>> CÁC BẠN CLICK VÀO ĐÂY ĐỂ LỰA CHỌN NHỮNG BÀI VĂN HAY NỮA NHÉ <<
THỰC HIỆN MỘT BÀI VĂN KỂ CHUYỆN HOÀN CHỈNH
I. Yêu cầu của bài TLV kể chuyện:
Trong phần luyện tập, các em đã được học về cách viết từng phần của một bài văn kể chuyện (Mở bài: mở đầu câu chuyện; Thân bài: diễn biến câu chuyện; Kết luận: kết thúc câu chuyện). Các em đã luyện tập cách xây dựng tính cách nhân vật, tả nhân vật truyện. Từng bước xây dựng diễn biến truyện, phát triển diễn biến để tạo thành cốt truyện. Bài TLV kể chuyện là bước cuối cùng: dựa vào cốt chuyện đã xây dựng (hoặc sẵn có, hoặc chứng kiến, tham gia), các em kể lại câu chuyện ấy.
Yêu cầu của bài TLV kể chuyện:
– Trình bày chuyện kể bằng lời văn của các em theo dàn bài cơ bản văn kể chuyện. Các em kể lại đúng thứ tự diễn biến câu chuyện theo trình tự không gian hoặc thời gian. Trong khi kể, các em tả ngoại hình nhân vật, tính cách nhân vật và cần mô tả sinh động, hấp dẫn các tình tiết diễn ra trong truyện. Các em kể chuyện bằng lời văn của mình thể hiện nhận thức, cảm xúc của các em về câu chuyện chứ không sao chép nguyên văn truyện kể.
– Cần viết câu ngắn gọn, mạch lạc, chấm câu đúng và viết đúng chính tả.
– Bám sát yêu cầu đề bài, tránh lan man, lạc đề.
Phần 2 này giúp các em hệ thống hoá lại tiến trình làm bài và hướng dẫn các em phương pháp làm một bài tập làm văn kể chuyện cơ bản cũng như các bài TLV kể chuyện sáng tạo, phong phú khác.
Phần 2 cũng cung cấp cho các em các bài mẫu của từng dạng văn kể chuyện.
II. Phương pháp thực hiện một bài văn TLV kể chuyện:
Các em dựa vào dàn bài cơ bản văn kể chuyện (Phần 1) để thực hiện bài văn viết theo yêu cầu đề bài. Để viết một bài TLV kể chuyện, các em tuần tự làm các bước sau:
Bước 1: Đọc kĩ đề, phân tích yêu cầu đề bài.
– Đọc kĩ đề bài, gạch dưới mệnh lệnh đề ra (là các từ: kể, viết tiếp, hãy tưởng tượng và kể, thay lời nhân vật, đóng vai, phát triển…); xác định vị trí nhân xưng khi kể chuyện.
Mệnh lệnh đề bài giúp các em nhận dạng hình thức kể chuyện thuộc dạng nào: văn kể chuyện cơ bản hay văn kể chuyện sáng tạo.
– Ở văn kể chuyện cơ bản: các em là người dẫn chuyện.
– Ở văn kể chuyện sáng tạo: các em có thể là nhân vật trong truyện, kể chuyện theo lời kể của một trong các nhân vật trong truyện, các em xây dựng cốt truyện riêng theo cốt truyện cơ bản kết hợp với trí tưởng tượng của chính các em.
Việc phân biệt được dạng văn nào rất quan trọng vì các em sẽ thực hiện bài viết của mình đúng vị trí nhân xưng dẫn chuyện theo đề bài yêu cầu.
Bước 2: Nắm vững nội dung câu chuyện kể
– Câu chuyện kể thuộc loại gì? (Truyện cổ tích, truyện theo chủ đề, truyện đã nghe thầy cô giáo kể, truyện trong chương trình học…).
Các em tìm đọc nội dung truyện kể đó.
– Nội dung câu chuyện sắp kể có thể được thể hiện bằng một đoạn kịch, một bài thơ. Các em phải nắm vững nội dung đoạn kịch, bài thơ đó.
– Câu chuyện sắp kể là một chuyện thực tế (các em chứng kiến hay tham gia).
Các em ghi lại diễn biến các sự việc đã xảy ra theo trình tự thời gian hoặc không gian.
Bước 3: Lập bàn bài chi tiết.
Dựa vào dàn bài cơ bản văn kể chuyện, lập bàn bài chi tiết theo đề bài cho:
– Mở đầu câu chuyện: nơi chốn, thời gian xảy ra câu chuyện. Giới thiệu nhân vật chính của truyện.
– Diễn biến câu chuyện:
Thứ tự thời gian Nhân vật Sự việc
Ghi theo câu chuyện Ghi từng nhân vật Ghi từng sự việc
– Kết thúc câu chuyện: kết quả các sự việc diễn ra như thế nào? Nêu nhận định, cảm xúc của em về câu chuyện.
Bước 4: Trình bày bài viết.
– Mở đầu (mở đầu câu chuyện): vận dụng mở bài trực tiếp hoặc mở bài gián tiếp để giới thiệu câu chuyện định kể.
– Thân bài (diễn biến câu chuyện): kể lại câu chuyện theo diễn biến câu chuyện, các tình tiết của truyện theo trình tự không gian hoặc thời gian.
– Kết luận (kết thúc câu chuyện): vận dụng kết bài mở rộng hoặc kết bài không mở rộng để kết thúc bài văn.
Lưu ý quan trọng:
Các em cần phân biệt môn kể chuyện với tập làm văn kể chuyện. Toàn bộ bài làm về chuyện kể trong tập sách này là tập làm văn kể chuyện. Tác giả soạn theo chủ đề nhằm cung cấp tư liệu cho các em làm văn, chương trình bắt buộc là các bài trong sách Tiếng Việt (cũng được soạn trong tập sách này).
CÁC DẠNG VĂN KỂ CHUYỆN Ở LỚP 4 VÀ CÁC BÀI VĂN MẪU
Dạng I: TLV kể chuyện cơ bản
1. Kể chuyện đã biết, nghe, đọc, học trong chương trình hoặc nghe thầy cô giáo kể bao gồm:
– Kể chuyện cổ tích (các loại truyện cổ tích có trong chương trình hoặc tìm đọc thêm).
– Kể chuyện theo chủ đề: chuyện chủ đề ở lớp 4 chủ yếu tuân theo chủ điểm tuần học, dựa vào các bài tập đọc và chuyện kể trong phân môn kểchuyện. Bao gồm:
a) Chủ đề về lòng nhân hậu, trung thực, kiên trì, quả cảm (xảy ra trong thực tế và trong truyện kể).
b) Chủ đề về ước mơ (xảy ra trong thực tế và trong truyện kể)
* Ước mơ tốt đẹp.
* Ước mơ viển vông, phi lí.
c) Chủ đề về tuổi thơ.
d) Chủ đề về tài trí con người (truyện danh nhân, truyện cổ tích, truyện thực tế).
2. Kể chuyện đã chứng kiến hoặc tham gia (kể chuyện thực tế): xảy ra trong thực tế đời sống, (chuyện xảy ra này cũng thể hiện chủ đề và ý nghĩa nhất định).
Dạng II: TLV kể chuyện sáng tạo
Dựa vào cốt truyện cơ bản, các em hãy thay đổi nhân xưng dẫn chuyện để kể lại câu chuyện đó (hoá thân nhân vật, thay đổi thời gian, thay lời nhân vật, phát triển câu chuyện hướng đến kết thúc theo tưởng tượng, xây dựng cốt truyện trên tình huống và nhân vật cho sẵn…).
Lưu ý:
– Dạng văn kể chuyện là hình thức trình bày bài văn, nói cách khác là nghệ thuật trình bày bài văn kể chuyện.
– Chủ đề chuyện kể là ý nghĩa nội dung chuyện kể. Chủ đề chuyện kể thể hiện trong cả hai dạng văn kể chuyện.
