bài thơ Tiếng hát con tàu vào thời điểm ở miền Bắc đang diễn ra cuộc vận động đồng bào miền, xuôi lên xây dựng kinh tế mới ở vùng cao Tây Bắc. Bài thơ được in trong tập thơ Ánh sáng và phù sa (1960).
– Hình ảnh “con tàu” gợi nghĩ đến những chuyến đi xa. Nhưng thực sự lúc đó chưa có đường tàu và con tàu lên Tây Bắc. Do vậy, trong bài thơ này, hình ảnh “con tàu” chủ yếu mang nghĩa biểu tượng: nó tượng trưng cho khát vọng lên đường, khát vọng đi xa, khát vọng hòa nhập vào cuộc sống rộng lớn của đất nước, nhân dân. Đó chính là con tàu tâm tưởng, con tàu của khát vọng khám phá và sáng tạo.
2. Ý nghĩa của địa danh “Tây Bắc”
– “Tây Bắc” là tên gọi một vùng cao phía tây đất nước, nơi hướng đến của biết bao người đi xây dựng kinh tế miền núi những năm 1958-1960.
– Con tàu tâm tưởng của hồn thơ Chế Lan Viên hướng đến Tây Bắc, nhưng Có riêng gì Tây Bắc bởi vì ngoài nghĩa cụ thể về một miền đất, “Tây Bắc” còn gợi nghĩ đến mọi miền xa xôi của đất nước, nơi có cuộc sống gian lao mà sâu nặng nghĩa tình của nhân dân, nơi ghi khắc những kỉ niệm của đời người trải qua cuộc kháng chiến, nơi đang vẫy gọi mọi người đi tới. “Tây Bắc” chính là Tổ quốc, là hiện thực cuộc sống, là cội nguồn cảm hứng sáng tạo nghệ thuật.
Câu 2.
1. Giới thiệu tác phẩm, nhân vật
– Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ in trong tập Truyện Tây Bắc (1953) là kết quả của chuyến đi thực tế ở Tây Bắc của Tô Hoài. Truyện kể về cuộc đời Mị và A Phủ ở Hồng Ngài với những ngày đen tối và những ngày tươi sáng, đầy hi vọng.
– Nhân vật Mị được tác giả tập trung khắc họa với sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ, vượt trên kiếp sống đầy đau khổ, tủi nhục, hướng tới cuộc sống tốt lành. Các ý chính trong nhận xét của Tô Hoài: nêu rõ cuộc sống cực nhục của người dân nghèo miền núi; đề cao bản chất tốt đẹp và khẳng định sự sống bất diệt của con người.
2. Con người tốt đẹp
a) Mị có phẩm chất tốt đẹp
– Mị là một thiếu nữ xinh đẹp, tài hoa, hồn nhiên, yêu đời. Cô không những chăm chỉ làm ăn mà còn yêu tự do, ý thức được quyền sống của mình.
– Phẩm chất tốt đẹp nhất của Mị là giàu lòng vị tha, đức hi sinh: Mị thà chết còn hơn sống khổ nhục, nhưng rồi Mị chấp nhận sống khổ nhục còn hơn là bất hiếu, còn hơn thấy cha mình già yếu vẫn phải chịu bao nhục nhã, khổ đau.
b) Mị bị đày đọa cả thể xác lẫn tinh thần
– Mang danh là con dâu thống lí, vợ của con quan nhưng Mị lại bị đối xử như một nô lệ. Mị ở nhà chồng mà như ở địa ngục với công việc triền miên. Mị sống khổ nhục hơn cả súc vật, thường xuyên bị A Sử đánh đập tàn nhẫn. Mị sống như một tù nhân trong căn buồng chật hẹp, tối tăm.
– Trong cuộc sống tù hãm, Mị vô cùng buồn tủi, uất ức. Muốn sống cũng chẳng được sống cho ra người, muốn chết cũng không xong, dường như Mị bắt đầu chấp nhận thân phận khốn khổ, sống như cái bóng, như “con rùa nuôi trong xó cửa”.
3. Sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ
a) Tâm trạng, hành động của Mị trong ngày hội xuân ở Hồng Ngài
– Bên trong hình ảnh “con rùa nuôi trong xó cửa” vẫn còn một con người khát khao tự do, khát khao hạnh phúc. Gió rét dữ dội cũng không ngăn được sức xuân tươi trẻ trong thiên nhiên và con người, tất cả đánh thức tâm hồn Mị. Mị uống rượu để quên hiện tại đau khổ. Mị nhớ về thời con gái, Mị sống lại với niềm say mê yêu đời của tuổi trẻ. Trong khi đó tiếng sáo (biểu tượng của tình yêu và khát vọng tự do) từ chỗ là hiện tượng ngoại cảnh đã đi sâu vào tâm tư Mị.
– Mị thắp đèn như thắp lên ánh sáng chiếu rọi vào cuộc đời tăm tối. Mị chuẩn bị đi chơi nhưng bị A Sử trói lại; tuy bị trói nhưng Mị vẫn tưởng tượng và hành động như một người tự do, Mị vùng bước đi.
b) Tâm trạng, hành động của Mị trong đêm cuối cùng ở nhà Pá Tra
– Mới đầu thấy A Phủ bị trói, Mị vẫn thản nhiên. Nhưng đêm ấy, Mị thấy dòng nước mắt trên má A Phủ. Nhớ lại cảnh ngộ của mình trong đêm mùa xuân năm trước, Mị đồng cảm, thương xót cho A Phủ. Phân tích nét tâm lí: Mị thấy cái chết sắp tới với A Phủ là oan ức, phi lí; Mị không sợ hình phạt của Pá Tra; ý thức căm thù và lòng nhân ái giúp Mị thắng nỗi sợ hãi, biến Mị thành con người dũng cảm trong hành động cắt dây trói cứu A Phủ.
– Ngay sau đó, Mị đứng lặng trong bóng tối với bao giằng xé trong lòng. Nhưng rồi khát vọng sống trỗi dậy mãnh liệt, Mị vụt chạy theo A Phủ, đến với tự do.
4. Khái quát .
– Với bút pháp hiện thực sắc sảo, nghệ thuật phân tích tâm lí tinh tế, Tô Hoài đã xây dựng thành công nhân vật Mị.
– Cuộc đời đau khổ, tủi nhục của Mị có ý nghĩa tiêu biểu cho kiếp sống khốn khổ của người dân miền núi dưới ách thống trị của các thế lực phong kiến và thực dân.
– Nhưng có áp bức, có đấu tranh; nhân vật Mị chính là điển hình sinh động cho sức sống tiềm tàng, sức vươn lên mạnh mẽ của con ngườitừ trong hoàn cảnh tăm tối hướng tới ánh sáng của nhân phẩm và tự do.
Câu 3a.
1. Giới thiệu chung
– Đây mùa thu tới in trong tập Thơ thơ (1938) là bài thơ tiêu biểu của Xuân Diệu – nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh)
– Bài thơ viết về một đề tài quen thuộc nhưng vẫn có nét mới mẻ, độc đáo: đó là mùa thu được cảm nhận với nỗi buồn cô đơn của một cái tôi cá nhân khát khao giao cảm với cuộc đời, là sức sống của tuổi trẻ và tình yêu thấm sâu trong từng cảnh vật được miêu tả. Tất cả thể hiện tập trung ngay ở khổ thơ đầu.
2. Bình giảng khổ thơ
a) Hai câu đầu
– Khác với thơ ca truyền thống thường tả mùa thu bằng lá ngô đồng rụng, sen tàn, cúc nở hoa… Xuân Diệu nhận thấy tín hiệu của mùa thu ở rặng liễu đìu hiu. Cây liễu cũng không được dùng như một ẩn dụ để biểu hiện vẻ yếu đuối của người con gái, mà lại được nhân hóa để gợi cái buồn sầu héo hắt của con người. Cách nói quá liễu đứng chịu tang gợi nỗi buồn nhân gian, nỗi buồn đồng vọng giữa thiên nhiên với con người.
– Các nhà thơ xưa lấy hình ảnh thiên nhiên để tả vẻ đẹp của con người. Xuân Diệu lại dùng hình ảnh con người để tả vẻ đẹp của thiên nhiên: câu thơ thứ hai tả thực cây liễu qua biện pháp so sánh – nhân hóa mà gợi tới hình ảnh người thiếu nữ e ấp cúi đầu cho làn tóc dài đổ xuống, những dòng lệ tuôn rơi. Kĩ thuật láy âm liễu đìu hiu… buồn buông xuống… tang – ngàn hàng tạo ra nhạc điệu chậm, buồn, vẻ buồn mùa thu.
b) Hai câu sau
– Với từ Đây thật đột ngột, báo hiệu một phát hiện mói lạ, với điệp ngữ mùa thu tới – mùa thu tới liên tiếp, nhanh, câu thơ thứ ba như tiếng reo thầm trong tâm tưởng nhà thơ. Nó mang đến một niềm vui nhẹ nhàng, thanh thoát, niềm vui của một tâm hồn yêu đời, rung động trước những vẻ đẹp của cuộc đời.
– Đôi mắt trẻ trung của nhà thơ phát hiện ra vẻ đẹp của thiên nhiên: mùa thu tới không gợi sự tàn tạ mà có diện mạo mới rất thơ mộng. Vẻ đẹp ấy được cảm nhận trong màu ảo mơ phai, cách dùng biện pháp nhân hóa và định ngữ nghệ thuật với dệt lá vàng.
3. Kết luận
– Mùa thu được cảm nhận như có dáng vóc, có tâm hồn, đẹp mà buồn.
– Khổ thơ thể hiện quan niệm thẩm mĩ, bộc lộ tình yêu và niềm khát khao giao cảm với cuộc đời của Xuân Diệu của các nhà thơ mới.
Câu 3b.
1. Giới thiệu chung
– Sau 1975, Nguyễn Minh Châu quan tâm tiếp cận đời sống ở góc độ thế sự. Ông là một trong những cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi mới.
– Nguyễn Minh Châu sáng tác truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa năm 1983. Trong tác phẩm này, nhà văn đã xây dựng được một tình huống truyện mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống.
2. Phân tích tình huống truyện
a) Tình huống truyện
– Nghệ sĩ Phùng đến một vùng ven biển miền Trung chụp một tấm ảnh cho cuốn lịch năm sau. Anh thấy cảnh chiếc thuyền ngoài xa, trong làn sương sớm, đẹp như tranh vẽ. Phùng nhanh chóng bấm máy, thu lấy một hình ảnh không dễ gì gặp được trong đời.
– Khi chiếc thuyền vào bờ, Phùng thấy hai vợ chồng hàng chài bước xuống. Anh chứng kiến cảnh người chồng đánh vợ, đứa con ngăn bố. Những ngày sau, cảnh đó lại tiếp diễn. Phùng không ngờ sau cảnh đẹp như mo’ là bao ngang trái, nghịch lí của đời thường.
b) Các nhân vật với tình huống
– Tình huống truyện được tạo nên bởi nghịch cảnh giữa vẻ đẹp chiếc thuyền ngoài xa với cái thật gần như là sự ngang trái trong gia đình thuyền chài. Gánh nặng mưu sinh đã đề trĩu lên vai cặp vợ chồng. Người chồng trở thành kẻ vũ phu. Người vợ vì thương con nên nhẫn nhịn chịu đựng sự ngược đãi của chồng mà không biết mình đã làm tổn thương tâm hồn đứa con. Cậu bé thương mẹ, bênh vực mẹ, thành ra căm ghét cha mình.
– Chánh án Đẩu tốt bụng nhưng lại đơn giản trong cách nghĩ. Anh khuyên người đàn bà bỏ chồng là xong, mà không biết bà cần một chỗ dựa kiếm sống để nuôi con khôn lớn.
c) Ý nghĩa khám phá, phát hiện của tình huống
– Ở tình huống truyện này, cái nhìn và cảm nhận của nghệ sĩ Phùng, chánh án Đẩu là sự khám phá, phát hiện sâu sắc về đời sống con người.
– Đẩu hiểu được nguyên do người đàn bà không thể bỏ chồng là vì những đứa con. Anh vỡ lẽ ra nhiều điều trong cách nhìn nhận cuộc sống.
– Phùng thấy như chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, còn sự thật cuộc đời lại ở rất gần. Câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện giúp anh hiểu rõ hơn cái có lí trong cái tưởng như nghịch lí ở gia đình thuyền chài. Anh hiểu thêm tính cách Đẩu và hiểu thêm chính mình.
3. Kết luận
– Tình huống truyện Chiếc thuyền ngoài xa có ý nghĩa khám phá, phát hiện về sự thật đời sống, một tình huống nhận thức.
– Tình huống truyện này đã nhấn mạnh thêm mối quan hệ gắn bó giữa nghệ thuật và cuộc đời, khẳng định cái nhìn đa diện, nhiều chiều về đời sống, gợi mở những vấn đề mới cho sáng tạo nghệ thuật.
ĐỀ THI ĐẠI HỌC MÔN VĂN ĐỀ16
ĐỀ THI TUYỂN SINH ĐẠI HỌC,
CAO ĐẲNG NĂM2007 – KHỐI C
I. PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH
Câu 1.Anh (chị) hãy trình bày ngắn gọn những đặc điểm thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám 1945.
Câu 2. Phân tích nghệ thuật trào phúng trong truyện ngắn “Vi hành” của Nguyễn Ái Quốc.
II. PHẦN TỰCHỌN
(Thí sinh chỉ được chọn làm một trong hai câu 3a hoặc 3b)
Câu 3a.Theo chương trình THPT không phân ban
Bình giảng đoạn thơ sau đây trong bài Tống biệt hành của Thâm Tâm:
Đưa người, ta không đưa qua sông,
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Đưa người, ta chỉ đưa người ấy,
Một giã gia đình, một dửng dưng…
– Li khách! Li khách! Con đường nhỏ,
Chí lớn chưa về bàn tay không,
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm, mẹ già cũng đừng mong.