CÁC BÀI VĂN MẪU DẠNG VĂN KỂ CHUYỆN
I. VĂN KỂ CHUYỆN CƠ BẢN
1. Kể chuyện đã nghe, đọc, biết, học trong chương trình hoặc nghe kể lại.
Văn kể chuyện đề 1: Dựa vào cốt truyện “Cây khế” đã sắp xếp lại ở sách Tiếng Việt 4, tập 1/ trang 43, em hãy kể lại câu chuyện ấy.
BÀI LÀM
Truyện cổ tích đem lại cho em bao màu sắc huyền thoại, được trở về xứ sở mà chim thú đều biết nói tiếng người. Trong truyện, những người nghèo khó, hiền lành đều được giúp đỡ, đền bù; những người tham lam như người anh trong câu chuyện “Cây khế ”dưới đây sẽ bị trừng phạt.
Ngày xưa, nhà nọ có hai anh em cha mẹ mất sớm để lại cho ruộng đất, nhà cửa tiền của. Khi chia gia tài, người anh chiếm giữ tất cả của cải chỉ để cho em trai túp lều có trồng cây khế.
Người em nhận phần gia tài được chia, hằng ngày ra công chăm sóc cây khế. Cây khế từ khi được người em chăm sóc,đơm hoa kết trái trĩu trịt khắp cành. Lòng mừng khấp khởi, người em chờ ngày khế chín để bán. Khế chưa được hái, một ngày nọ, có con chim lạ to lớn đuôi dài, lông sặc sỡ, mắt xếch, bay đến ăn hết khế chín. Người em than thở:
– Ta chỉ có cây khế làm kế sinh nhai, sao chim nỡ lòng ăn của ta vậy?
Lạ thay, chim cất giọng nói:
– Ăn khế trả vàng, may túi ba gang, mang đi mà đựng.
Nói rồi chim bay đi. Người em băn khoăn chẳng biết thế nào nhưng vốn tính thật thà nên y lời, may một cái túi ba gang, chờ đợi. Hôm sau,chim bay đến sà cánh cúi rạp cổ cho người em ngồi trên lưng rồi mang người em qua đồng ruộng, rừng thảm, sông dài đến đại dương mênh mông. Cuối cùng, chim đáp cánh xuống một hòn đảo đầy vàng và châu báu. Người em lấy vàng đầy túi ba gang rồi theo chim trở về nhà. Từ đó, người em trở nên giàu có.
Người anh hay tin gặng hỏi, người em thật thà kể rõ tất cả. Người anh đổi tấtcả ruộng vườn, nhà cửa của mình để lấy cây khế của người em. Người em bằng lòng.
Năm sau, đến mùa khế chín, con chim đẹp ấy lại đến ăn khế. Người anh than khóc. Chim cũng hẹn ăn khế trả vàng như đã hẹn với người em lúc trước. Người anh rắp tâm may sẵn một cái túi chín gang để lấy được nhiều vàng. Đúng hẹn chim chở người anh đến đảo vàng. Người anh ra sức nhét vàng đầy túi chín gang, còn lén chặt vàng vào quần áo trên người nữa rồi nặng nề leo lên lưng chim trở về. Chim bay qua đại dương mênh mông, đuối sức vì vàng người anh mang nhiều, nặng quá. Chim mấy lần chao cánh không giữ được thăng bằng. Mồi lúc, mỗi lúc cánh chim mỏi quá sà thấp xuống. Thế là người anh rơi tòm xuống biển sâu. Thật đáng đời kẻ tham lam.
Lòng tham không bao giờ đem đến cho con người hạnh phúc. Người anh đã thiệt mạng, hơn nữa còn bị chê cười. Loài chim đẹp ấy về sau được người đời gọi là chim Phượng Hoàng. Đó là con chim tiên đã cứu giúp người em nghèo khổ nhưng dễ thương thật thà, chịu thương, chịu khó.
Văn kể chuyện đề 2: Hãy kể lại một câu chuyện cổ tích mà em thích nhất (đã học, đã nghe kể, đã đọc).
BÀI LÀM
Mẹ thường kể cho em nghe nhiều truyện cổ tích. Mỗi chuyện mẹ kể đều lung linh ánh sáng huyền ảo, li kì, rực rỡ sắc màu của hoa lá, lấp lánh ánh bảy sắc cầu vồng. Chuyện lí thú đáng yêu như truyện “Chú mèo đi hia”, chuyện hiền hậu như truyện “Tấm Cám ”, chuyện cảm động và sâu sắc mà em thích nhất là “Truyện kể về cây hoa hồng”.
Ngày xưa, ở một xứ sở lạnh giá, tuyết phủ, xa nước ta lắm, có hai mẹ con chàng trai kia sống trong một căn nhà làm bằng gỗ đẹp. Làng quê của chàng sát chân núi, có rừng đầy nấm và quả thơm, cây xanh cao vút, chim muông ca hót tưng bừng. Mẹ chàng quay xuồng dệt vải còn chàng trai khỏe mạnh ấy trồng lúa,gặt hái ở cánh đồng xa.
Một ngày nọ, mẹ chàng ốm nặng. Chàng trai tạm hoãn mọi việc đồng áng để chăm sóc mẹ. Nhưng mẹ chàng ngày một bệnh nặng. Nhìn mẹ tái nhợt, thiêm thiếp bên giường, lòng chàng đau xót quá! Thần Mặt Trời gõ cửa nhà chàng chỉ đường cho chàng đi lên đỉnh núi tuyết để xin cây thuốc của bà Chúa Thiên thần. Thần Mặt Trời sẽ lái cỗ xe Mặt Trời đi chậm, giữ ngày dài để chàng đủ thời gian đem thuốc về cho mẹ. Chàng trai lập tức lên đường. Vượt qua rừng thông, thác cao, núi đá lởm chởm, gai góc, chàng đến xử sở tuyết phủ của các vị thiên thần. Quần áo chàng rách bươm, chân chàng rỉ máu. Máu chàng rơi trên sườn núi, nhỏ trên núi đá, trên tuyết trắng nhưng chàng vẫn lầm lũi tiến đến căn nhà bằng băng của bà Chúa thiên thần. Trời rét cắt da cắt thịt, chàng vẫn rạp mình dưới gió tuyết mà đi. Đôi bàn chân của chàng đau buốt, tưởng chừng như không lê được nữa thì cánh cửa nhà bà Chúa thiên thần xịch mở, bà dịu dàng nâng chàng dậy. Chàng trai đuối sức nhưng vô cùng mừng rỡ toan cất lời thưa thì bà Chúa thiên thần giơ cao một nhánh cỏ, bảo:
– Con thật biết yêu thương mẹ. Đây là cây thuốc cho mẹ con.
Cùng lúc ấy, bà Chúa thiên thần đưa cao chiếc đũa thủy tinh. Ánh sáng lấp lánh dìu chàng trai bay trên không. Chớp mắt, chàng đã về bên mẹ. Mặt Trời từ từ lặn sau cánh rừng. Đêm tĩnh mịch và sáng lấp lánh ngàn vì sao. Mẹ chàng đã uống thuốc, đang say ngủ. Chàng tựa vào ghế, thiếp đi sau một ngày đường mệt nhọc.
Bình minh ló rạng. Chim hót líu lo. Mẹ chàng thức dậy, tươi tỉnh như chưa hề đau ốm gì. Mẹ chàng ôm lấy chàng, vỗ về. Hai mẹ con nhìn qua cửa sổ: cánh rừng, sườn núi đá và cả xứ sở tuyết phủ nơi chàng đi qua với đôi chân rỉ máu chỗ ấy mọc lên những cây hoa đỏ thắm, đẹp lộng lẫy và hương thơm ngát. Người ta đặt tên cây hoa đó là hoa hồng, hoa kết tinh từ tình yêu của chàng trai dành cho mẹ.
Em cũng yêu mẹ em như chàng trai trong truyện. Em yêu những câu chuyện cổ tích mẹ kể hoài không hết. Em hạnh phúc vì luôn có mẹ bên cạnh. Vào ngày Quốc tế Phụ nữ mồng Tám tháng Ba, ngày của Mẹ, sinh nhật mẹ, em luôn kính tặng mẹ một đóa hoa hồng đo thắm và chùm điếm mười của em. Mẹ em lại kể em nghe chuyện về cây hoa hồng mà em nghe không bao giờ chán.
Văn kể chuyện đề 3: Em hãy kể lại chuyện “Dế Mèn bênh vực kẻ yếu” kết hợp tả ngoại hình nhân vật.
BÀI LÀM
Thoát khỏi cái lồng tù mà bọn trẻ bắt nhốt đồ chơi bao ngày, Dế Mèn tìm đường ra đất rộng, nơi có cỏ xanh bao la. Nằm cho hồi sức và suy nghĩ về cuộc đời lưu lạc tù đày vừa qua, Dế Mèn muốn đi đây đó cho biết sơn hà, bốn bể năm châu. Trước khi phiêu lưu khắp chốn. Dế Mèn muốn về lại quê nhà thăm mẹ. Nghĩ vậy, Dế Mòn nhún chân nhảy trên bờtìm đường về quê..
Đường về quê xa lắc xa lơ. Dế Mèn vừa đi vừa nghĩ, ăn cỏ dọc đường, uống nước sương, hóng gió núi. Cứ thế,đến một hôm Dế Mèn thấy một vùng cỏ xước xanh dài. Mới đi được vài bước. Dế Mèn nghe tiếng khóc tỉ tê, lần vài bước nữa, Dế Mèn gặp chị Nhà Trò ngồi gục đầu bên tảng đá cuội. Chị Nhà Trò gầy yếu quá. người đượm những phấn như mới lột. Chị mặc áo thâm dài, đôi chỗ chấm điểm vàng, hai cánh mỏng như cánh bướm non, lại yếu chùn chùn. Hình như cánh yếu quá, tưởng chừng như chưa mở mà bay xa lần nào. Nom chị yếu ớt, gầy như tia nắng chiều còn sót lại trên đồng. Dế Mèn ân cần hỏi:
– Sao em lại phải khóc giữa đường thế này?
Nhà Trò vừa nức nở vừa kể:
– Năm trước, gặp mùa đói kém, mẹ em phải vay lương ăn của bọn Nhện. Mẹ em nay đã mất rồi còn lại thui thủi một mình em. Em lại ốm yếu, ăn không đủ, đau ốm liên miên, nghèo túng không tra nổi nợ, bọn Nhện chặn đường đánh em mấy bận. Hôm nay chúng chăng tơ quyết bắt em, vặt chân vặt cánh ăn thịt em.
Động lòng thương xót, Dế Mèn xòe cả hai càng ra, bảo Nhà Trò:
– Em đừng sợ, hãy trở về cùng tôi đây. Đứa độc ác không thể cậy khỏe, ăn hiếp kẻ yếu.
Nói đoạn, Dế Mèn dắt Nhà Trò đi. Cả hai đi một quãng thì đến chỗ mai phục của bọn Nhện. Bọn Nhện chắc là tập trung hết lực lượng đây, không biết cơ man nào là nhện. Chúng giăng tơ che kín lối đi, lại cử một anh Nhện Gộc đứng sừng sững chặn giữa đường. Chúng đứng im như đá mà đằng đằng sát khí. Dế Mèn cất tiếng hỏi lớn:
– Ai đứng chóp bu bọn mày, ra đây ta nói chuyện.
Từ trong hốc đá. một mụ Nhện Cái cong lưng nhảy ra, hai bên có hai nhện vách nhảy kèm. Nom mụ nhện hung dữ như tay anh chị dao búa giang hồ. Dế Mèn quay phắt lưng, phóng càng đạp phanh phách ra oai. Mụ nhện hung hăng là thế co rúm đầu lại rồi cứ rập đầu xuống đất như cái chày giã gạo. Dế Mèn hét lớn:
– Các người có của ăn của để, béo múp míp sao lại hèn hạ, nhỏ nhen thế, cứ đòi mãi một tí nợ bé xíu từ bao đời, kéo bè mà uy hiếp một cô gái ốm yếu như thế này thật đáng xấu hổ. Có phá hết vòng vây không?
Bọn Nhện sợ hãi, dạ ran, chạy di chạy lại, phá hết các tơ giăng. Đường về tổ Nhà Trò thoáng chốc bình yên.
Hiệp sĩ Dế Mòn bắt đầu cuộc đời hành hiệp thế gian ngay nơi quê mẹ. Sau này. trên khắp nẻo đường phiêu lưu lắm gian nan nguy cấp. Dế Mèn còn ra tay cứu giúp và kêu gọi yêu thương giúp đỡ nhau trong thế giới loài côn trùng. Tiếng tăm hiệp sĩ Dế Mèn đến ếch cốm cả đời chẳng ra khởi nhà cũng biết tin. Dế Mèn không phải là chú dế bọn trẻ bắt chơi chọi, Dế Mèn mãi là Dũng sĩ nghĩa hiệp.
Văn kể chuyện đề 4: Em hãy kể lại câu chuyện “Nàng Tiên Ốc”, kết hợp tả ngoại hình nhân vật.
(Xem Tiết 2 – Tuần 2)
Văn kể chuyện đề 5: Em hãy kể lại câu chuyện “Đôi cánh của Ngựa Trắng” dựa vào tranh vẽ ở sách Tiếng Việt 4, Tập 2, trang 108 và lời thầy/ cô giáo kể.
BÀI LÀM
Mỗi loài có một khả năng riêng biệt cần rèn luyện, tu dưỡng và phát huy. Nếu cá thể trong loài ấy không nắm bắt được khả năng của mình thích ứngvới môi trường sống thế nào thì nhiều tai hại sẽ xảy ra. Câu chuyện “Đôi cánh của Ngựa Trắng” minh họa rõ ràng điều đó.
Chuyện kể rằng: ngày xưa có một chú Ngựa Trắng, trắng nõn nà như một đám mây. Mẹ chú yêu chiều chú lắm, lúc nào cũng giữ chú bên cạnh, còn dặn: “Con phải ở bên cạnh mẹ và hí to khi mẹ gọi nhé!”. Ngựa Mẹ gọi Ngựa Con suốt ngày. Tiếng ngựa con hí làm Ngựa Mẹ hạnh phúc nên Ngựa Mẹ chỉ dạy con hí vang hơn là luyện cho con vó phi dèo dai, đá hậu mạnh mẽ. Gần nhà Ngựa có Đại Bàng núi. Đại Bàng núi còn bé nhưng sải cánh đã vững vàng. Mỗi lúc nó liệng vòng, cánh không động, khẽ nghiêng bên nào là chao bên ấy, bóng cứ loang loáng trên mặt đất. Đại Bàng núi bay tài giỏi như một phi cơ chiến dấu điêu luyện thời nay. Ngựa Trắng ước ao được bay như Đại Bàng, chú nói:
– Anh Đại Bàng ơi! Làm sao để có cánh như anh ?
Đại Bàng núi cười:
– Phải đi tìm chứ, cứ quấn chặt lấy mẹ biết bao giờ mới có cánh.
Thế là Ngựa Trắng xin phép mẹ lên đường cùng Đại Bàng. Chưa trọn ngày đường. Ngựa Trắng thấy biết bao nhiêu là cảnh lạ. Trời mỗi lúc một tối, sao đã lấp lánh trên bầu trời. Ngựa Trắng thấy nơm nớp lo âu. Bỗng có tiếng “hú… ú… ú” mỗi lúc một một gần, rồi từ trong bóng tối hiện ra một gã Sói xám sừng sững dữ tợn. Ngựa Trắng mếu máo gọi mẹ. Sói xám cười man rợ và phóng đến.