(Văn học 11, tập một, NXB Giáo dục, tái bản, 2005 tr.147)
Câu 3b. Theo chương trình THPT phân ban thí điểm (3 điểm)
Cảm nhận của anh (chị) về vẻ đẹp của dòng sông Hương (đoạn từ thượng nguồn đến thành phố Huế) qua tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường (đoạn trích trong Ngữ văn 12, sách giáo khoa thí điểm Ban KHXH và NV)
GỢIÝ TRẢ LỜI
Câu 1.
a) Về nội dung
Thơ Xuân Diệu thể hiện tình yêu đời, yêu cuộc sống thiết tha, mãnh liệt (say cảnh, say tình, thiết tha giao cảm với đời).
– Thơ Xuân Diệu cũng thể hiện tâm trạng chán nản, hoài nghi; nhân vật trữ tình trong thơ thường cô đơn.
b) Về nghệ thuật
Đặc sắc của thơ Xuân Diệu là ở cảm hứng, thi tứ, bút pháp:
– Cảm xúc trong thơ Xuân Diệu say đắm, mãnh liệt. Ông cảm nhận thế giới chung quanh bằng tất cả giác quan và bằng cái nhìn mói mẻ, tươi non.
– Thơ Xuân Diệu là sự kết hợp hai yếu tố cổ điển và hiện đại. Đông và Tây; nhưng ảnh hưởng của thơ phương Tây vẫn đậm nét hơn (từ cảm hứng đề tài, đến xây dựng hình ảnh, cú pháp, nhịp điệu, ngôn từ).
Câu 2.
1. Giới thiệu chung
Năm 1922 Khải Định sang Pháp dự cuộc đấu xảo thuộc địa ở Mác- xây. Chuyến đi này đã bị các nhà cách mạng yêu nước lên án mạnh mẽ. Nguyễn Ái Quốc lúc đó đang ở Pháp đã góp tiếng nói phê phán vua bù nhìn Khải Định và chính phủ Pháp bằng truyện “Vi hành” in trên báo Nhân đạo (1923).
– Tác giả đã sử dụng nghệ thuật trào phúng để đạt mục đích trên.
2. Nghệ thuật trào phúng của truyện
a) Cách đặt nhan đề
– In-co-gni-to nguyên văn tiếng Pháp có nghĩa là không ai biết, dùng tên giả. Dịch giả Phạm Huy Thông chuyển nghĩa In-co-gni-to sang tiếng Việt là “vi hành” ở Pari. Tình huống này vừa oái oăm, vừa hài hước; vừa vô lí, vừa hợp lí nhằm lên án bản chất của vị vua An Nam.
Tình huống nhầm lẫn được tăng tiến dần (từ đôi nam nữ trên tàu điện, đến quần chúng, thậm chí đến Chính phủ Pháp) có tác dụng vừa lên án vị vua An Nam, vừa giễu cợt một cách kín đáo việc Chính phủ Pháp phái mật thám theo dõi những người Việt yêu nước trên đất Pháp.
Tình huống nhầm lẫn nói trên làm cho việc lên án có tính khách quan (vì tất cả những lời chê bai, bình phẩm về vua An Nam đều xuất phát từ miệng người Pháp) và do đó có sức thuyết phục cao.
c) Cách dựng chân dung nhân vật biếm họa
Miêu tả gián tiếp: nhân vật chính không xuất hiện trực tiếp, nhưng qua những lời nhận xét, bình phẩm của đôi nam nữ người Pháp, bản chất và tính cách vị vua An Nam vẫn được hiện lên vừa rõ nét, vừa hài hước.
– Nhờ việc lựa chọn và sắp xếp các chi tiết đặc sắc để miêu tả (ngoại hình xấu xí, trang phục lòe loẹt, điệu bộ lúng túng đến thảm hại, hành vi mờ ám…), nhân vật vua An Nam hiện lên như một bức chân dung biếm họa đặc sắc.
d) Lời văn châm biếm sắc sảo
Giọng văn: có đủ mọi chất giọng (tự sự, trữ tình, triết lí…), nhưng mỉa mai là giọng chính. Tác giả không dùng những lời lẽ đao to búa lớn, chỉ nhẹ nhàng mà thấm thìa, sâu cay.
– Nhờ sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật (chơi chữ, nói ngược, so sánh tạt ngang, câu hỏi tu từ…) lời văn châm biếm trở nên sắc sảo hơn, và sức công phá, đả kích cao hơn.
3. Kết luận
Tiếng cười của truyện bật lên từ sự phát hiện những mâu thuẫn giữa hình thức và nội dung, giữa hiện tượng và bản chất làm cho chân dung nhân vật vua An Nam được khắc họa rõ nét, nhờ đó tính chất châm biếm, đả kích của tác phẩm sáng rõ hơn.
– Nghệ thuật trào phúng của truyện vừa có chất thâm thúy, sâu sắc của phương Đông vừa mang đậm chất trí tuệ và hiện đại của văn xuôi phương Tây.
Câu 3a.
1. Giới thiệu chung
– Tống biệt hành của Thâm Tâm là một trong những bài thơ nổi tiếng của thơ mới.
– Bài thơ vừa thể hiện tâm trạng chung của một lớp người đang tìm đường, vừa thể hiện được dấu ấn riêng của tác giả bởi thơ trầm hùng, bi tráng, đặc biệt trong đoạn thơ đầu.
1. Bình giảng đoạn thơ
a) Bốn câu thơ đầu
– Nhấn mạnh không gian và thời gian của cuộc tiễn đưa. Đó là nơi không có bến sông (khác với thơ ca xưa thường diễn ra nơi bến sông, con đò). Thời gian cũng không có gì đặc biệt (không thắm, không vàng vọt). Tác giả phủ nhận ngoại cảnh (điệp từ không) nhằm tô đậm nội tâm của kẻ ở, người di.
– Bốn câu thơ đầu là hai câu hỏi tu từ với hai vế đối lập giữa cái không của ngoại cảnh và cái có của nội tâm để khẳng định tâm trạng day dứt, xốn xang (tiếng sóng trong lòng) của người đưa tiễn và tâm trạng buồn thương, quyến luyến (bóng hoàng hôn trong mắt) của người ra đi.
– Âm điệu vừa thiết tha, vừa khắc khoải (điệp từ sao, toàn thanh bằng ở câu 1 và nhiều thanh trắc ở câu 2) tạo không khí trầm buồn, xao xuyến của buổi chia tay.
b) Sáu câu tiếp theo
– Hai câu thơ 5,6: Tác giả thể hiện rõ hơn sắc thái tâm trạng và thái độ của người ra đi cũng như người ở lại. Nếu như người đưa tiễn khẳng định “ta chỉ đưa người ấy”, thì với người ra đi “Một giã gia đình, một dửng dưng”.
– Cách dùng từ Hán Việt và hình thức độc thoại (câu 7) tạo sắc thái trang trọng, vừa gợi tư thế dứt khoát của người ra đi, vừa thể hiện tâm trạng nén lòng của người ở lại – mãi dõi theo bóng người đi xa như không hề muốn có cuộc chia li. Chí nhớn nhưng con đường nhỏ và bàn tay không làm nổi rõ những trăn trở, và dự cảm về những khó khăn mà người ra đi phải đối mặt.
– Những từ ngữ xưng hô (ta, người), từ phủ định (chưa, không, đừng) với âm điệu mạnh mẽ đã làm cho câu thơ trở nên rắn rỏi, thể hiện quyết tâm của người ra đi vì chí lớn “một đi không trở lại”. Từ dửng dưng và dấu chấm lửng ở cuối câu thơ thứ 6 thể hiện sự kìm nén tình cảm và thái độ dứt khoát của người ra đi.
– Hình ảnh mẹ già ở câu thơ thứ 10 làm cho giọng điệu thơ chùng xuống, dù có mềm lòng, có níu kéo riêng tư vẫn không ngăn được quyết tâm của li khách.
3. Kết luận .
– Đoạn thơ ca ngợi vẻ đẹp của li khách trong thời đại mới và thể hiện sự ngưỡng vọng đối với những người ra đi vì nghĩa lớn, cũng là cách thể hiện tấm lòng yêu nước thầm kín của nhà thơ.
– Đoạn thơ vừa cổ kính vừa hiện đại, đậm chất bi tráng và “đượm chút bâng khuâng khó hiểu của thời đại” (Hoài Thanh).
Câu 3b.
1. Giới thiệu chung
Ai đã đặt tên cho dòng sông? là một tùy bút đặc sắc, thể hiện phong cách tài hoa, uyên bác, giàu chất thơ của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Bài kí đã ca ngợi dòng sông Hương như một biểu tượng của Huế (đặc biệt là đoạn từ thượng nguồn đến thành phố Huế).
2. Cảm nhận về vẻ đẹp của dòng sông
a) Vẻ đẹp dòng sông
– Trong đoạn trích nói trên, vẻ đẹp của dòng sông được phát hiện ở cảnh sắc thiên nhiên rất đa dạng. Dòng sông trữ tình, êm ả, hiền hòa như một thiếu nữ dịu dàng và duyên dáng:
+ Lúc ở rừng già: phóng khoáng và man dại, rầm rộ và mãnh liệt như một “bản trường ca của rừng già”.
+ Khi ra khỏi rừng: dịu dàng và trí tuệ của “người mẹ phù sa”.
+ Lúc đi qua hai dãy đồi sừng sững như thành quách: dòng sông mềm như tấm lụa, với vẻ đẹp biến ảo “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”.
+ Khi qua vùng ngoại ô Kim Long: vui tươi hẳn lên.
+ Khi đến thành phố: Sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ làm cho dòng sông mềm hẳn đi và trôi đi chậm, thực chậm như mặt hồ yên tĩnh.
— Vẻ đẹp dòng sông được miêu tả bằng một tình cảm thiết tha với Huế, với một vốn văn hóa phong phú và một vốn ngôn từ giàu có và đậm chất thơ của tác giả.
b) Cảm nghĩ của cá nhân: Trình bày những suy nghĩ, tình cảm của riêng cá nhân về vẻ đẹp của dòng sông (yêu cầu chân thành, sâu sắc với lời văn giàu cảm xúc). Thí sinh có thể nêu ý sau: Dòng sông như là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa, một vẻ đẹp rất thơ, khơi nguồn cho cảm hứng thơ ca, và gắn liền với âm nhạc cổ điển của Huế, tạo nên bề dày lịch sử văn hóa của Huế.
3. Kết luận
— Nhờ ngòi bút tài hoa của tác giả, sông Hương trở thành dòng sông bất tử, chảy mãi trong trí nhớ và tình cảm của người đọc.
— Bồi đắp tình cảm đối với quê hương, đất nước.
ĐỀ THI ĐẠI HỌC MÔN VĂN ĐỀ 17
ĐỀ THI TUYỂN SINH ĐẠI HỌC
KHỐI C NĂM 2009
Môn thi: Ngữ văn (khối C)
(Thời gian làm bài: 180 phút)
PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH (5,0 ĐIỂM)
Câu 1. (2,0 điểm)
Anh (chị) hãy nêu những nét chính về tình cảm nhân đạo và bút pháp nghệ thuật của Thạch Lam trong truyện ngắn Hai đứa trẻ.
Câu 2. (3,0 điểm)
Trong thư gửi thầy hiệu trưởng của con trai mình, Tổng thống Mĩ A. Lin-côn (1809-1865) viết: “xin thầy hãy dạy cho cháu biết chấp nhận thi rớt còn vinh dự hơn gian lận khi thi”. (Theo Ngữ văn 10, Tập hai, NXB Giáo dục, 2006, tr.135)
Từ ý kiến trên, anh (chị) hãy viết một bài văn ngắn (không quá 600 từ) trình bày suy nghĩ của mình về đức tính trung thực trong khi thi và trong cuộc sống.
PHẦN RIÊNG (5,0 ĐIỂM)
Thí sinh chỉ được làm một trong hai câu (câu III.a hoặc III. b)
Câu III.a. Theo chương trình Chuẩn (5,0 điểm)
Cảm nhận về anh (chị) về những vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người vợ nhặt (Vợ nhặt – Kim Lân) và nhân vật người đàn bà hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa- Nguyễn Minh Châu).
Câu III.b Theo chương trình Nâng cao (5,0 điểm)
Cảm nhận của anh (chị) về hai đoạn thơ sau:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người,
Gió mưa là bệnh của giời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
(Tương tư Nguyễn Bính, Ngữ văn 11 Nâng cao, Tập hai, NXB Giáo dục, 2007, tr.84)
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
(Việt Bắc Tố Hữu, Ngữ văn 12 Nâng cao, Tập một, Giáo dục, 2008, tr. 84)
BÀI GIẢI GỢI Ý
Câu I.
– Giới thiệu Thạch Lam là một trong những cây bút chủ lực của nhóm Tự lực văn đoàn với những sáng tác mang đậm tình cảm nhân đạo và bút pháp nghệ thuật đặc sắc, trong đó có truyện Hai đứa trẻ.
+ Sự cảm thông của nhà văn với những rung động nhẹ nhàng, tinh tế trong tâm hồn con người: tâm hồn Liên man mác buồn trong thời khắc của một ngày tàn; Liên xúc động khi nhìn thấy những đứa trẻ nghèo đi lại nhặt nhạnh những vật thừa nơi chợ chiều nhưng chính chị cũng không có tiền cho chúng.
+ Sự thông cảm cho những kiếp người nhỏ bé nơi phố huyện nghèo. Đó là những kiếp người nghèo khổ, đơn điệu, mòn mỏi, tẻ nhạt.
• Hình ảnh mẹ con chị Tí bán nước trà và quà vặt hằng đêm.
• Hình ảnh bác phở Siêu bán phở gánh.
• Hình ảnh vợ chồng bác xẩm hát dạo, xin ăn.
• Và hình ảnh chị em Liên, An – những đứa trẻ sớm phải phụ giúp sinh kế gia đình.
+ Sự thấu hiểu và trân trọng của nhà văn khát vọng thầm lặng, sâu sắc trong tâm hồn những người nghèo khổ. Họ luôn khao khát về một thế giới, một tương lai tươi sáng khác với hiện tại nghèo khổ đen tối của họ: ngần ấy con người ngồi trong bóng tối hướng vọng về đoàn tàu Hà Nội rực rỡ, sang trọng – hình ảnh tươi sáng của tương lai.
– Bút pháp nghệ thuật đặc sắc biểu hiện qua:
+ Cốt truyện giản dị hầu như không có chuyện mà vẫn chứa đựng nội dung giàu tính nhân văn, gợi được những rung động sâu lắng, hấp dẫn nơi người đọc và có sức lay tỉnh tâm hồn người.
+ Bút phát tả thực kết hợp hài hòa với trữ tình tạo dựng sinh động,
chân thực bức tranh nhân thế cảm động của phố huyện nghèo nhưng đầy ắp tình người.
+ Lời văn trong sáng gợi tình, gợi cảm; giọng văn trữ tình, giàu chất thơ tạo được âm hưởng ngân vang và ấn tượng sâu sắc nơi người đọc.
– Thạch Lam với Hai đứa trẻ đã để lại cho văn học Việt Nam một sáng tác đặc sắc giàu tính nhân văn.
Câu II.
1. Yêu cầu kĩ năng:
– Biết kết hợp các thao tác lập luận để làm bài văn nghị luận xã hội.
– Bố cục chặt chẽ, ý kiến rõ ràng, thuyết phục; diễn đạt trôi chảy, viết có cảm xúc,…
II. Hiểu được ý kiến của A. Lin-côn.
Tổng thống A. Lincôn đề nghị nhà trường dạy cho con mình, cũng là dạy cho học sinh:
– Biết chấp nhận thi rớt (nếu mình chưa đủ tài)
– Tránh gian lận trong thi cử (đả kích tiêu cực trong thi cử)
=> Ý nghĩa câu nói: ca ngợi cách sống dũng cảm và trung thực.
2. Nêu suy nghĩ bản thân:
Quan niệm của A. Lincôn là đúng đắn với mọi thời đại.
– Học sinh thi đỗ là khát vọng chung của mọi học sinh.
– Nhưng sự trung thực trong học tập, thi cử mới chính là điều quan trọng.
– Mở rộng:
+ Trân trọng người thực tài, đả kích những kẻ giả dối, háo danh.
+ Trân trọng người trung thực, dũng cảm, đả kích thói giả dối, bất tài, vô dụng.
3. Rút ra bài học cho bản thân:
+ Luôn luôn nghiêm khắc với bản thân. .
+ Luôn coi trọng vấn đề thực học để trỏ’ thành những con người thực tài.
Câu III.a
Giới thiệu: vẻ đẹp người phụ nữ là một trong những đề tài quen thuộc của văn học Việt Nam. Trong văn học giai đoạn 1945 đến hết thế kỉ XX, nó được thể hiện qua nhiều nhân vật, trong đó có người vợ nhặt (Vợ nhặt- Kim Lân), và người đàn bà hàng chài trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu.
– Đây là hai nhân vật không phải là nhân vật chính của hai tác phẩm. Thoáng nhìn bên ngoài, cả hai đều không có vẻ đẹp gì đặc biệt. Cô vợ nhặt xuất hiện trước mặt Tràng trong lần thứ hai với thân hìnhgầy sọp, quần áo tả tơi như tổ đỉa, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.Còn người đàn bà hàng chài là một người phụ nữ miền biển trạc ngoài bốn mươi, thô kệch, rỗ mặt, lúc nào cũng xuất hiện với vẻ mệt mỏi tạo ấn tượng về một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ.
– Nhưng nhìn sâu vào bên trong tâm hồn họ, người đọc sẽ tìm thấy được những nét cao đẹp đáng quý.
+ Người vợ nhặt:
* Một thiếu nữ nhanh nhẹn, hoạt bát, vui vẻ như chị đã thể hiện khi gặp Tràng lần đầu tiên.
* Một người phụ nữ ý tứ, nghiêm trang: thái độ của chị khi cùng Tràng đi về qua xóm ngụ cư: kéo nón che nghiêng nửa mặt, không được hài lòng khi bọn trẻ trêu đùa; khi đến nhà Tràng, chị chỉ ngồi nép nơi mép giường.
* Tuy có biến dạng về tính cách do hoàn cảnh đói khát nhưng chỉ cần một sự yêu thương, nương tựa, một mái ấm gia đình, chị đã trở về với bản tính tốt đẹp của một người phụ nữ hiền thục đảm đang, yêu cuộc sống: anh Tràng thấy chị không còn vẻ chao chát, chỏng lỏn, anh thay chị đảm đang, hiền thục, chị dậy sớm cùng mẹ chồng thu dọn nhà cửa cho quang quẻ, sạch sẽ. Trong bữa cơm hằng ngày, miếng chè cám đắng xít cổ họng, chị điềm nhiên và vào miệng, cúi mặt xuống che dấu sự xúc động để khỏi làm đau lòng người mẹ chồng nghèo khổ, già nua, nhân hậu.
+ Người đàn bà làng chài:
* Nhân vật được gọi một cách phiếm định: người đàn bà. Tuy không có tên cụ thể, vô danh như biết bao người đàn bà vùng biển khác, nhưng số phận của chị được tác giả tập trung thể hiện và được người đọc quan tâm nhất trong truyện ngắn này.
* Chị là một người phụ nữ đau khổ. Chị thường xuyên bị chồng đánh đập, ba ngày một trận nhỏ, năm ngày một trận lớn, nhưng chị vẫn lặng thinh chịu đựng, chị không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trốn.
* Chị biết thương chồng. Chị hiểu được những đau đớn, day dứt của chồng do hoàn cảnh nghèo khổ, vất vả, khó khăn đến nỗi nó khiến anh từ một người đàn ông tuy cộc tính nhưng hiền lành và nhất là chưa bao giờ đánh vợ trở thành một kẻ vũ phu tàn ác. Chính vì vậy, chị đã hoàn toàn nhẫn nhục chịu khổ khi bị chồng bạo hành.
* Chị là người mẹ thương con. Chị lo sợ thằng Phác sẽ có những hành động nông nổi với bố, chị đã gởi con cho bố ruột của mình nuôi. Không muốn con thấy cảnh cha đánh mẹ, chị xin với anh mỗi lần đánh chị thì lên bờ mà đánh khi không có mạt con. Sở dĩ chị nhẫn nhục, chịu đựng như vậy là vì chị nghĩ đến đàn con bởi gia đình cần có một người đàn ông trong những lúc phong ba bão táp, cùng chị nuôi nấng đàn con khôn lớn. Có thể nói đây là một sự hi sinh cao cả của chị đối với con.
* Chị cũng là người hiểu thấu lẽ đời, tuy ít học mà tỉnh táo và sáng suốt. Không chỉ hiểu mình, chị hiểu cả tấm lòng của những người phụ nữ làng chài. Họ biết mình đau khổ nhưng vẫn nhẫn nại, hi sinh, bao dung chịu đau khổ để cho đàn con được dưỡng nuôi khôn lớn. Bởi người phụ nữ làng chài không thể sống như những người phụ nữ khác, do hoàn cảnh rất riêng của họ, lúc nào cũng sông trên sông nước, gia đình nào cũng trên dưới chục đứa con. Câu chuyện của chị ở tòa án huyện đã mang lại cho chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng những nhận thức mới mẻ mà trước đó họ chưa từng nghĩ tới.
* Chị yêu thương gia đình và cuộc sống đầm ấm đạm bạc của gia đình. Như chị nói, trên thuyền cũng có những lúc cha con, chồng vợ vui vẻ với nhau, nhất là khi nhìn đàn con được ăn no. Chính vì vậy, khi chánh án Đẩu đề nghị chị li hôn với chồng, chị đã nhất định không chấp nhận.
* Chị là người phụ nữ bao dung, vị tha, giàu lòng thương yêu và đức hi sinh – tiêu biểu cho vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam.
– Hai nhân vật có những nét riêng trong số phận, đặc điểm với những nét đậm nhạt khác nhau nhưng đều thể hiện được tâm hồn nhân hậu, hiền thục của người của người phụ nữ Việt Nam.
– Những hình ảnh như vậy mang lại cho người đọc đương thời và ngày nay những cảm nhận sâu sắc và bài học quý giá để noi gương.
Câu III.b Cảm nhận về hai đoạn trích trong Tương tư của Nguyễn Bính và Việt Bắc của Tố Hữu.
1. Giới thiệu chung về đề tài và tác phẩm.
– Tình yêu là đề tài muôn thuở của văn chương. Sự sống của tình yêu chính là. Nỗi nhớ. Nỗi nhớ trong tình yêu đa sắc thái và nhiều cung bậc.
– Tương tư (Lỡ bước sang ngang – 1940) là bài thơ tình nổi tiếng của Nguyễn Bính, nói về nỗi tương tư, nhung nhớ của một người con trai với một người con gái mình thầm yêu. Việt Bắc (Việt Bắc – 1954) của Tố Hữu diễn tả nỗi nhớ với chiến khu. Nhà thơ đã lấy trạng thái nhớ nhung trong tình yêu để so sánh, khẳng định niềm nhớ thương da diết không nguôi của những người cán bộ xuôi về với quê hương cách mạng.
2. Cảm nhận về hai đoạn thơ
a. Trích đoạn thơ trong Tương tư
Đây là đoạn mở đầu của bài thơ. Người con trai chân thành thú nhận nỗi tương tư.
– Hai câu đầu là dẫn dắt từ xa đến gần, từ ướm đến hỏi rất duyên dáng của ca dao. Nói chuyện thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông để nói chuyện một người nhớ một người. Dùng lối diễn đạt ước lệ để giãi bày niềm thương nhớ dâng đầy (chín nhớ mười mong).
– Hai câu sau lấy quy luật của trời đất để nói quy luật của tình yêu.
Trời đất phải có gió mưa, yêu thì có thương có nhớ. Từ “bệnh” được dùng rất ý vị, khẳng định thêm tính tất yếu của tình yêu.
– Các hình ảnh sóng đôi: Đông – Đoài, gió – mưa, tôi – nàng… tô đậm khát vọng lứa đôi. Thể thơ lục bát, cách diễn đạt, cách dùng địa danh quen thuộc của ca dao dân ca khiến Nguyễn Bính được biểu hiện rất tài tình.
b. Trích đoạn thơ trong Việt Bắc
– Đây là lời của người đi, khẳng định về xuôi sẽ nhớ Việt Bắc “như nhớ người yêu”. Từ đó muốn nói nỗi nhớ của tình yêu là nỗi nhớ da diết nhất, thường trực nhất.
– Sau lời khẳng định là những hình ảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc đẹp như khúc hát đồng quê. Trăng đầu núi, nắng chiều lưng nương, bản khói cùng sương… là những hình ảnh rất đặc trưng cho khung cảnh núi rừng êm đềm, thơ mộng. Trên cái nền trữ tình là hình ảnh con người Việt Bắc tần tảo, chịu thương chịu khó. Con người và thiên nhiên hài hòa gắn bó trong nỗi nhớ người về xuôi.
– Các hình ảnh trong hoài niệm nhưng hiện lên thật cụ thể, rõ nét, chứng tỏ sự gắn bó sâu sắc và nỗi nhớ thiết tha.
c. Những tương đồng và khác biệt trong hai đoạn thơ.
– Hai đoạn trích đều vận dụng hình thức thơ ca dân tộc để diễn tả nỗi nhớ nhung. Đi từ nguồn mạch dân tộc, do vậy gần gũi với tâm hồn Việt Nam. Tình yêu đôi lứa ở đây chan hòa trong tình yêu quê hương đất nước.
– Trích đoạn thơ trong Tương tư trực tiếp diễn tả nỗi tương tư trong tình yêu. Trích đoạn thơ trong Việt Bắc dùng nỗi nhớ của tình yêu để khẳng định nỗi nhớ với quê hương cách mạng.
(Theo Tuổi trẻ Online)
ĐỀ THI ĐẠI HỌC MÔN VĂN ĐỀ 18
ĐỀ THI TUYỂN SINH ĐẠI HỌC,
CAO ĐẲNG NĂM 2005 – KHỐI D
Câu 1. Anh (chị) hãy trình bày những nét chính trong sự nghiệp thơ của Xuân Diệu.
Câu 2.Phân tích vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống, ở các nhân vật, bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt (Kim Lân)
Câu 3. Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Kính gửi cụ Nguyễn Du của Tố Hữu:
Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu.
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày
Hỡi Người xưa của ta nay
Khúc vui xin lại so dây cùng Người!
(Văn học 12, Tập một, NXB Giáo dục, tái bản 2004, tr. 160) GỢI Ý TRẢ LỜI
Câu 1.