– Ôi! – Tiếng Sói xám rống lên – Một cái gì từ trên cao giáng rất mạnh vào giữa trán Sói xám làm Sói ta hốt hoảng cúp đuôi chạy mất. Thì ra đúng lúc Sói vồ Ngựa, Đại Bàng núi từ trên cao đã lao tới kịp thời. Ngựa Trắng òa khóc, gọi mẹ. Đại Bàng núi dỗ dành:
– Nín đi! Anh đưa em về với mẹ!
– Nhưng mà em không có cánh – Ngựa Trắng thút thít.
Đại Bàng cười, chỉ vào đôi chân của Ngựa Trắng:
– Cánh của em đấy chứ đâu! Nếu phi nước đại em chạy như bay ấy chứ!
Đại Bàng núi sải cánh. Ngựa Trắng chồm lên. Bốn chân chú như bay trên không trung.
Loài Ngựa có bốn chân để phi nước đại nhưng chú Ngựa Trắng không hề biết điều ấy. Chú ta cũng chẳng được mẹ dạy dỗ đúng sở trường. Chỉ khi xông pha sương gió nguy cấp. Ngựa Trắng mới dược Đại Bàng chi cho biết khả năng chuyên biệt của mình. Câu chuyện nhắc nhở chúng em phải biết tự rèn luyện và phải biết học tập phát huy năng lực sẵn có của mình, đừng vì được bố mẹ nuông chiều mà không biết tự chủ bản thân.
Văn kể chuyện đề 6: kể lại câu chuyện “Nỗi dằn vặt của An-đrây-ca” em đã học ở tiết Tập đọc – Tuần 6.
BÀI LÀM
Ở nước Nga Xô Viết trước, có cậu bé An-đrây-ca lên chín tuổi, sống với mẹ và ông. Ông cậu đã chín mươi sáu tuổi nên rất yếu.
Vào một chiều ông trở mệt nặng, ông gọi mẹ An-đrây-ca: “Bố khó thở lắm!…”. Mẹ An-drây-ca liền bảo cậu đi mua thuốc cho ông. An-đrây-ca đi ngay. Chưa đến hiệu thuốc, cậu gặp một đám bạn đang chơi bóng. Các bạn rủ cậu cùng chơi. Quên bẵng việc đi mua thuốc, An-đrây-ca hòa mình vào đám bạn, hăng say dẫn bóng. Đội bóng tuy chỉ có mấy đứa bạn nhưng chơi rất vui. Chơi một lúc, chợt nhớ lời mẹ dặn, An-đrây-ca vội ba chân bốn cẳng đến cửa hàng mua thuốc rồi mang về nhà.
Bước vào phòng ông nằm, An-đrây-ca hốt hoảng thấy mẹ khóc nấc. Ông cậu đã qua đời. Chỉ vì mình mải chơi bóng, mua thuốc về chậm mà ông chết cậu hối hận nghĩ và òa khóc. An-đrây-ca kể hết mọi việc cho mẹ nghe, mẹ cậu an ủi:
– Không, con không có lỗi. Chẳng thuốc nào cứu nổi ông đâu. Ông đã mất từ lúc con mới bước chân ra khỏi nhà.
Riêng An-đrây-ca, tình yêu ông và nỗi day dứt giày xé tim cậu. Suốt đêm đó cậu nức nở dưới gốc cây táo do chính tay ông vun trồng. Sau này, khi đã lớn, mỗi lần nhớ ông, lòng cậu lại đau nhói: “Giá như mình mua thuốc về kịp thì ông còn sống được ít năm nữa.”
Em thông cảm, chia sẻ và tôn trọng nỗi đau của An-đrây-ca. An-đrây-ca là cậu bé có tấm lòng trung thực. Chuyện của An-đrây-ca cũng là một sự cảnh tỉnh em phải làm tròn công việc được giao để tránh sự áy náy, đau khổ trước kết quả không mong muốn.
Văn kể chuyện đề 7: Kho tàng truyện cổ Việt Nam có nhiều truyện đặc sắc. Em hãy kể một câu chuyện về một nhân vật cổ tích biết giúp đỡ bạn.
Lưu ý:
• Giới hạn đề: chỉ kể câu chuyện cổ tích Việt Nam.
BÀI LÀM
(Truyện “Bán tóc đãi bạn ”)
Thủy chung trong tình bạn là một đức tính tốt đẹp của con người. Để khuyên chúng em biết chân thật trong tình bạn, cô giáo kể cho chúng em nghe câu chuyện “Bán tóc đãi bạn”.
Ngày xưa, có ba người học trò tên là Hoà, Phụng, Loan quê ở ba miền khác nhau nhưng học cùng một lớp một thầy. Họ cô chung nhau một điểm là cả ba đều là con nhà nghèo khó. Họ đi học chơi thân với nhau và cùng hẹn ước nếu mai sau, trong số họ ai trở nên giàu có cũng không bao giờ được quên bạn thuở hàn vi.
Thế rồi, học chưa thành tài nhưng ba người mỗi người mỗi ngả. Trong số đó. Hòa may mắn nhất được một cụ đồ nuôi như con, hết lòng dạy dỗ. Nhờ đó, sau mấy năm sôi kinh nấu sử, anh thi đỗ tú tài và được bổ làm quan ở kinh đô. Được giàu sang sung sướng, Hòa vẫn nhớ bạn xưa. Một hôm, Hòa xin nghỉ việc công để đi tìm bạn. Hòa không muốn các bạn biết mình làm quan nên cải trang làm dân thường. Lần hỏi, Hòa tìm được nhà Phụng.
Riêng Phụng, từ ngày thôi học, Phụng đến làm thuê cho một phú ông. Thấy Phụng lanh lợi, dễ nhìn, có chút học vấn, phú ông gả con gái cho. Phụng cưới vợ giàu và được thừa hưởng gia tài của bố vợ sống sung túc. Nhưng Phụng là một người keo bẩn chẳng muốn mất cho ai đồng xu nào nên chẳng bận tâm gì việc thăm hỏi bạn xưa. Hòa gặp Phụng giàu có trong bụng rất mừng nhưng vẫn không cho bạn biết mình đang làm quan ở kinh đô. Còn Phụng, trong lòng chỉ sợ Hòa đến thăm mình để vay mượn nên lúc nào trò chuyện Phụng cũng đều than nghèo, kể khổ. Vợ Phụng muốn làm tiệc đãi bạn chồng. Vợ bắt cá, Phụng không cho. Vợ bắt gà thì Phụng bảo:
– Giờ Dậu không được giết gà. Bạn cũ tâm giao ăn gì chả được!
Chơi ở nhà Phụng được hai ngày, Hòa tìm đến nhà Loan. Nhà Loan nghèo khó, làm ăn thua lỗ, vợ yếu con đau. Loan được cha mẹ để lại cho ít sào ruộng cũng đã bán chữa bệnh cho con. Gặp Hòa, Loan mừng rỡ khôn xiết. Sau hồi hàn huyên tâm sự với Hòa, Loan gọi vợ, bảo:
– Đây là người bạn thân nhất hồi tôi còn đi học. Chúng tôi hơn mười năm mới gặp lại đó mình. Mình nhớ kiếm cái gì đãi bạn ấy nhé!
Vợ Loan vâng lời cắp rổ đi chợ. Giữa buổi chị đội về một rổ thức ăn nhưng đầu trùm khăn kín mít. Loan kéo vợ vào buồng thì thầm to nhỏ. Hòa ghé mắt nhìn vào và kinh ngạc nhìn thấy mái tóc xanh trên đầu vợ Loan không còn nữa. Hòa bèn hỏi vợ Loan vì sao nàng cắt tóc. Vợ Loan đành thú thực:
-Lúc sáng không có tiền, tôi hỏi mượn người quen nhưng không ai có. Nhân nhà hàng tóc muốn mua tóc, tôi có mái tóc dài nên bán đi. Mười năm nay bạn bè không gặp nhau, lẽ nào ngồi uống nước suông. Anh đừng ngại, cắt tóc đi thì mọc lại, lo gì!
Hòa hết sức xúc động. Anh cho bạn biết mình đã đỗ đạt làm quan. Rồi Hòa kể Loan nghe chuyện Phụng cư xử đối đãi với Hòa ra sao. Nói xong, Hòa rút túi đưa cho vợ Loan một cái trâm vàng:
– “Cái răng cái tóc là góc con người”, tôi rất ân hận vì không được biết trước để ngăn chị đừng bán tóc. Nhưng cũng nhờ vậy mà tôi biết được tấm chân tình của chị. Tôi xin tặng chị vật này, chị cứ bán đỡ mà tiêu, rồi sẽ kiếm cách làm ăn sau.
Về lại kinh đô, Hòa sai người mang tiền giúp đỡ Loan. Loan đi học nghề may rồi mở một tiệm may nhở tại nhà. Loan làm ăn ngày mội phát đạt, còn dạy nghề cho nhiều người khác nữa.
Về sau, Phụng biết Hòa làm quan to ở kinh đô, lại biết Hòa giúp Loan làm ăn thì tỏ ý tiếc rẻ: “Phải chi ngày ấy ta tiếp bạn cho tử tế, biết đâu nhờ bạn lo cho được một chút phẩm hàm”. Thế rồi hắn vội vã đến thăm hai người bạn cũ. Nhưng cả Hòa và Loan, không ai xem hắn là bạn nữa, không ai chấp nhận một người bạn “tham vàng bỏ ngãi”.
Khi cô giáo kết thúc câu chuyện, cả lớp chìm trong im lặng. Các bạn lớp em luôn đoàn kết và thân ái giúp đỡ nhau trong học tập, trong cả lúc vui chơi. Chúng em chia sẻ với nhau một cái cái tẩy, một cây bút chì dùng chung hay một cái bánh bẻ đôi, bẻ ba rất thân ái, hòa đồng. Em mong là về sau chúng em vẫn yêuthương giúp đỡ nhau, không một ai giống Phụng trong câu chuyện ở trên.
2. Kể chuyện theo chủ đề
a. Chủ đề về lòng nhân hậu, trung thực, kiên trì, quả cảm:
Văn kể chuyện đề 1: Em hãy kể lại câu chuyện “Một người chính trực” (TiếtTập đọc, tuần 4, trang 36, SGK Tiếng Việt 4, tập l).
BÀI LÀM
Một trong những triều đại xây dựng nước Đại Việt ta thời trước hưng thịnh, cường vinh là triều Lý. Triều Lý trị vì hai trăm mười sáu năm, là triều đại có nhiều tưởng giỏi, quan thanh liêm, chính trực. Vị quan nổi tiếng chính trực của triều Lý là ông Tô Hiến Thành.
Năm 1175, vua Lý Anh Tông mất, di chiếu cho Tô Hiến Thành phò Thái tử Long Cán, lúc ấy mới hai tuổi, con bà Thái hậu họ Đỗ lên ngôi. Bà Chiêu Linh Thái hậu muốn lập con mình là Long Xưởng lên làm vua nên cho người đem vàng bạc đút lót vợ Tô Hiến Thành để nhờ ông thay đổi di chiếu của vua. Tô Hiến Thành kiên quyết từ chối, cử y mệnh di chiếu của Tiên hoàng, lập Long Cán làm vua. Long Cán lên ngôi vua lấy hiệu là Lý Cao Tông.
Tô Hiến Thành phò tá Cao Tông được bốn năm, ông lâm bệnh nặng. Quan Tham tri chính sự Vũ Tán Đường ngày đêm săn sóc chu đáo, túc trực bên giường bệnh. Còn quan Gián nghị đại phu Trần Trung Tá do bận nhiều công việc không thăm bệnh Tô Hiến Thành thường xuyên được.
Một hôm, Đỗ Thái hậu và vua đến thăm ông ưu tư về việc triều chính, quốc gia, Thái hậu hỏi:
– Nếu chẳng may ông mất thì ai là người sẽ thay ông?
Tô Hiến Thành đáp ngay:
– Gián nghị đại phu Trần Trung Tá thay tôi được.
Thái hậu ngạc nhiên hỏi:
– Vũ Tán Đường hết lòngvì ông. Sao ông không tiến cử?
Tô Hiến Thành tâu:
Nếu Thái hậu hỏi người hầu hạ giỏi thì thần xin cử Vũ Tán Đường, còn hỏi người tài ba giúp nước, thần xin cử Trần Trung Tá.
Tô Hiến Thành làm quan đầutriều, nhận trọng trách, hết lòng vì dân vì nước, trung với vua, một lòng ngay thẳng, khẳng khái. Lịch sử ghi nhận công lao to lớn của ông, nhân dân ta tôn vinh, ca ngợi ông
Văn kể chuyện đề 2: Em đã được cô giáo kể cho nghe câu chuyện “Một nhà thơ chân chính”. Em hãy kể lại câu chuyện ấy.
BÀI LÀM
Giữ vững lòng chính trực của mình có khi phải cận kề cái chết nhưng cuối cùng bao giờ chân lý cũng chiến thắng. Cô giáo đã giảng cho chúng em nghe như vậy khi kể cho cả lớp nghe câu chuyện “Mộtnhà thơ chân chính”
Ngày xưa,Vương quốc Da-ghét-tan có một ông vua tàn ác, bạo ngược. Nhân dân sống dưới ách cai trị của ông hết sức khổ sở, lầm than. Toàn dân vô cùng oán thán và căm hờn nhà vua. Dân chúng bèn kể tội vua và bày tỏ lòng căm ghét của mình bằng một bài hát. Bài hát ấy truyền miệng trong nhân dân và lan xa khắp nước.
Khi bài hát lọt vào tai vua,nhà vua tức giận và hạ lệnh bắt giam người sáng tác bài hát. Nhưng quan quân của vua không tìm ra được tác giả của bài hát ấy. Thế là nhà vua hạ lệnh tống giam tất cả nhà thơ và nghệ sĩ hát rong. Tất cả những người bị bắt được đưa vào cung. Nhà vua truyền bảo mỗi người phải hát cho vua nghe một bài hát do mình sáng tác. Tất cả các nhà thơ và nghệ sĩ đều hát lời ca tụng nhà vua. Nhưng trong số ấy có ba nhà thơ im lặng. Vua ra lệnh thả tất cả, còn ba nhà thơ kia thì tống giam vào ngục tối.
Ba tháng sau,vua cho giải họ đến và truyền:
– Giờ thì các ngươi hãy hát cho trẫm nghe.
Một trong ba người cất tiếng hát ca tụng nhà vua. Nhà thơ được thả ngay. Hai nhà thơ còn lại bị dẫn đến dàn hỏa thiêu. Nhà vua cho hai nhà thơ hát lần cuối cùng. Một người cất tiếng hát ca ngợi vua. Người đó được nhà vua thả ngay. Người còn lại vẫn một mực im lặng. Nhà vua tức giận thét lên:
– Trói hắn lại! Nổi lửa lên!
Khi lửa bắt đầu cháy, nhà thơ cất cao giọng, hát bài hát vạch trần tội ác của nhà vua. Đó chính là bài hát căm hờn vua vẫn lan truyền cả nước. Ngọn lửa ngày càng cháy dữ dội, cả hoàng cung rung động bởi lời hát căm hờn bất khuất của nhà thơ.
Bất ngờ, nhà vua thét lớn:
– Dập tắt lửa mau! Cởi trói cho ông ta! Trẫm không thể để mất nhà thơ chân chính độc nhất của đất nước này.
Cuối cùng, nhà vua cũng hiểu lòng chính trực là đức tính được kính trọng. Để giữ lại hiền tài cho đất nước, nhà vua phải công nhận tội ác của mình. Tuy bạo ngược nhưng Quốc vương Đa-ghét-tan đã biết hành động đúng lúc.