Xuân Diệu là một tác gia lớn, một tài năng nhiều mặt trong nền văn học Việt Nam. Nhưng nói đến Xuân Diệu, trước hết phải nói đến nhà thơ. Sự nghiệp sáng tác thơ của Xuân Diệu chia làm hai giai đoạn: trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945.
a) Trước Cách mạng tháng Tám 1945: Xuân Diệu được xem là nhà thơ lãng mạn tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Trong thơ, Xuân Diệu bộc lộ hai tâm trạng trái ngược; yêu đời, tha thiết với cuộc sống nhưng hoài nghi, chán nản, cô đơn. Dù ở trạng thái cảm, xúc nào, Xuân Diệu cũng thể hiện cái tôi cá nhân của mình hết sức mãnh liệt. Xuân Diệu rất nổi tiếng ở mảng thơ tình yêu. Tác phẩm có: Thơ thơ, Gửi hương cho gió.
b) Sau Cách mạng tháng Tám 1945; Xuân Diệu hòa mình vào cuộc sống mới, nhiệt thành đem nghệ thuật phục vụ cách mạng. Thơ ông có những thay đổi về đề tài, cảm hứng, chất liệu, ngôn từ và cách biểu hiện. Ông bám sát đời sống, viết nhiều về công cuộc xây dựng đất nước và đấu tranh thống nhất nước nhà. Những tập thơ chính: Mũi Cà Mau, Cầm tay, Hai đợt sóng…
Bên cạnh sáng tác thơ, Xuân Diệu còn viết văn xuôi, nghiên cứu phê bình văn học và dịch thuật. Phấn thông vàng và Trường ca là hai tập văn xuôi đặc sắc của ông. Xuân Diệu để lại những tập tiểu luận phê bình có giá trị: Tiếng thơ, Phê bình giới thiệu thơ, Dao có mài mới sắc…
Câu 2.
1.Giới thiệu chung
– Kim Lân từng sáng tác trước Cách mạng tháng Tám 1945, nhưng chỉ sau 1945, ông mới thực sự có vị trí trong nền văn học Việt Nam. Ông viết không nhiều, nhưng đã đạt được những thành công đáng kể, đặc biệt là về đề tài nông thôn.
– Vợ nhặt của Kim Lân (in trong tập Con chó xấu xí – 1962) là tác phẩm đặc sắc viết về nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu. Trên cái nền tăm tối ấy, nhà văn đã miêu tả cảnh ngộ của những con người nghèo khổ ở xóm ngụ cư với cái nhìn nhân hậu, phát hiện ở họ vẻ đẹp của tình người vì niềm hi vọng vào cuộc sống.
2. Phân tích cụ thể
Vợ nhặttái hiện một bức tranh cuộc sống rất bi thảm. Nạn đóihoành hành dữ dội. Nguời chết như rạ. Người sống thì lay lắt bên bờ vực thẳm. Thế nhưng, qua các nhân vật chính trong tác phẩm, tác giả lại cho ta thấy rằng: ngay trong hoàn cảnh khốn cùng, những con người này vẫn không mất đi những nét đẹp vốn có của họ.
a) Tràng
– Thái độ của Tràng đối với người đàn bà xa lạ đói rách là biểu hiện của tình người đẹp đẽ trong một hoàn cảnh đói nghèo, cùng quẫn: cưu mang người cùng cảnh ngộ (chi tiết Tràng mời người đàn bà một bữa bánh đúc rồi chấp nhận việc chị ta theo mình về nhà dù cảm thấy hơn “chợn”); nảy sinh những tình cảm mới mẻ, những cảm giác lạ lùng (các chi tiết: trên đường về, Tràng đã nhận thấy tình nghĩa đối với người đàn bà đi bên, bối rối trước nỗi buồn của chị ta…).
– Sau tình huống nhặt vợ, niềm hi vọng vào cuộc sống đã thể hiện rõ rệt ở Tràng: vui sướng trước hạnh phúc bất ngờ (phân tích ý nghĩa chi tiết mua dầu để thắp, ý nghĩa những cái cười của Tràng: bật cười, cười tươi…), gắn bó hơn với gia đình, nghĩ về trách nhiệm của bản thân (thấm thía, cảm động, vui sướng phấn chấn, thấy mình nên người và nhận ra bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này…); nghĩ tới sự đổi thay của cuộc sống dù chưa có ý thức đầy đủ (thoáng trong đầu óc Tràng hình ảnh đoàn người đói kéo nhau đi trên đê với lá cờ đỏ phấp phới…)
b) Người vợ nhặt
– Tình cảnh khốn khổ đã không làm mất đi tình người ở nhân vật này. Lúc đầu, cái đói làm chị tiều tuỵ cả hĩnh hài, không giữ được cả sự e dè vốn có của người phụ nữ. Nhưng từ khi theo Tràng, chị thay đổi hẳn: không còn “chao chát, chỏng lỏn” mà trở thành người “hiền hậu, đúng mực” (làm sáng tỏ bằng việc phân tích một số chi tiết tiêu biểu). Thiên chức, bổn phận làm vợ ở chị đã được đánh thức (vấn vương những tình cảm mới mẻ; cư xử với Tràng mộc mạc, chân tình; mắng yêu khi Tràng khoe chai dầu vừa mua…)
Sự trỗi dậy của niềm hi vọng: nhen nhóm, vun đắp tổ ấm hạnh phúc (cùng mẹ chồng sắp xếp, dọn dẹp nhà cửa…), thoáng nghĩ tới một sự thay đổi (nhắc chuyện ở mạn Thái Nguyên, Bắc Giang, người ta không chịu đóng thuế, còn phá kho thóc của Nhật chia cho người đói…).
c) Bà cụ Tứ
– Nhân vật này cho thấy rõ nhất vẻ đẹp của tình người trong tác phẩm Vợ nhặt, vẻ đẹp đó được thể hiện qua thái độ, tình cảm của bà cụ Tứ đối với con trai và con dâu. Với Tràng, bà cảm thấy tủi vì làm mẹ mà không giúp gì được cho con, để con phải “nhặt” vợ trong cảnh túng đói. Tâm trạng của bà, sự ngạc nhiên, buồn vui, lo âu… lẫn lộn. Tất cả đều xuất phát từ lòng thương con (phân tích một số chi tiết tiêu biểu). Với người con dâu, bà không hề rẻ rúng, mà ngược lại, tỏ ra gần gũi, chân tình, xóa đi mặc cảm ở chị (chú ý những câu nói chan chứa yêu thương của bà: “ừ, thôi thì các con phải duyên phải kiếp với nhau,u cũng mừng lòng”; “Cốt sao chúng mày hòa thuận với nhau là u mừng rồi”; “Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…”)
– Người mẹ gần đất xa trời lại là người bộc lộ niềm tin hi vọng mãnh liệt vào cuộc sống. Bà động viên các con bằng kinh nghiệm sống, bằng triết lí nhân gian (Ai giàu ba họ, ai khó ba đời…), hướng tới ánh sáng (vui khi thấy Tràng thắp lên ngọn đèn trong căn nhà…); thu xếp lại nhà cửa cho quang quẻ, nề nếp với ý nghĩa đời sẽ khác đi, làm ăn có có khấm khá lên; ổn định về tương lai, khơi dậy trong con cái một niềm tin (nghĩ tới việc kiếm tiền mua đôi gà cho nó sinh sôi nảy nở, hi vọng về đời con cháu mình rồi sẽ sáng sủa hơn…)
d) Kết luận
– Ba nhân vật trong tác phẩm Vợ nhặt được Kim Lân miêu tả rất sinh động. Ngoại hình, hành động, lời nói, nhất là diễn biến nội tâm của nhân vật dưới sự tác động của tình huống đặc biệt được khắc họa rõ nét. Chính vì thế, những điều tác giả muốn khẳng định ở các nhân vật càng trở nên nổi bật.
– Miêu tả nạn đói, Kim Lân không chỉ tái hiện bức tranh thê lương của cuộc sống, mà còn phát hiện được những phẩm chất cao quý của con người trong cảnh ngộ bi thảm. Qua đó, nhà văn bộc lộ cái nhìn hiện thực sắc sảo và tình cảm nhân đạo sâu sắc.
Câu 3.
3. Giới thiệu chung
– Tố Hữu viết bài Kính gửi cụ Nguyễn Du vào tháng 11-1965, dịp ông có chuyến công tác vào tuyến lửa khu Bốn, qua huyện Nghi Xuân, quê hương Nguyễn Du. Được viết ra trong thời điểm cả dân tộc kỉ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du, bài thơ là tiếng nói tri âm sâu sắc của nhà thơ nay với đại thi hào trong quá khứ.
– Đoạn trích thuộc phần cuối của bài thơ. Ở khổ thơ này, Tố Hữu đã có những đánh giá rất cao đối với sự nghiệp văn học của Nguyễn Du bằng những tình cảm ngưỡng mộ, trân trọng, ngợi ca.
2. Bình giảng hai đoạn thơ
a) Hai câu mở đoạn: tôn vinh tiếng thơ Nguyễn Du ở mức cao nhất. Tiếng thơ ấy động cả trời đất, là lời non nước bất tử cùng thời gian.
– Có thể hiểu từ “động” theo hai nghĩa làm xúc động hoặc làm vang động. Cách hiểu nào cũng đều cho thấy thơ Nguyễn Du có sức tác động vô cùng mạnh mẽ.
– Ở câu thứ hai, khi xem tiếng thơ Nguyễn Du là lời non nước vọng về, Tố Hữu đã vĩnh cửu hóa tác phẩm của Nguyễn Du, bằng cách đồng nhất với tiếng nói của một nhà thơ với tiếng nói của dân tộc. Sự nhấn mạnh bằng lối so sánh thậm xưng nhằm làm nổi bật ý: tiếng thơ Nguyễn Du là sự kết tinh tâm hồn dân tộc, và ngược lại, tâm hồn tộc qua tiếng. thơ Nguyễn Du mà vọng đến muôn đời. Chú ý những đại lượng lớn về
không gian và thời gian: đất trời, non nước, ngàn thu… được dùng để khẳng định tầm vóc lớn lao của di sản văn học mà Nguyễn Du để lại.
b) Hai câu tiếp: khẳng định sự trường tồn của tác phẩm Nguyễn Du và cắt nghĩa nguyên nhân của sự trường tồn ấy.
– “Nghìn năm sau” Nguyễn Du vẫn còn được nhớ tới, bởi với tình yêu thương con người bao la thì ở nơi nào, ông cũng nhận được sự đồng cảm sâu sắc.
– Chú ý hàm nghĩa phong phú của hai “tiếng thương” và việc đưa hình ảnh “tiếng mẹ ru” làm đối tượng so sánh nhằm nhấn mạnh sự thiêng liêng mà gần gũi của tiếng thơ Nguyễn Du với mọi thời đại.
c) Hai câu cuối: khẳng định Nguyễn Du vẫn sống cùng nhân dân, đất nước hôm nay.
Trong hai câu thơ này, đại từ Người được sử dụng hai lần, biểu lộ sự tôn kính, trân trọng và sự tri ân của tác giả đối với Nguyễn Du. Tố Hữu xúc động mời gọi .Người xưa trở về cuộc sống hiện tại để cùng hòa tấu “khúc vui” với con cháu hôm nay. Nguyễn Du vẫn luôn song hành với chúng ta trên mỗi bước đường. Đây là niềm tự hào của tác giả về thời đại mói.
d) Kết luận
– Nội dung: Nằm trong mạch cảm hứng chung của cả bài, đoạn thơ là sự ngợi ca của Tố Hữu dành cho những giá trị văn học của đại thi hào Nguyễn Du.
– Nghệ thuật: Câu thơ lục bát với âm điệu ngọt ngào, tha thiết (nhờ cách sử dụng những từ hô gọi, những đại từ nhân xưng…) dùng những đại lượng lớn về không gian và thời gian để đánh giá tầm vóc di sản văn học của Nguyễn Du, nghệ thuật so sánh giàu tính biểu cảm…
ĐỀ THI ĐẠI HỌC MÔN VĂN ĐỀ 19
ĐỀ THI TUYỂN SINH ĐẠI HỌC,
CAO ĐẲNG Năm 2005 – KHỐI D
I. PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH
Câu 1. Anh (chị) hãy trình bày hoàn cảnh ra đời và mục đích sáng tác bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh.
Câu 2. Tràng giang của Huy Cận là Mi thơ vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại.
Anh (chị) hãy phân tích bài thơ Tràng giang để làm sáng tỏ nhận xét trên.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều,
Nắng xuống, trời lèn sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
(Văn học 11, Tập một, NXB Giáo dục, tái bản 2005, tr.143)
II. PHẦN TỰCHỌN
(Thí sinh chỉ được chọn làm một trong hai câu 3a hoặc 3b)
Câu 3a. Theo chương trình THPH không phân ban
So sánh cách nhìn người nông dân của hai nhân vật Hoàng và Độ trong truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao.
Câu 3b. Theo chương trình THPH phân ban thí điểm
Phân tích những nét đẹp trong suy nghĩ và ứng xử của nhân vật bà Hiền trong truyện ngắn Một người Hà Nội của Nguyễn Khải (đoạn trích trong Ngữ văn 12, Sách giáo khoa thí điểm Ban KHXH và NV)
GỢI Ý TRẢ LỜI
1. Hoàn cảnh ra đời
– Ngày 19-8-1945, chính quyền ở Hà Nội về tay nhân dân. Ngày 268-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chiến khu cách mạng Việt Bắc về tới Hà Nội. Người soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang. Ngày 2-9-1945, tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, trước hàng chục vạn đồng bào, Người thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc bản Tuyên ngôn Độc lập.
– Lúc này cũng là thời điểm bọn đế quốc, thực dân nấp sau quân Đồng minh vào tước khí giới quân đội Nhật đang âm mưu chiếm lại nước ta. Thực dân Pháp tuyên bố Đông Dương là thuộc địa của Pháp bị Nhật xâm chiếm, nay Nhật đầu hàng nên Đông Dương phải thuộc quyền của Pháp.
2. Mục đích sáng tác
– Chính thức tuyên bố trước toàn dân, trước thế giới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam.
– Tố cáo tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân ta suốt 80 năm qua và tuyên bố chấm dứt chế độ thực dân, xóa bỏ mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.