Văn kể chuyện đề 3: Em hãy kể một câu chuyện đã đọc hoặc nghe cô giáo kểvề tính trung thực, thật thà
BÀI LÀM
Ngày xưa, ở đất nước Khơ-me, có một ông vua tuổi đã cao mà chưa có người nối ngôi. Nhà vua muốn tìm người tài giỏi để truyền ngôi báu. Vua ra lệnh phát cho mỗi người dân một thúng thóc giống và giao hẹn ai thu hoạch được nhiều thóc nhất sẽ được truyền ngôi báu, ai không có thóc nộp sẽ bị trừng phạt.
Có một chú bé mồ côi tên Chôm nhận thóc, ra sức chăm sóc nhưng thóc không nảy mầm. Đến vụ thu hoạch, dân chúng ai nấy đều có thóc đem về kinh thành nộp cho vua. Riêng cậu bé Chôm lo lắng, quỳ trước vua, tâu lên:
– Tâu bệ hạ! Con không làm sao cho thóc nảy mầm được.
Mọi người lặng đi vì lời thú tội của Chôm. Nhà vua đỡ Chôm đứng dậy, ngài hỏi mọi người có ai để chết thóc giống không, không một ai trả lời. Bấy giờ nhà vua mới ôn tồn nói:
– Thóc giống phát cho mọi người là thóc giống đã được luộc kĩ rồi. Tất nhiên, thóc ấy không thể nào mọc được. Những xe thóc đầy ắp kia đâu phải thu được từ thóc giống của ta.
Rồi vua dõng dạc phán:
– Trung thực là đức tính quý nhất của con người. Chú bé trung thực và dũng cảm này xứng đáng được ta truyền ngôi cho.
Chôm được đức vua truyền ngôi cho và trở thành một ông vua hiền minh.
Điều đáng để em suy nghĩ là Chôm mồ côi, chú bé ấy tự mình cư xử mọi việc. Chú giữ lòng trung thực mặc dù biết lệnh vua rất nghiêm: không có thóc nộp sẽ bị trừng phạt. Em sẽ noi gương Chôm và rèn luyện cho mình đức tính thật thà cao quý này.
Văn kể chuyện đề 4: Em hãy kể một câu chuyện về một người cương trực, thẳng thắng mà em biết (học trong chương trình, đọc sách báo, nghe thầy cô giáo kể hoặc em biết qua cuộc đời, sự nghiệp của danh nhân).
Hướng dẫn, gợi ý:
– Chương trình học có bài tập đọc viết về quan thanh liêm chính trực Tô Hiến Thành (bài “Một người chính trực”, tuần 4).
– Chuyện kể về danh nhân lịch sử Việt Nam có:
+ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm + Thầy giáo Chu Văn An + Quan Nhập nội hành khiển Nguyễn Trãi + Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.
(Các em có thể tìm đọc truyện ở tác phẩm “Danh nhân Lịch sử Việt Nam ” – NXB Giáo dục)
BÀI LÀM 1
(Chuyện kể về thầy giáo Chu Văn An)
Khi giảng cho chúng em nghe về việc học hành thi cử của nước ta ngày xưa, cô giáo cho chúng em biết trường Đại học thời đó có tên là Quốc Tử Giám. Cô kể cho chúng em nghe về một người thầy giáo danh tiếng vang dội, đã từng giữ chức Tu nghiệp Quốc Tử Giám, nổi tiếng cương trực thắng thắng: ông Chu Văn An.
Ông Chu Văn An quê ở làng Quang, thôn Văn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (Thanh Trì, Hà nội), ông là người thầy nổi tiếng dạy giỏi, rất hiểu tính tình và tài năng của học trò mình. Ông giỏi đến mức tục truyền: Thủy thần đền Cung Hoàng cũng đến theo học và theo lời thầy dạy đã hy sinh cuộc đời để cứu dân khỏi nạn hạn hán.
Biết Chu Văn An là thầy giáo tài giỏi hơn người, vua Trần Minh Tông cho mời vào triều để dạy Thái từ học và giữ chức Tu nghiệp Quốc Tử Giám, ông làm quan ở kinh đô, nhìn thấy triều đình suy thoái, gian thần phinh nịnh, thao túng triều chính, ông dâng sớ xin chém bảy nịnh thần nhưng vua không nghe. Ông xin từ quan về núi Phượng Hoàng dạy học, làm thuốc cứu dân, không màng danh lợi. Mọi tiền của vàng bạc bổng lộc vua ban ông đều từ chối.
Học trò của ông có nhiều vị làm quan to trong triều. Trong số đó, nổi bật là ông Lê Quát và Phạm Sư Mạnh. Hai ông là vị quan đầu triều lúc ấy. Có mẩu chuyện kể rằng: vào một ngày đầu xuân, hai vị quan to là Lê Quát và Phạm Sư Mạnh về thăm thầy. Hai ông quạt lửa đun nước pha trà hầu thầy như thời còn đi học. Chu Văn An sửa soạn quần áo chỉnh tề chuẩn bị đi đâu đónhưng chẳng nói gì. Các học trò nhỏ cũng đến thăm thầy và chúc Tết thầy. Chu Văn An dẫn tất cả các học trò đến thăm mình buổi sáng đầu năm ấy đến một ngôi nhà nhỏ ở làng bên để thăm một người cao tuổi, người ấy cũng đã già lắm rồi. Vào đến thềm nhà, Chu Văn An lạy người cao tuổi đó rất cung kính:
– Con lạy thầy ạ. Con xin kính thăm thầy và cả học trò của con cũng xin được lạy thầy ạ!
Người thầy của Chu Văn An lúc đó đang sưởi nắng ở hiên nhà, cất tiếng:
– Anh An đấy à. Anh còn mang cả học trò đến thăm thầy nữa.
Chu Văn An và học trò mình cùng lạy cụ già râu tóc bạc phơ như ông tiên và dâng cụ trà, bánh – quà học trò mang đến biếu ông, ông bảo học trò mang theo đến kính biếu người thầy giáo dạy vỡ lòng của ông. Lúc ấy, hai vị quan to và đám học trò nhỏ mới biết được tấm lòng tôn sư trọng đạo của người thầy giáo dạy mình.
Ông Chu Văn An là người cương trực dám dâng sớ chém bảy nịnh thần. Ông không màng phú quý, vinh hoa mà còn ra sức làm thuốc cứu dân, dạy người biết chữ, biết đạo. Sử sách tôn ông là “Bậc chí tôn trong đạo làm thầy, khí phách hùng dũng đến kẻ nịnh thần phải sợ”.
BÀI LÀM 2
(Chuyện kể về Hưng Dạo Vương Trần Quốc Tuấn)
Nước Việt Nam ta anh hùng hào kiệt đời nào cũng có. Chuyện kể về các bậc anh hùng được tôn thánh có rất nhiều, trong đó câu chuyện về Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn làm em xúc động nhất. Em xin kể một chuyện thể hiện lòng tận trung với vua, chí tâm với dân với nước, một dạ thẳng ngay của Quốc tướng Trần Hưng Đạo.
Khi nhà Trần thành lập, người giữ ngôi vua là Trần Cảnh (tức Trần Thái Tông). Thực sự tính về ngôi thứ trong họ thì anh cả là Trần Liễu chứ không phải là Trần Cảnh. Trần Liễu không được ở ngôi vua. Vì Trần Cảnh và Chiêu Thánh Công chúa không có con nên Thái sư Trần Thủ Độ ép Trần Thái Tông phải lập Thuận Thiên Công chúa lúc ấy là vợ Trần Liễu, đang mang thai ba tháng lên làm hoàng hậu. Trần Liễu – cha của Trần Quốc Tuấn uất ức, bạo bệnh mà qua đời. Trước khi mất, Trần Liễu cầm tay Trần Quốc Tuấn nói rằng:
– Con không vì cha mà lấy lại thiên hạ thì cha chết không nhắm mắt dược!
Trần Hưng Đạo thương cha nhưng không cho điều đó là lẽ phải.
Đầu năm 1285 quân Nguyên Mông ồ ạt sang xâm lược nước ta, thế giặc rất mạnh. Trần Hưng Đạo ra lệnh rút quân và di tản dân chúng ra khỏi kinh thành, dùng chiến lược “vườn không nhà trống” để đón giặc. Triều đình sơ tán về Thiên Trường (Nam Định). Trần Thánh Tông lo ngại, ướm hỏi ông nên hàng giặc hay không. Ông khăng khái trả lời:
– Bệ hạ chém đầu thần rồi hãy ra hàng.
Nói rồi ông dùng thuyền nhẹ, cùng một số vệ sĩ lập mưu lừa giặc. Bấy giờ trên thuyền chỉ có ông và hai vua (Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông). Nghĩ về mối hiềm khích giữa cha và chú, ông chỉ dám cầm tay một chiếc gậy gỗ, đầu bịt sắt nhọn để bảo vệ hai vua nhưng có người nhòm ngó, ông tháo phần sắt nhọn, vứt xuống sông.
Triều đình sơ tán an toàn. Giặc đến ở trong thành. Chúng thấy làng mạc nào cũng hoang vắng không có quân dân, lấy làm hoang mang lo sợ. Mùa mưa đến, giặc không chịu nổi phong thổ Việt Nam, sinh đau bệnh, thế giặc suy yếu. Ông hạ lệnh tổng phản công. Sau một tháng chiến đấu ác liệt với các trận Hàm Tử, Chương Dương Vạn Kiếp, nhân dân ta đã đánh tan quân xâm lược.
Trần Hưng Đạo không chỉ là một nhà quân sự thiên tài mà còn là người có đạo đức trong sáng, tính tình cương trực, nhân hậu ông không vì lời trối trăng của cha mà phản lại triều đình và quyền lợi dân tộc.
Tháng chín năm 1300, Trần Hưng Đạo mất. Vua truy tặng ông chức Thái sư thượng phụ Quốc công, tước Nhân Võ Hưng Đạo Đại Vương. Nhân dân lập đền thờ ông, tôn ông là Đức Thánh Trần.
Em đọc truyện tưởng như nhìn thấy Đức Thánh Trần oai phong lẫm liệt và những chiến công hiển hách của dân tộc. Em xúc động và cảm nhận sâu sắc đức tính tận tụy vì vua, tận hiếu với dân, với nước của ông. Em tự hào mình là người Việt, hạnh phúc khi Tổ quốc em có những danh tướng như ông Trần Hưng Đạo.
Văn kể chuyện đề 5: Em hãy kể một câu chuyện về tấm lòng nhân hậu (truyện cổ tích, chuyện người thật việc thật, chuyện lịch sử) mà em đã nghe, học, đọc sách báo hoặc nghe thầy (cô) giáo kể.
Hướng dẫn chọn chuyện kể:
– “Sự tích hồ Ba Bể” (xem bài ở tiết 1/ tuần 8).
– “Người ăn xin” (xem bài ở tiết 1/ tuần 2).
– “Nàng tiên Ốc” (xem bài ở tiết 2/ tuần 2).
– “Dế Mèn bênh vực kẻ yếu” (xem bài văn mẫu, đề số 3, mục 1 của các bài văn mẫu).
BÀI LÀM
(Chuyện kể về Bác Hồ)
Sau giờ học luyện từ và câu bài “Mở rộng từ ngữ về chủ đề nhân hậu – đoàn kết”, cô giáo em hỏi cả lớp: “Các em có biết ai có tấm lòng nhân hậu bao trùm cả nước ta và cả thế giới không?”. Cả lớp rì rầm trao đổi. Cô giáoem cười, cô đưa bàn tay trân trọng, trìu mến về phía ảnh Bác Hồ: “Bác Hồ muôn vàn kính yêu của chúng ta đó, cô sẽ kể cho các em nghe câu chuyện có tựa đề: “Ông Ké””,
Hơn một năm xa Tổ quốc, trải qua gần ba chục nhà tù của Tưởng Giới Thạch gần khắp Quảng Tây, Bác Hồ trở về Pác Bó cuối năm 1944. Ở đây, để tránh tai mắt giặc. Bác Hồ ăn mặc quần áo chàm như người dân tộc vùng Cao Bắc Lạng. Nhân dân ở đây gọi người là Ông Ké. Nhìn thấy việc giữ gìn vệ sinh nước ăn và nơi ở chưa được dân chúng chú ý, Bác bảo các cháu xếp hàng đi về phía khe nước. Người tự tay cởi bỏ quần áo cho các cháu bé, lần lượt tắm rửa, kì cọ cho từng cháu. Chúng vừa tắm, vừa đùa bắn cả nước vào người Bác. Trong số bọn trẻ được Bác tắm cho hôm đó có bé Thân bị chốc đầu, tóc dính bết. Tắm gội xong, Bác còn làm thuốc dịt cho. Thuốc xót, bé Thân kêu, Bác dỗ dành ngọt ngào:
– Không sao, chỉ một lát là hết xót thôi cháu à.
Rồi Bác nói với đám thanh niên đứng quanh dó:
– Các cô, các chú vợ chồng trẻ phải giữ gìn quanh năm sạch sẽ cho con cái. Bệnh ghẻ lây nhanh lắm đấy. Thật khổ cho các cháu tôi.
Mọi người im lặng, cảm động. Bác thấy mấy cháu mặc quần áo bẩn và rách, Bác không vui. Bác dặn mọi người phải lấy quần áo sạch thay cho các cháu, chổ nào rách thì khâu vá, may lại.
Bác Hồ bận trăm công ngàn việc cho sự nghiệp giải phóng dân tộc ra khỏi chế độ xiềng xích của thực dân mà vẫn dành thời gian tắm rửa cho các cháu thiếu nhi nghèo khô dân tộc vùng núi Pác Bó. Tình thương của Bác mênh mông, tấm lòng nhân hậu của Bác thể hiện trong việc tắm rửa, xức thuốc cho trẻ. Bác không muốn thấy đồng bào của Bác sống thiếu thốn, đau đớn.
Bác Hồ nay đã đi xa, nhưng em thấy Bác thật gần gũi. Mỗi lần vào lớp học, ngước nhìn chân dung hiền từ của Bác, nhớ chuyện “Ông Ké” em lại bồi hồi xúc động. Em tự hứa sẽ học tập, rèn luyện theo lời Bác dạy để Bác vui lòng.
Văn kể chuyện đề 6: Hãy kể một câu chuyện em đã được nghe hoặc được đọc về một người có nghị lực.
BÀI LÀM
(Kể chuyện “Bàn chân kì diệu”)
Ngày nay, ai cũng biết thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký là người viết bằng chân chứ không viết bằng tay vì thầy bị liệt hai tay từ bé. Để trở thành thầy giáo Ký ngày nay, cậu bé Nguyễn Ngọc Ký đã trải qua gian khổ như thế nào, em xin kể lại câu chuyện ghi lại quá trình rèn luyện gian khổ đó: chuyện “Bàn chân kì diệu”.
Ký bị liệt hai cánh tay từ nhỏ. Hằng ngày thấy các bạn đi học, Ký thèm lắm. Ký muốn được đến trường như các bạn bình thường khác. Ký đến lớp cô giáo Cương xin được vào học. Cô giáo cầm tay Ký – hai cánh tay mềm nhũn, buông thõng, bất động, cô giáo lắc đầu, an ủi Ký:
– Khó lắm em ạ. Em hãy về nhà đợi thêm ít nữa xem sao đã!
Cô thoáng thấy đôi mắt Ký ngấn nước. Ký quay người đi, chạy về nhà. Cậu vừa chạy, vừa khóc. Mấy hôm sau, cô giáo Cương tìm đến nhà Ký. Cô rất ngạc nhiên và xúc động khi thấy Ký đang ngồi giữa sân hí hoáy tập viết, cậu kẹp một mẩu gạch vào ngón chân và vẽ xuống đất những nét chữ ngoằn ngoèo. Cô giáo hỏi thăm sức khỏe của Ký rồi cho em mấy viên phấn.