– Khẳng định ý chí của cả dân tộc Việt Nam kiên quyết bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc.
Câu 2.
1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm
– Huy Cận là một nhà thơ xuất sắc trong phong trào Thơ mới.
– Tràng giang (sáng tác năm 1939, in trong tập Lửa thiêng) là bài thơ nổi tiếng và tiêu biểu nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám. Tràng giang mang vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại.
2. Phân tích bài thơ
a) Khổ thơ 1
– Nhan đề và lời từ đã gợi lên phần nào cảm xúc chủ đạo của bài thơ: bâng khuâng trước vũ trụ mênh mông.
– Bài thơ mở đầu với dòng sông ngoại cảnh cũng là dòng sông tâm hồn, nỗi buồn trải ra cùng lớp lớp sóng. Khác với trường giang hùng vĩ, cuồn cuộn của Lí Bạch, Đỗ Phủ, tràng giang của Huy Cận lặng lờ (sóng gợn, thuyền xuôi mái), nhuốm nỗi chia li (Thuyền về nước lại sầu trăm ngả). Củi một cành khô lạc mấy dòng là hình ảnh đời thực, gửi gắm ưu tư của tác giả về thân phận con người.
b) Khổ thơ 2
– Trước thiên nhiên rộng lớn ấy, nhà thơ mong tìm những nơi chốn tụ họp của con người (làng, chợ, bến) nhưng càng thấy hoang vắng, trơ trọi. Huy Cận đã học từ câu thơ dịch Chinh phụ ngâm (Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò), nhưng thêm một từ láy (Lơ thơ cồn cỏ gió đìu hiu) khiến cảnh vật quê càng quạnh quẽ. Câu thơ Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều nói đến âm thanh mà lại làm nổi bật cái vắng lặng.
(Lưu ý: có thể chấp nhận cả 2 cách hiểu: có và không có tiếng vãn chợ chiều)
– Nếu khổ 1 triển khai chiều rộng, chiều dài thì khổ 2 mở thêm chiều cao. Những cấu trúc đăng đối nắng xuống trời lên, sông dài trời rộng nhấn mạnh ấn tượng không gian được mở ra ở cả ba chiều. Kết hợp độc đáo sâu chót vót gợi cái thăm thẳm của vũ trụ. Lời đề từ được nhắc lại ở đây tô đậm nỗi cô liêu.
c) Khổ thơ 3
– Khổ thứ 3 thể hiện rõ bút pháp tả cảnh ngụ tình với những hình ảnh vừa gần gũi thân quen vừa giàu sức gợi. Những cánh bèo phiêu dạt giữa lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng phải chăng cũng là hình ảnh những kiếp người lênh đênh vô định?
– Nhà thơ mong tìm một sự giao cảm, gắn bó nhưng trước mắt chỉ là không gian mênh mông, không một chuyến đò, không một cây cầu kết nối. Con người cảm thấy bơ vơ, cô độc giữa một cõi đời không chút niềm thân mật.
d) Khổ thơ 4
– Nỗi cô đơn càng thấm thìa lúc hoàng hôn. Được gợi từ câu dịch thơ Đổ Phủ (Mặt đất mày đùn cửa ải xa), Huy Cận đã sáng tạo nên hình ảnh một hoàng hôn hùng vĩ Lớp lớp mây cao đùn núi bạc. Cánh chim quen thuộc trong thơ ca về hoàng hôn đến Huy Cận cũng mang nét mới lạ: cái hữu tình của cánh chim nhỏ nghiêng xuống làm hiện lên cái vô hình của bóng chiều trĩu nặng; cánh chim giữa trời rộng gợi “cái tôi” cô đơn, rợn ngợp trước vũ trụ, trước cuộc đời.
– Huy Cận đã liên tưởng đến Thôi Hiệu khi viết hai câu cuối. Khói sóng trên sông làm Thôi Hiệu buồn, còn Huy Cận thì không khói hoàng hôn củng nhớ nhà, nỗi nhớ đã luôn da diết trong lòng tác giả.
3. Vừa đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại của bài thơ (1 điểm)
a) Đề tài, cảm hứng
– Tràng giang mang nỗi sầu từ vạn cổ của con người bé nhỏ, hữu hạn trước thời gian, không gian vô hạn, vô cùng.
– Tràng giang đồng thời thể hiện “nỗi buồn thế hệ” của một “cái tôi” thơ mới thời mất nước “chưa tìm thấy lối ra”.
b) Chất liệu thi ca
– Ở Tràng giang, ta bắt gặp nhiều hình ảnh quen thuộc trong thơ cô (tràng giang, bờ bãi đìu hiu, cánh chim trong bóng chiều…), nhiều hình ảnh, tứ thơ được gợi từ thơ cổ.
– Mặt khác, Tràng giang cũng không thiếu những hình ảnh, âm thanh chân thực của đời thường, không ước lệ (củi khô, tiếng vãn chợ chiều, bèo dạt…)
c) Thể loại và bút pháp
– Tràng giang mang đậm chất phong vị cổ điển qua việc vận dụng nhuần nhuyễn thể thơ 7 chữ với cách ngắt nhịp, gieo vần, cấu trúc đảng đối; bút pháp tả cảnh ngụ tình, gợi hơn là ta…; những từ Hán Việt cổ kính (tràng giang, cô liêu…).
– Song Tràng giang lại cũng rất mới qua xu hướng giãi bày trực tiếp “cái tôi” trữ tình (buồn điệp điệp, sầu trăm ngả, không khối hoàng hôn cũng nhớ nhà:..), qua những từ ngữ sáng tạo mang dấu ấn xúc cảm cá nhân của tác giả (sâu chót vót, niềm, thân mật, dọn dạn…).
4. Kết luận
– Tràng giang của Huy Cận không chỉ là một bức phong cảnh mà con là “một bài thơ về tâm hồn”. Bài thơ thể hiện nỗi buồn cô đơn trước vũ trụ, trước cuộc đời.
– Từ đề tài, cảm hứng, chất liệu đến giọng điệu, bút pháp, Tràng giang vừa mang phong vị thi ca cổ điển vừa mang chất hiện đại của thơ mới.
– Vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại cũng là một nét đặc trưng của phong cách Huy Cận.
Câu 3a.
1. Giới thiệu chung
– Đôi mắt (1948) là một truyện ngắn xuất sắc của Nam Cao sau Cách mạng tháng Tám và được coi là một “tuyên ngôn nghệ thuật” của tác giả và những nhà văn cùng thế hệ với ông.
– Trong tác phẩm, hai nhân vật văn sĩ Hoàng và Độ là hai tính cách trái ngược, thể hiện hai quan điểm đối lập nhau về nhiều phương diện, đặc biệt trong cách nhìn người nông dân.
a) Cách nhìn của Hoàng:
– Hoàng có cái nhìn khinh miệt đầy định kiến đối với người nông dân (Hoàng thấy họ đều ngu độn, lỗ mãng, ích kỉ, tham lam, bần tiện, còn những người làm công tác ủy ban thì vừa ngố vừa nhặng xị… Hoàng cười gằn, nỗi khinh bỉ… phì cả ra ngoài… khi nói về họ). Cái nhìn của Hoàng phiến diện chỉ thấy hiện tượng mà không nhận ra bản chất (chỉ thấy cái ngố bên ngoài không hiểu cái nguyên cớ thật đẹp đẽ bên trong qua hành động vác tre đi ngăn quân thù của quần chúng.
b) Cách nhìn của Độ:
– Trước Cách mạng, giống như Hoàng, Độ cũng là từng gần như thất vọng về người nông dân, thấy họ dốt nát, nheo nhếch, nhát sợ, nhịn nhục. Anh nghi ngờ “sức mạnh quần chúng”.
– Sau Cách mạng, nhờ sống gắn bó với người nông dân, Độ ngày càng nhận thức đúng đắn và sâu sắc về họ. Anh thừa nhận người nông dân có những hạn chế, nhưng anh biết cảm thông, và hơn nữa, phát hiện ta bản chất cách mạng của họ (hát “Tiến quân” ca như người buồn ngủ cầu kinh, gọi lựu đạn là nựu đạn… nhưng đầy lòng yêu nước, làm cách mạng hăng hái…). Anh nhận thấy sự biến chuyển tích cực của người nông dân khi họ tham gia cuộc kháng chiến vì độc lập của -dân tộc cũng là vì hạnh phúc, tự do của mình (trước giả có bị lính lệ ghẹo vợ… cũng đành im thin thít mà nay xung phong can đảm lắm…)
2. Kết luận
Qua Hoàng và Độ, Nam Cao đã phê phán cách nhìn cũ lệch lạc, phiến diện và khẳng định cái nhìn mới đúng đắn, toàn diện. Từ đó, nhà văn đã đặt ra vấn đề hết sức có ý nghĩa là vấn đề chỗ đứng, lập trường, quan điểm của người cầm bút.
Câu 3b.
1. Giới thiệu chung
– Nguyễn Khải là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu củavăn học Việt Nam hiện đại. Ông đặc biệt sắc sảo trong phát hiện những vấn đề của cuộc sống đương đại, thể hiện con người thời đại, nhất là cách nghĩ, cuộc sống tinh thần của họ.
– Trong truyện ngắn Một người Hà Nội (1990), qua nhân vật bà Hiền, Nguyễn Khải thể hiện cảm nhận về những giá trị bất biến của con người Hà Nội trong một xã hội đang diễn ra nhiều đổi thay.
2. Những nét đẹp trong suy nghĩ và cách ứng xử của bà Hiền.
a) Những nét đẹp trong suy nghĩ:
– Trong công việc gia đình, nuôi dạy con cái cũng như trách nhiệm với cộng đồng, với đất nước, cái chuẩn trong suy nghĩ của bà Hiền là lòng tự trọng, (dạy con cái không sống tùy tiện, buông tuồng; đồng ý cho con đi chiến đấu vì không muốn nó sống bảm vào sự hi sinh của bạn bè…)
– Bà luôn tin vào vẻ đẹp trường tồn, bất diệt trong lối sống, cốt cách và bản sắc văn hóa Hà Nội (Mỗi thế hệ đều có thòi vàng son của họ. Hà Nội thì không thế. Thời nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho mỗi lứa tuổi).
b) Những nét đẹp trong cách ứng xử:
– Bà Hiền ứng xử có bản lĩnh trước những thay đổi diễn ra trong xã hội, luôn luôn dám là mình, thẳng thắn, chân thành đồng thời cũng khéo léo, thông minh.
– Bà Hiền luôn giữ gìn những nét đặc trưng trong lối sống Hà Nội, biểu lộ phong thái lịch lãm, sang trọng của người Hà thành (cách trang trí phòng khách, những bữa ăn gia đình bà đều toát lên vẻ cổ kính, quý phái và óc thẩm mĩ tinh tế của chủ nhân…).
3. Kết luận
– Nhân vật bà Hiền gợi lên vẻ đẹp và chiều sâu văn hóa của người Hà Nội. Nói như Nguyễn Khải, bà Hiền là “một hạt bụi vàng” của đất kinh kì.
– Nhận xét về nghệ thuật xây dựng nhân vật: nhân vật được trần thuật từ điểm nhìn của nhân vật “tôi” (người kể chuyện) và qua những tình huống gặp gỡ với những nhân vật khác, qua nhiều thời đoạn của đất nước.
ĐỀ THI ĐẠI HỌC MÔN VĂN ĐỀ 20
MÔN VĂN (KHỐI D) – 2008
PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍSINH
Câu I. (2 điểm)
Anh (chị) hãy nêu những nét chính trong quan điểm nghệ thuật của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám.
Câu II(5 điểm)
Phân tích tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ (Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài)
PHẦN RIÊNG
– Thí sinh chỉ được làm 1 trong 2 câu: III.a hoặc III.b
Câu III.a(3 điểm)
Cảm nhận của anh (chị) về đoạn thơ sau trong bài Đây mùa thu tới của Xuân Diệu:
Hơn một cành hoa đã rụng cành,
Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh;
Những luồng run rẩy rung rinh lá…
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.
(Văn học 11 Tập một, Nxb Giáo dục, 2005. tr.131)
Câu III.b(3 điểm)
Cảm nhận của anh (chị) về đoạn thơ sau trong bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử:
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
(Ngữ văn 11, Tập hai, SGK thí điểm, Ban KHXH và NV, Bộ 1, NXB Giáo dục, 2005, tr,54)
GỢI Ý BÀI GIẢI
Câu I. Những nét chính trong quan điểm nghệ thuật của Nam Cao trước cách mạng tháng Tám (2,0 điểm)
– Nam Cao từ bỏ quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật”, tìm đến con đường “nghệ thuật vị nhân sinh”, phê phán thứ nghệ thuật xa rời thực tế, đòi hỏi nghệ thuật phải bám sát cuộc đời (nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than).
– Nhà văn chân chính phải có đôi mắt của tình thương, tác phẩm thực sự phải có nội dung nhân đạo (ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự cống bình…, làm cho người gần người hơn).
– Đòi hỏi cao sự tìm tòi sáng tạo, không chấp nhận sự rập khuôn dễ dãi (văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi… và sáng tạo những gì chưa có).
– Người cầm bút phải có lương tâm; viết cẩu thả chẳng những là “bất lương” mà còn là “đê tiện”.
Câu II. Phân tích tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ (5,0 điểm)
l. Giới thiệu vài nét về tác giả và tác phẩm (0,5 điểm)
– Tô Hoài là nhà văn nổi tiếng trên văn đàn từ trước năm 1945. Trong kháng chiến chống Pháp, ông chủ yếu hoạt động ở lĩnh vực báo chí, nhưng vẫn có một số thành tựu quan trọng trong sáng tác văn học, nhất là về đề tài miền núi.
– Truyện Vợ chồng A Phủ in trong tập Truyện Tây Bắc, là kết quả của chuyến Tô Hoài đi cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc (1952), đánh dấu độ chín của phong cách nghệ thuật Tô Hoài. Tác phẩm viết về cuộc sống tăm tối và khát vọng sống mãnh liệt của người dân miền núi dưới ách thông trị của thực dân phong kiến. Mị là nhân vật chính, là linh hồn của tác phẩm.
2. Tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ (4,0 điểm)
– Từ vô cảm đến đồng cảm: những đêm trước nhìn thấy cảnh A Phủ bị trói đứng Mị hoàn toàn dửng dưng vô cảm. Đêm ấy, dòng nước mắt của A Phủ đã đánh thức và làm hồi sinh lòng thương người trong Mị (gợi cho Mị nhớ về quá khứ đau đớn của mình, Mị thấy thương xót cho người đồng cảnh ngộ).
– Nhận ra sự độc ác và bất công: từ những cảnh ngộ của mình và những người đàn bà bị hành hạ ngày trước, đến cảnh đau đớn và bất lực của A Phủ trước mắt. Mị nhận thấy chúng nó thật độc ác, thấy người kia việc gì mà phải chết.
– Hành động cứu người: Mị nhớ lại đời mình, lại tưởng tượng cảnh A Phủ tự trốn thoát. Nghĩ thế Mị… cũng không thấy sợ. Tình thương và lòng căm thù đã giúp Mị có sức mạnh để quyết định cứu người và liều mình cắt dây trói A Phủ.
– Tự giải thoát cuộc đời mình: đối mặt với hiểm nguy Mị cũng hốt hoảng…; lòng ham sống mãnh liệt đã thúc giục Mị chạy theo A Phủ.
3. Ý nghĩa của việc miêu tả hành động của Mị (0,5 điểm)
Tạo tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn; cách miêu tả, diễn biến tâm lí nhân vật tài tình, hợp lí đã tạo nên sự thay dổi số phận nhân vật một cách thuyết phục.
– Thể hiện giá trị nhân đạo, phát hiện và miêu tả sức sống mãnh liệt, khát vọng tự do của người lao động bị áp bức trong xã hội cũ.
Câu III.a Cảm nhận về đoạn thơ trong bài Đây mùa thu tới của Xuân Diệu (3,0 điểm)
1. Giới thiệu vài nét về tác giả và tác phẩm (0,5 điểm)
– Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong những nhà Thơ mới, là một hồn thơ luôn khát khao giao cảm với cuộc đời và thiên nhiên.
– Đây mùa thu tới (in trong tập Thơ thơ) là một trong những thi phẩm nổi tiếng của Xuân Diệu, bài thơ thể hiện cách nhìn mới, cảmxúc và bút pháp mới. Bốn câu tả cảnh thu trong vườn là một trong những đoạn đặc sắc nhất.
2. Cảm nhận về đoạn thơ (2,5 điểm)
a. Cảnh sắc thiên nhiên
– Cảnh vườn thu phai tàn: hoa lìa cành, lá thay màu đổi sắc, cành cây khô gầy, mỏng manh. Diện mạo của cảnh vật tiêu điều, phôi pha theo những bước đi âm thầm lặng lẽ của thời gian.
– Cảnh sắc hữu tình như một sinh thể có linh hồn với những động thái run rẩy, dáng nét gầy guộc, mỏng manh.
b. Tâm trạng nhân vật trữ tình
– Nỗi buồn sâu lắng của một người đang theo dõi từng bước đi của thời gian, muốn níu giữ vẻ đẹp của thiên nhiên trong cảnh thu đang phai tàn.
– Niềm cảm thương tạo vật thiên nhiên trước những biến suy không thể cưỡng lại vào lúc giao mùa.
c. Đặc sắc nghệ thuật
– Hình ảnh quen thuộc mà mới lạ thể hiện sự cách tân trong thi liệu (hoa rụng cành, sắc đỏ rủa màu xanh, luồng run rẩy…) giàu chất tạo hình hiện đại.
– Ngôn ngữ có sự kết hợp cách diễn đạt của phương Tây (hơn một, rủa) với lối tu từ tuyền thống (đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh).
– Nhạc điệu có sự phối hợp giữa việc dùng điệp phụ âm (chuỗi bốn âm “r” kế tiếp) với mật độ láy dày (run rẩy, rung rinh, mỏng manh) vừa tả sự lay động của sự vật, vừa thể hiện cảm giác tinh vi của chủ thể: giọng kể đan xen trong mạch thơ (qua khá nhiều từ chỉ số lượng hơn một, những, đôi…) cũng góp phần thể hiện cảm xúc hết sức tinh tế của thi sĩ.
Câu III.b Cảm nhận về đoạn thơ trong bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử (3,0 điểm)
1. Giới thiệu vài nét về tác giả và tác phẩm (0,5 điểm)
– Hàn Mặc Tử là một nhà thơ của phong trào Thơ mới. Bên cạnh những vần thơ điên loạn, ma quái, xa lạ với cuộc sống đời thường, thi sĩ nhiều khi lại sáng tạo nên những hình ảnh tuyệt mĩ, hồn nhiên và trong trẻo lạ thường.
– Đây thôn Vĩ Dạ (in trong tập Đau thương) là một thi phẩm nổi tiếng của Hàn Mặc Tử. Bài thơ vừa tả cảnh đẹp thôn Vĩ Dạ, vừa bộc lộ tâm trạng của nhân vật trữ tình – thiết tha yêu đời nhưng cũng đầy u uẩn.
2. Cảm nhận về đoạn thơ (2,5 điểm)
a. Cảnh sắc thiên nhiên
– Cảnh thiên nhiên phiêu tán, phân li với sông nước, gió mây, hoabắp, thuyền trăng, sông trăng huyền ảo; toát lên vẻ đẹp êm đềm mà xao động, thơ mộng và u buồn.
– Xu thế vận động của thiên nhiên có sự tương phản; hầu hết sự vật chảy trôi đi, còn trăng thì ngược dòng trở lại, chứa đựng những nghịch cảnh.
b. Tâm trạng của nhân vật trữ tình
– Tâm trạng phức tạp với nhiều sắc thái chuyển hóa đan xen: lúc buồn bã, lo âu bởi dự cảm chia lìa; lúc bồi hồi, phập phồng bởi khao khát ngóng trông… Tất cả đều mong manh, khắc khoải gần như vô vọng.
– Tâm hồn tuy nặng trĩu u buồn, nhưng vẫn rộng mở để đón nhận những vẻ đẹp huyền ảo, thi vị của thiên nhiện; tấm lòng tha thiết với đời và khao khát sống vẫn cố níu giữ, bám víu cuộc đời.
c. Đặc sắc nghệ thuật
Hình ảnh thơ độc đáo, tài hoa, đầy ám ảnh; vừa dân dã vừa thi vị (dòng nước buồn thiu hoa bắp lay), vừa gợi tả vừa giàu sức biểu hiện (mây, gió); nét thực, nét ảo cứ chập chờn chuyển hóa (sông trăng, thuyền chở trăng).
– Nhịp điệu khi khoan, khi nhặt hòa hợp với giọng điệu khi trầm lắng, khi khẩn cầu biểu lộ cảm xúc u hoài mà tha thiết (thể hiện thành sự chuyển hóa âm điệu từ hai câu đầu đến hai câu sau).
– Nhiều thủ pháp nghệ thuật như phép đối (câu một), nhân hóa (ở hầu hết các hình ảnh thiên nhiên), đại từ phiếm chỉ và câu hỏi tu từ (Thuyền ai đậu bến sông trăng đó… tối nay?) làm cho ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh, tài hoa, biểu lộ được nhiều trạng thái cảm xúc tinh tế.
ĐỀ THI ĐẠI HỌC MÔN VĂN ĐỀ 21
MÔN VĂN (KHỐI C) NĂM 2008
PHẦN CHUNG CIIO TẤT CẢ THÍ SINH
Câu 1. (2 điểm)
Anh (chị) hãy giới thiệu ngắn gọn về hai tập thơ Từ ấy và Việt Bắc của Tố Hữu.
Câu 2. (5 điểm)
Cùng bộc lộ nỗi nhớ về Tây Bắc, trong bài Tây Tiến của Quang Dũng viết:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đếm hơi
(Văn học 12, Tập một, NXB Giáo dục, 2005. tr.76)
Trong bài Tiếng hát con tàu, Chế Lan Viên viết:
Nhớ bản sương giăng, nhớ đeo mây phủ
Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương?
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn!
(Văn học 12, Tập một, NXB Giáo dục, 2005. tr. 121)
Cảm nhận của anh (chị) về đoạn thơ trên.
PHẦN RIÊNG – THÍ SINH CHỈ ĐƯỢC LÀM 1 TRONG 2 CÂU: III.A III.B
Câu III.a(3 điểm)
Trong tác phẩm Chữ người tử tù, vì sao tác giả Nguyễn Tuân lại ví tấm lòng của nhân vật quản ngục như “một âm thanh trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ”?
Câu III.b(3 điểm)
Trong tác phẩm Một người Hà Nội, vì sao tác giả Nguyễn Khải lại gọi nhân vật bà Hiền là “hạt bụi vàng của Hà Nội”?
ĐÁP ÁN
Câu I. Giới thiệu ngắn gọn về hai tập thơ Từ ấy và Việt Bắc của Tố Hữu (2,0 điểm)
1. Tập Từ ấy (1,0 điểm)
– Từ ấy, là tập thơ đầu tay của Tố Hữu được sáng tác trong khoảng thời gian từ 1937 đến 1944 tương ứng với chặng đường cách mạng từ phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương đến Tổng khởi nghĩa tháng Tám. Tập thơ gồm ba phần: Máu lửa, xiềng xích, giải phóng. Qua ba phần ấy, cảm hứng thơ Tố Hữu vận động từ niềm hân hoan của tâm hồn trẻ nhiều băn khoăn về lẽ sống bỗng gặp được ánh sáng lí tưởng, rồi qua bao gian lao, thử thách, từng bước trưởng thành trên con đường đấu tranh cách mạng, đến niềm vui bất tuyệt, ngây ngất trước cuộc đời vĩ đại của dân tộc.
– Nổi bật lên ở tập Từ ấy là chất lãng mạn trong trẻo của một hồn thơ trẻ say men lí tưởng: nhạy cảm với cảnh đời, tình đời; một cái tôi trữ tình mói, trong đó ý thức cá nhân đang từng bước hòa mình với đoàn thể, nhân quần; một giọng điệu thiết tha, sôi động, nồng nhiệt.
2. Tập Việt Bắc (1,0 điểm)
– Việt Bắc là chặng đường thứ hai của thơ Tố Hữu, được sáng tác trong khoảng thời gian từ 1947 đến 1954. Tập thơ là bản hùng ca phản ánh những chặng đường gian lao, anh dũng và những bước đi lên của cuộc kháng chiến chống Pháp cho đến ngày thắng lợi. Tập thơ hướng vào thể hiện con người quần chúng kháng chiến, trước hết là công, nông, binh; kết tinh những tình cảm lớn của con người Việt Nam mà bao trùm là tình yêu nước.
– Ở Việt Bắc, thơ Tố Hữu bay bổng và rộng mở trong cảm hứng sử thi – trữ tình mang hào khí thời đại: hình thức thơ giàu tình dân tộc và đại chúng.
Câu II. Cảm nhận về hai đoạn thơ (5,0 điểm)
1. Đoạn thơ trong bài Tây Tiến của Quang Dũng (2,0 điểm)
– Đoạn thơ bộc lộ nỗi nhớ da diết, vời vợi về miền Tây và người lính Tây Tiến. Thiên nhiên miền Tây xa xôi mà thân thiết, hoang vu mà thơ mộng, con người Tây Tiến gian khổ mà hào hoa.
– Hình ảnh thơ có sự hài hòa nét thực nét ảo, vừa mông lung vừa gợi cảm về cảnh người; nhạc điệu có sự hòa hợp giữa lời cảm thán với điệu cảm xúc (câu mở đầu như một tiếng kêu vọng vào không gian), giữa mật độ dày những âm vần (rồi, ơi, chơi vơi, mỏi, hơi) với điệp từ (nhớ/ nhớ) và lối đối uyển chuyển (câu 3 với câu 4) đã tạo ra một âm hưởng tha thiết, ngậm ngùi…
2. Đoạn thơ trong bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên (2,0 điểm)
– Đoạn thơ bộc lộ nỗi nhớ sâu nặng về những miền quê đã từng qua, rồi kết tinh thành một triết lí sắc sảo. Từ nỗi nhớ thương từ những vùng đất mang nặng nghĩa tình, thuộc về kỉ niệm riêng, cảm xúc thơ được đúc kết thành triết lí (các câu sau); phép điệp (nhớ / nhớ), phép đối xứng (khi ta ở – khi ta đi), câu hỏi tu từ (nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương?) khiến đoạn thơ có sức truyền cảm và súc tích như một châm ngôn.
3. So sánh (1,0 điểm)
– Điểm tương đồng: Hai đoạn thơ đều bộc lộ nỗi nhớ tha thiết, bồi hồi, sâu lắng về thiên nhiên và con người Tây Bắc.
– Điểm khác biệt: đoạn thơ trong bài Tây Tiến bộc lộ nỗi nhớ cụ thể của người trong cuộc, toát lên vẻ hào hoa, lãng mạn, hình ảnh thơ nghiêng về tả thực trực quan; còn đoạn thơ trong bài Tiếng hát con tàu là tình cảm nhớ thương đã được nâng lên thành quy luật của tâm hồn, hình ảnh thơ nghiêng về khái quát và tượng trưng, chứa đựng vẻ đẹp trí tuệ.
Câu III.a Vì sao tấm lòng của nhân vật quản ngục dược ví như “một âm thanh trong trẻo”? (3,0 điểm)
1. Giới thiệu vài nét về tác giả và tác phẩm (0,5 điểm)
Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời say mê cái đẹp, nhất là cái đẹp của tài hoa và nhân cách; là ngòi bút bậc thầy với phong cách sắc sảo, uyên bác, tài hoa.
– Chữ người tử tù được coi là kiệt tác của Nguyễn Tuân trong tập Vang bóng một thời.
Truyện viết về cuộc gặp gỡ lạ lùng giữa Huấn Cao và quản ngục, môi nhân vật là hiện thân cho một vẻ đẹp cao quí trong đời.
2. Về nhân vật quản ngục (1,5 điểm)
– Về vị thế, nhân vật quản ngục là đại diện cho bộ máy cai trị của triều đình mục nát, phải sống giữa một môi trường là thế giới nhà tù ô trọc, với chức phận cai quản và trừng phạt tù nhân.
– Về phẩm chất, nhân vật quản ngục lại là “một tấm lòng trong thiên hạ”: tâm hồn thuần khiết, tính tình ngay thẳng, biết quý trọng phẩm giá con người, có sở thích cao quý, đặc biệt là có “tấm lòng biệt nhỡn tài”… .
3. Ý nghĩa của hình ảnh so sánh (1,0 điểm)
– Là hình ảnh súc tích, tạo ra sự đối lập sắc nét giữa trong với đục, thuần khiết với ô trọc, cao quý với thấp hèn; giữa cá thể nhỏ bé, mong manh với thế giới hỗn tạp, xô bồ.
– Là hình ảnh so sánh hoa mĩ, đắt giá, gây ấn tượng mạnh, thể hiện một sự khái quát nghệ thuật sắc sảo, tinh tế giúp các tác giả làm nổi bật và đề cao vẻ đẹp của tâm hồn nhân vật. Là chi tiết nghệ thuật mang đậm dấu ấn phong cách tài hoa của Nguyễn Tuân.
Câu III.b Vì sao nhân vật bà Hiền dược gọi là “hạt bụi vàng của Hà Nội”? (3,0 điểm)
l. Giới thiệu vài nét về tác giả và tác phẩm
Nguyễn Khải là nhà văn xông xáo, nhạy bén với những vấn đề thời sự, có khả năng phân tích tâm lí sắc sảo; ở giai đoạn đổi mới, ông đặc biệt quan tâm đến số phận cá nhân trong cuộc sống đời thường; giọng văn đôn hậu, trầm lắng, nhiều chiêm nghiệm.
– Một người Hà Nội là tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Khải giai đoạn đổi mới, thể hiện những cảm nhận sâu sắc về vẻ đẹp và chiều sâu văn hóa của người Hà Nội qua nhân vật bà Hiền.
2. Xem câu 3b phần II, đề 19 của Đề thi đại học 2005 – khối D.
ĐỀ THI ĐẠI HỌC MÔN VĂN ĐỀ 22
ĐỀ THI TUYỂN SINH ĐẠI IIỌC, KHỐl D NĂM 2009
Môn thi Ngữ Văn (khối D)
(Thời gian làm bài: 180 phút)
I. PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ CÁC THÍ SINH (5,0 ĐIỂM)
Câu I. (2.0 điểm)
Một trong những đặc điểm cơ bản của nền văn học Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975 là chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Anh (chị) hãy nêu rõ nét chính đặc điểm trên.
Câu II. (3,0 điểm)
Hãy viết một bài văn ngắn (không quá 600 từ) trình bày suy nghĩcủa anh (chị) về ý kiến sau: “Một người đã đánh mất niềm tin vào bản thân thì chắc chắn sẽ còn đánh mất thêm nhiều thứ quý giá khác nữa”.
(Theo sách Dám thành công – Nhiều tác giả, NXB Trẻ, 2008, tr.90)
PHẦN RIÊNG(5,0 ĐIỂM)
Thí sinh chỉ được làm một trong hai câu (câu III.a hoặc III.b)
Câu III.a Theo chương trình Chuẩn (5,0 điểm)
Phân tích hình ảnh thiên nhiên và cái tôi trữ tình trong đoạn thơ sau:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại .
Cho hương đừng bay đi.
Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lả của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Tôi sung sướng, Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
. (Vội vàng Xuân Diệu, Ngữ văn 11,
Tập hai, NXB Giáo dục, 2008, tr.22)
Câu III.bTheo chương trình Nâng cao (5,0 điểm)
Phân tích tình huống truyện trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu.
BÀI GIẢI GỢIÝ
Câu I. Đề yêu cầu trình bày một trong ba đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam từ 1945 đến 1975, đó là đặc điểm thứ ba in trong văn bản sách giáo khoa Ngữ văn 12: khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Thí sinh cần nêu được một số ý sau:
– Khái niệm văn học theo khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn: Khái niệm này được hiểu từ hai đặc điểm đầu tiên của thời kì văn học này.
+ Trong chiến tranh giải phóng dân tộc, lợi ích của cộng đồng là thiêng liêng nhất và được đặt lên trên hết; mọi người sẵn sàng hi sinh quyền lợi cá nhân, thậm chí cả mạng sống của mình.
+ Cuộc sống thời chiến và những ngày đầu xây dựng CNXH vô cùng gian nan nhưng đầy phấn khởi; con người luôn sống với lí tưởng và tương lai tất thắng của cách mạng nên rất lạc quan, tạo cho cơ sở cảm hứng lãng mạn trong văn học kháng chiến và cách mạng.
– Một số nét chính của đặc điểm trên:
+ Đề tài: mang tính cộng đồng, trả lòi cho vấn đề sống còn của dân tộc.
+ Nhân vật chính diện: đại diện cho lợi ích và phẩm chất của cộng đồng gắn liền với số phận của mình với cộng đồng.
+ Giọng điệu, văn phong: ngôn ngữ hào sảng, trang nghiêm, thể hiện sự ngưỡng mộ, ngợi ca người anh hùng. Tinh thần lạc quan quán xuyến, tránh nói đến mất mát hi sinh và thất bại.
– Hiệu quả của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, khuynh hướng này đã đáp ứng được yêu cầu phản ánh cuộc sống trong quá trình phát triển cách mạng; văn học thật sự góp phần to lớn cho chiến thắng của dân tộc trong hai cuộc kháng chiến trường kì và gian khổ.
Câu II: Đây là câu hỏi nghị luận xã hội, bàn về vấn đề của cuộc sống: sự cần thiết của niềm tin. Trình bày về vấn đề này trong khoảng 600 từ, thí sinh có thể có nhiều cách diễn giải, nhưng cần đảm bảo các yêu cầu chính về đề tài như sau:
– Niềm tin vào bản thân: là niềm tin cần thiết nhất trong tất cả các niềm tin, bởi nền tảng của thành công thật sự là bền vững là chỉ có thể dựa vào chính mình chứ không phải vào cái gì khác.
– Đánh mất niềm tin vào bản thân là đánh mất tất cả, trong đó có những thứ quý giá nhất như cơ hội, hạnh phúc, tình yêu,… Cuộc sống muôn màu muôn vẻ, đầy đủ vị ngọt ngào lẫn đắng cay, hạnh phúc và cả thất vọng. Con người tin yêu vào cuộc sống, tin vào sức mạnh của mình tất yếu sẽ biết đón nhận và vượt qua khó khăn để đến bờ thành công và hạnh phúc.
Câu III.a: Thí sinh cần xác định rõ hai đối tượng cần phân tích trong đoạn trích, đó là 1. hình ảnh thiên nhiên và 2. cái tôi trữ tình. Có thể nhập hoặc tách riêng hai đối tượng trong qua trình phân tích. Sau đây là gợi ý cách làm theo cách tách riêng từng đối tượng.
– Hình ảnh thiên nhiên: Thiên nhiên trong bài thơ Vội vàng là:
– Một thiên nhiên mùa xuân trần thế: thiên nhiên này là một cõi thiên đường của màu sắc, hương vị, âm thanh, bề bộn và phong phú, cho ta thỏa thích ngắm nhìn và hưởng thụ, nhưng không phải là chốn bồng lai tiên cảnh mà là thiên nhiên trần thế, rất gần, ta chỉ với hai tay là ôm choàng lấy được. Làm rõ điều này bằng eách phân tích các từ “này đây” ở các vị trí khắp nơi trong các câu thơ.
+ Một thiên nhiên của mùa xuân tình yêu: bốn mùa của thiên nhiên đều tươi đẹp, nhưng đẹp nhất đối với tuổi trẻ, đó là thiên nhiên mùa xuân trong con mắt kẻ đang yêu say đắm. “Ong bướm” là của “tuần tháng mật”, hoa, lá đang độ “xanh rì”, “yến anh” đang say trong “khúc tình si”,… một mùa xuân “ngon như một cặp môi gần”.
– Cái tôi trữ tình:
+ Cảm nhận về cái đẹp: thiên nhiên mơn mởn đẹp đẽ ấy khôngphải do thi sĩ làm nên, mà có từ bao đời nay, như chỉ khi “nhìn cuộc đời bằng con mắt xanh non” thì con người mới phát hiện ra vẻ đẹp huy hoàng ấy. Cặp mắt xanh non ấy là của thi sĩ Xuân Diệu, người đã hóa thân thành cái tôi trữ tình trong bài thơ. Bài thơ mở ra với sự hiện diện của một cái tôi trữ tình đang đứng giữa đất trời trong buổi thanh xuân của cuộc đời, trong tuổi thanh tân của thiên nhiên mùa thứ nhất trong năm. Nhân vật trữ tình ngơ ngác và sung sướng phát hiện vẻ đẹp của thiên nhiên.
+ Cảm nhận về thời gian: cảm nhận về thời gian luôn là mối rung động xôn xao nhất của Xuân Diệu, thể hiện rõ trong bốn câu đầu trong bài thơ Vội vàng. Nhân vật trữ tĩnh xuất hiện với một ý muốn ngông cuồng: muốn dừng thời gian lại: tắt nắng, buộc gió. Trước cảnh đẹp say lòng và cảm thức về thời gian đang trôi, nhân vật trữ tình thể hiện . sự băn khoăn nuối tiếc đầy nhạy cảm: “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa; Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”. Chú ý phân tích cú pháp bất thường của câu thơ và âm hưởng hẫng hụt của ý thơ trong 2 câu cuối này.
– Hình ảnh thiên nhiên và hình ảnh cái tôi trữ tình hòa quyện vào nhau, thấm đẫm chất Xuân Diệu: nồng nàn đắm say, nặng lòng với trần thế.
Câu III.b
1. Giới thiệu chung
– Sau 1975, Nguyễn Minh Châu quan tâm tiếp cận ở góc độ thế sự. Ông là một trong những cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi mới.
– Nguyễn Minh Châu sáng tác truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa năm 1983. Trong tác phẩm này, nhà văn đã xây dựng được một tình huống truyện mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống.
2. Phân tích tình huống truyện
a. Tình huống truyện .
– Nghệ sĩ Phùng đến một vùng ven biển miền Trung chụp một tấm ảnh cho cuốn lịch năm sau. Anh thấy cảnh chiếc thuyền ngoài xa, trong làn sương sớm, đẹp như tranh vẽ. Phùng nhanh chóng bấm máy, thu lấy một hình ảnh không dễ gì gặp được trong đời.
– Khi chiếc thuyền vào bờ, Phùng thấy hai vợ chồng hàng chài bước xuống. Anh chứng kiến cảnh người chồng đánh vợ, đứa con ngăn bố. Những ngày sau, cảnh dó lại tiếp diễn, Phùng không ngờ sau cảnh đẹp như mơ là bao ngang trái, nghịch lí của đời thường.
b. Các nhân vật với tình huống
– Tình huống truyện được tạo nên bởi nghịch cảnh giữa vẻ đẹp chiếc thuyền ngoài xa với cái thật gần là sự ngang trái trong gia đình thuyền chài. Gánh nặng mưu sinh đè trĩu trên vai cặp vợ chồng. Người chồngtrở thành kẻ vũ phu. Người vợ vì thương con nên nhẫn nhục chịu đựng sự ngược đãi của chồng mà không biết mình đã làm tổn thương tâm hồn đứa con. Cậu bé thương mẹ, bênh vực mẹ, thành ra căm ghét cha mình.
— Chánh án Đẩu tốt bụng nhưng lại đơn giản trong cách nghĩ. Anh khuyên người đàn bà bỏ chồng là xong, mà không biết bà cần một chỗ dựa kiếm sống và nuôi con khôn lớn.
c. Ý nghĩa khám phá, phát hiện của tình huống
— Ở tình huống truyện này, cái nhìn và cảm nhận của nghệ sĩ Phùng, chánh án Đẩu là sự khám phá, phát hiện sâu sắc về đời sống và con người.
— Đẩu hiểu được nguyên do người đàn bà không thể bỏ chồng là vì những đứa con. Anh vỡ lẽ ra nhiều điều trong cách nhìn nhận cuộc sống.
— Phùng thấy chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, còn sự thật cuộc đời thì ở rất gần. Câu chuyện người đàn bà ở Tòa án huyện giúp anh hiểu rõ hơn cái có lí trong cái tưởng như nghịch lí ở gia đình thuyền chài. Anh hiểu thêm tính cách Đẩu và hiểu thêm chính mình.
3. Kết luận
Tình huống truyện Chiếc thuyền ngoài xa có ý nghĩa khám phá, phát hiện về sự thật đời sống, một tình huống nhận thức.
— Tình huống truyện này đã nhấn mạnh thêm mối quan hệ gắn bó giữa nghệ thuật và cuộc đời cho sáng tạo nghệ thuật, đồng thời còn dặt ra mối quan hệ giữa người lãnh đạo (chánh án Đẩu) với nhân dân (người đàn bà làng chài). Qua đó, khẳng định cái nhìn đa diện, nhiều chiều về đời sống, gợi mở những vấn đề mới của xã hội Việt Nam sau khi thống nhất đất nước.
Theo “Tuổi trẻ Online”
ĐỀ THI ĐẠI HỌC MÔN VĂN ĐỀ 23
TUYỂN SINH CAO ĐẲNG 2009
MÔN: NGỮ VĂN (KHỐI C, D)
PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH (5.0 ĐIỂM)
Nêu hoàn cảnh ra đòi và giải thích ý nghĩa nhan đề truyện ngắn Vợ nhặt, của Kim Lân
Câu II(3,0 điểm) .
Hãy viết một bài văn ngắn (không quá 600 từ) trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến sau:
Một ngày so với một đời người là quá ngắn ngủi, nhưng một đời người lại là do mỗi ngày tạo nên.
(Theo sách Nguyên lí của thành công, NXB Văn hoá Thông tin, 2009, tr.91)
PHẦN RIÊNG(5.0 ĐIỂM)
Thí sinh chỉ được làm một trong hai câu (câu III.a hoặc III.b)
Câu III.a. Theo chương trình Chuẩn (5,0 điểm)
Anh (chị) hãy phân tích những đặc sắc nghệ thuật trong truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân.
BÀI GIẢI GỢI Ý
Câu I(2,0 điểm)
Hoàn cảnh ra đời:
Trước đó, truyện ngắn “Vợ nhặt” có tên là “Xóm ngụ cư”. Tác phẩm được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, nhưng còn dang dở và mất bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại (1945), Kim Lân dựa vào cốt truyện cũ và viết truyện này.
Ý nghĩa tựa đề:
Tựa đề “Vợ nhặt” có rất nhiều ý nghĩa. Là một tựa đề lạ, tạo sự chú ý, tò mò, lôi cuốn đối với người đọc, góp phần mang lại ý vị sâu xa cho chủ đề của truyện. Xưa nay, người ta nhặt đồ vật, hàng hóa chứ không nói là nhặt vợ. Thế mà anh Tràng tự nhiên “nhặt” được vợ thì quả là chuyện bất ngờ, lí thú.
Tựa đề này, Kim Lân còn nói lên một cách cay đắng về thân phận bi thảm của người nông dân lao động trong những năm bốn mươi, bị thực dân Pháp, phát xít Nhật bóc lột, áp bức thậm tệ… đến nỗi thân phận con người giống như là một thứ đồ vật nhỏ bé đến nỗi người vợ mà người ta có thể nhặt một cách dễ dàng như nhặt một đồ vật bị ại đó đánh rơi.
Câu II(3,0 điểm) – Nghị luận xã hội
Đề yêu cầu trình bày một triết lí nhân sinh về thời gian của đời người, qua đó thấy được giá trị của mỗi khoảnh khắc cuộc sống. Ý kiến được rút ra từ sách Nguyên lí của thành công, nhan đề sách có thể gợi ý nhiều điều. Có thể tham khảo một số ý sau đây:
1. Giải thích ý kiến: một đời người thường được tính bằng năm, được quy ra thành thời gian tháng, ngày. Vậy là một đơn vị nhỏ của đời người, đơn vị ấy xếp kế tiếp nhau, tạo nên dòng thời gian của một đời người.
2. Suy nghĩ về ý kiến:
+ Đời người vừa ngắn (mỗi ngày) vừa không ngắn (chuỗi ngày). Sự thành công của con người nhiều khi phụ thuộc rất nhiều về cách ta quan niệm về thời gian.
+ Mỗi ngày qua đi rất nhanh, tức đời người đang đi qua trong mỗi khoảnh khắc. Con người cần biết tận dụng mỗi khoảnh khắc đó để cuộc đời trôi qua không hoài phí.
3. Rút ra bài học: Nguyên lí của sự thành công chính là biết quý trọng thời gian, biến mỗi ngày ngắn ngủi thành giá trị của cả đời người.
Câu III.a Theo chương trình chuẩn(5,0 điếm)
– Giới thiệu Xuân Quỳnh và bài thơ Sóng:
– Xuân Quỳnh là một trong những số nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì chống Mĩ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành, đằm thắm và luôn da diết về khát về hạnh phúc đời thường. Sóng được sáng tác ngày 29-12-1967 trong chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình), là một bài độc đáo về tình yêu, rất tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh. Bài thơ in trong tập Hoa dọc chiến hào (1968).
– Nội dung chính: Toàn bộ bài thơ đã thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người khát khao yêu thương:
+ Tâm hồn đầy những trạng thái phức tạp, bí ẩn khi Dữ dội và dịu êm – Ôn ào và lặng lẻnhưng cũng biết khao khát vươn lên thể hiện cái lớn lao của tình yêu khi: Sóng không hiểu nổi mình – Sóng tìm ra tận bể.
– Khát vọng tình yêu ấy cũng là khát vọng muôn đời của nhân loại mà mãnh liệt nhất là của tuổi trẻ. Cũng như sóng, nó mãi mãi trường tồn, vĩnh hằng với thời gian: Ôi con sóng ngày xưa — Và ngày sau vẫn thế – Nỗi khát vọng tình yêu – Bồi hồi trong ngực trẻ.
+ Tâm hồn chân thành, tha thiết trong tình yêu: Trước muôn trùng sóng bể – hình ảnh thơ mang lại những suy nghĩ về siêu hình, triết lí về thân phận lẻ loi, nhỏ bé của con người trước vũ trụ bao la, về sự hữu hạn của đời người so với sự vô hạn của trời đất. Nhưng người phụ nữ khát khao yêu thương chỉ đăm đắm một điều gần gũi: tình yêu. Cho nên, nhà thơ chỉ: Em nghĩ về anh, em.
+ Người phụ nữ băn khoăn về khởi nguồn của tình yêu và bộc bạch một cách hồn nhiên, chân thành sự bất lực không lí giải được câu hỏi muôn đời ấy trong tình yêu: Em cũng không biết nữa – Khi nào ta yêu nhau. Đây là một cách cắt nghĩa về tình yêu rất Xuân Quỳnh, một cách cắt nghĩa rất trữ tình, rất trực cảm.
+ Yêu thương nên nhung nhớ – nỗi nhớ của một trái tim đang yêu được Xuân Quỳnh diễn tả thật mãnh liệt: nhớ thường trực cả khi thức, khi ngủ, bao trùm lên cả không gian; nhớ cồn cào, da diết, không thể nào yên, không thể nào nguôi. Nó cụồn cuộn dào dạt như những đợt sóng biển triền miên, vô hồi, vô hạn; nhịp thơ trong suốt bài thơ này là nhịp sóng, nhưng rõ nhất là ở đoạn thơ này: Con sóng dưới lòng sâu – Con sóng lên mặt nước – Ôi con sóng nhớ bờ – Ngày đêm không ngủ được.
Hình tượng sóng và em bổ sung đắp nghĩa, đắp đổi cho nhau nhằm diễn tả sâu sắc hơn, ám ảnh hơn tình yêu và nỗi nhớ, cùngvới lòng thủy chung vô hạn của một trái tim đang rạo rực yêu thương. Nỗi nhớ được diễn tả qua hình tượng con sóng nhớ bờ: “Ngày đêm không ngủ được”, vẫn chưa đủ, chưa thỏa lại một lần nữa được thể hiện qua nỗi nhớ trực tiếp: “Lòng em nhớ đến anh – Cả trong mơ còn thức”. Nỗi nhớ ấy không chỉ tồn tại trong ý thức mà còn len lỏi vào trong tiềm thức, đi vào cả trong giấc mơ.
+ Yêu thương và chung thủy nên lúc nào cũng: Hướng về anh một phương dù trong hoàn cảnh nào xuôi về phương bắc hay ngược về phương nam. Trời đất có bốn phương, tám hướng nhưng với “em” chỉ có một phương là “anh”. Ý thơthật mới, thật táo bạo.
+ Yêu thương tha thiết, mãnh liệt nhưng cũng tỉnh táo nhận thức dự cảm những trắc trở, thử thách trong tình yêu; đồng thời cũng tin tưởng vào sức mạnh tình yêu sẽ giúp người phụ nữ vượt qua thử thách đến với bến bờ hạnh phúc. Sóng sẽ đến bờ, áng mây nhỏ bé sẽ vượt qua biển rộng để bay về xa. Một loạt hình ảnh ẩn dụ được bố trí thành một hệ thông tương phản, đối lập để nói lên cảm nhận và niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của tình yêu.
+ Yêu thương dữ dội nhưng cao thượng, vị tha. Nhân vật trữ tình khao khát hòa con sóng nhỏ của mình vào biển lớn tình yêu — để sống hết mình cho tình yêu – để tình yêu riêng hóa thân vĩnh viễn thành tình yêu muôn thuở: Làm sao được tan ra – Thành trăm con sóng nhỏ – Giữa biển lớn tình yếu – Để ngàn năm còn vỗ.
– Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong bài thơ được thể hiện qua những yếu tố nghệ thuật đặc sắc: âm điệu như nhịp sống thể hiện nhịp tâm hồn, nhịp tình cảm trong tâm hồn người phụ nữ, hình tượng sóng, hình tượng trung tâm, xuyên suốt bài thơ với đủ mọi sắc thái, cung bậc như tâm hồn người phụ nữ đang yêu; sự kết hợp hài hòa giữa hình tượng sóng và em, tuy hai là một, có lúc phân chia, có lúc lại hòa nhập để nói lên những nét, những phương diện phong phú, phức tạp, nhiều khi mâu thuẫn nhưng thống nhất trong tâm hồn người con gái đang yêu.
– Qua hình tượng sóng, trên cơ sở khám phá sự tương đồng, hòa hợp giữa sóng và em, bài thơ diễn tả tình yêu của người phụ nữ thiết tha, nồng nàn, chung thủy, muốn vượt lên thử thách của thời gian và sự hữu hạn của đời người. Sóng là một bài thơ tình yêu rất tiêu biểu cho tư tưởng và phong cách thơ Xuân Quỳnh ở giai đoạn đầu. Một bài thơ gợi cảm, duyên dáng, vừa hồn nhiên, trong sáng, vừa ý nhị, sâu xa.
Câu III.b Theo chương trình nâng cao(5,0 điểm)
– Yêu cầu: Làm rõ những nét đặc sắc nghệ thuật (chứ không phải nội dung) truyện ngắn Chữ người tử tù, qua nghệ thuật ấy cho thấy hiệu quả ý nghĩa của tác phẩm cũng như phong cách nghệ thuật của tác giả Nguyễn Tuân
– Phân tích: Nghệ thuật đặc sắc trong truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân.
l. Nghệ thuật tạo dựng tình huống:
Nghệ thuật này tạo nên kịch tính và sự hấp dẫn cho cốt truyện. Tác giả chọn một hoàn cảnh oái oăm, để cho ba nhân vật với những số phận và xu hướng chính trị khác nhau gặp nhau, buộc họ phải tìm ra cách ứng xử và bộc lộ đầy đủ tính cách của mình. Những con người đó có những điểm tương đồng là yêu cái đẹp, trọng cái “thiên lương” nhưng ở hai vị thế kẻ tử tù và ngục quan, luôn va chạm với nhau trong một tình huống bất thường.
2. Nghệ thuật khắc họa tính cách:
– Bút pháp của chủ nghĩa lãng mạn trong việc khắc họa tính cách nhân vật: Nhân vật trong tác phẩm Chữ người tử tù mang đậm dấu ấn của chủ nghĩa lãng mạn, cho nên có nhiều yếu tố phi thường, được tô vẽ theo ý đồ chủ quan của tác giả. Điều này thể hiện trước hết qua nhân vật Huấn Cao, một con người đi ra từ nguyên mẫu Cao Bá Quát đã được huyền thoại hóa, vừa hào hoa, vừa anh hùng. Để làm nổi bật tính cách khác người ấy của Huấn Cao, tác giả sử dụng một cách đầy hiệu quả các nghệ thuật cường điệu (tiếng đồn về “tài bẻ khóa vượt ngục” của người tù, sự nhún nhường quá mức của cai ngục…). Tính cách của viên cai ngục và thầy thơ lại cũng được phác họa thành công theo hướng đó.
– Nghệ thuật “vẽ mây, nảy trăng” trong việc khắc họa tính cách nhân vật. Nguyễn Tuân khống miêu tả, trần thuật trực tiếp nhiều khía cạnh trong tác phẩm, mà để những điều đó hiện lên gián tiếp qua thái độ, sự đánh giá của các nhân vật.
3. Cách tạo không khí cổ xưa cho câu chuyện: cảnh đề lao, hình dáng, ngôn ngữ các nhân vật của thiên truyện đều mang dáng dấp của cảnh vật và con người thời xưa. Giọng điệu, cách xưng hô cũng rất cổ kính với nhiều từ Hán Việt. Diễn biến câu chuyện cũng như nhịp điệu sông của người xưa.
– Hiệu quả của các biện pháp nghệ thuật ấy; phần này có thể viết trong khi phân tích phần trên, cho thấy ý nghĩa nội dung tác phẩm được nâng cao, đầy tính thẩm mĩ.
– Nhận xét về phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân: những biện pháp nghệ thuật trên khẳng định tài hoa và uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân.
Các đề khác
Đề thi và đáp án 1
Đề thi và đáp án 2
Đề thi và đáp án 3
Đề thi và đáp án 4
>> CÒN NHIỀU BÀI VĂN HAY NỮA! CLICK VÀO ĐÂY ĐỂ XEM THÊM NHA<<
Leave a Reply