Rồi cô giáo Cương nhận Ký vào học. Cô giáo dọn một chỗ ở góc lớp, trải chiếu cho Ký ngồi tập viết. Ký kẹp cây viết vào ngón chân rồi tập viết vào trang giấy. Mới đầu, Ký không điều khiển cây bút được. Bàn chân cậu giẫm lên trang giấy, cựa quậy một chút là giấy nhàu nát, mực lem luốc trang giấy. Mấy ngón chân Ký mỏi nhừ. Cô thay bút chì cho Ký, cậu lại kiên nhẫn tập viết. Giữ cây bút viết bằng chân cho thăng bằng đã khó, đưa cây bút viết thành nét chữ còn khó hơn. Dù vậy, Ký vẫn cố gắng viết. Bỗng cậu nằm ngửa ra, giơ chân lên xuýt xoa nhăn nhó. Cô giáo và mấy bạn chạy tới, thì ra bàn chân Ký bị chuột rút, co quắp, không duỗi ra được. Chứng “chuột rút” làm Ký rất đau, có lúc tái cả người. Cậu nản chí định thôi học nhưng nhờ cô giáo Cương an ủi, động viên, Ký kiên nhẫn tập dần từng tí một. Các bạn cũng an ủi, giúp Ký những việc nhỏ như xoa chân, giữ giấy… Tình yêu thương của cô giáo và các bạn tiếp thêm sức mạnh cho Ký, Ký lại kẹp bút vào ngón chân, hì hục tập viết. Ký kiên nhẫn viết từng chút một dù sức khỏe yếu ót, dù cậu đau luôn, dù nắng hay mưa, cậu đều đến lớp rất chuyên cần. Luyện tập kiên trì, Ký đã thành công, hết lớp một, Ký đã đuổi kịp các bạn. Chữ Ký ngày một đều hơn, đẹp hơn, có lần cậu đạt điểm tám môn tập viết. Rồi Ký thi vào Đại học, trở thành sinh viên trường Đại học Tổng hợp.
Nguyễn Ngọc Ký là tấm gương sáng về ý chí vượt khó. Ký đã hai lần được Bác Hồ gửi tặng huy hiệu của Người.
Là người bình thường, học tập trong điều kiện bình thường đôi khi cũng khó khăn cho những ai kém ý thức hoặc chưa thực sự cố gắng. Nguyễn Ngọc Ký là người đầy nghị lực, là tấm gương sáng cho học sinh chúng em noi theo.
BÀI LÀM 2
(Kể chuyện “Vua tàu thủy Bạch Thái Bưởi”)
Hầu hết các doanh nhân giàu có trên thế giới đều nói rằng thành công của họ đều bắt đều từ một cơ hội, một chút may mắn và rất nhiều nghị lực. “Vua tàu thủy” Bạch Thái Bưởi cũng đã bắt đầu như thế.
Bưởi xuất thân nghèo khổ. Ông mồ côi cha từ bé, phải theo mẹ bán hàng rong. May mắn, nhờ khôi ngô và tư chất thông minh, ông được nhà họ Bạch nhận làm con nuôi và cho ăn học.
Năm hai mươi mốt tuổi, Bạch Thái Bưởi làm thư ký cho một hãng buôn. Một thời gian sau, ông kinh doanh độc lập. Ông kinh doanh đủ các ngành: lâm sản (gỗ), nông sản (ngô), rồi mở hiệu cầm đồ, lập nhà in, khai thác mỏ… Ông trải qua nhiều gian nan thất bại, có lúc phá sản nhưng không nản chí.
Nhận thấy việc vận chuyển hàng hoá và đi lại của người dân chủ yếu bằng đường thủy vì nước ta sông ngòi nhiều, bờ biển dài và rộng, ông quyết định mở công ty vận tải đường thủy. Thời bấy giờ, việc kinh doanh ngành này tập trung trong tay các chủ tàu giàu có người Hoa. Để có nhiều khách hàng và khuếch trương tên tuổi hãng tàu do mình thành lập, ông cho người đến các bến tàu diễn thuyết. Trên mỗi chiếc tàu phục vụ khách của ông, ông dán biểu ngữ: “Người ta thì đi tàu ta” và cho treo một cái ống để khách nào đồng tình với ông thì vui lòng bỏ ống tiếp sức cho chủ tàu. Khách đi tàu ủng hộ ông rất nhiều, khách mỗi ngày một đông. Nhiều chủ tàu người Hoa, người Pháp phải bán lại tàu cho ông. Để đảm bảo an toàn cho tàu và khách, ông mua xưởng sửa chữa tàu, thuê kĩ sư giỏi trông nom. Công ty đường thủy của ông ngày một thịnh vượng, số lượng tàu lên đến ba mươi chiếc tàu lớn nhỏ đều mang những cái tên theo lịch sử Việt Nam như; Hồng Bàng, Lạc Long, Trưng Trắc, Trưng Nhị…
Trong vòng mười năm, Bạch Thái Bưởi trở thành “một bậc anh hùng kinh tế”, được mọi người vị nể, đánh giá cao.
Ông Bạch Thái Bưởi có nhiều nghị lực vượt khó khăn. Ông là một doanh nhân yêu nước, là người khởi đầu cho ngành đường thủy nước ta ngày càng mở rộng. Em rất cảm phục nghị lực của ông, ngưỡng mộ và nguyện noi gương ông học tập tốt để trở thành người kinh doanh giỏi sau này.
BÀI LÀM 3
(Chuyện kể về nghị lực phi thường của nhạc sĩ Bết-tô-ven)
Nhạc sĩ thiên tài Lút-vít-van Bết-tô-ven là một người có nghị lực phi thường. Cuộc đời ông từ lúc sinh ra, sống, học tập, sáng tác nhạc là chuỗi ngày dài luôn chiến đấu với mọi hoàn cảnh khó khăn, bệnh tật. Câu chuyện em kể sau đây minh chứng cho nhận định đó.
Bết-tô-ven sinh năm 1770, tại Bon, nước Đức, trong một gia đình có truyền thống âm nhạc. Từ bốn tuổi, Bết-tô-ven đã được học tập, rèn luyện các loại đàn piano và violon. Quá trình học tập, sinh sống của ông rất vất vả. Vì gia đình của ông nghèo, ông phải bỏ học từ mười tuổi. Kiến thức ông có được đều do ông tự học. Năm mười bảy tuổi, ông đến Viên và theo học nhạc sĩ Bach, cũng năm này, người mẹ thân yêu của ông qua đời. Chịu tang mẹ xong,ông quay lại Viên và tiếp tục học nhạc. Năm hai mươi hai tuổi, Bết-tô-ven đã thu hút được sự chú ý của mọi người bằng sự thể hiện độc đáo những tư tưởng âm nhạc và phong cách biếu diễn. Tưởng rằng tài năng nở rộ thì cuộc đời của ông sẽ tươi sáng hơn. Nhưng không, năm hai mươi sáu tuổi, ông bị điếc tai nặng. Bệnh của ông không có khả năng chữa khỏi. Bị điếc nghĩa là không nghe được tiếng nhạc nữa, điều này thật đáng sợ đối với một nhạc sĩ. Nó như giết chết cuộc đời nghệ thuật của ông. Tuy nhiên, ông không chịu đầu hàng số phận. Ông ngồi vào ghế, cầm lấy giấy và bút, viết thật nhanh, cho đến lúc trăng lên cao, ông đã viết xong bản hợp tấu đàn piano, ông lướt tay lên phím đàn đầy hào hứng, sôi nổi. Tuy ông không nghe tiếng đàn nhưng ông nhìn thấy các phím đàn cùng với sức tưởng tượng dồi dào, mạnh mẽ, ông như nghe được tiếng nhạc êm tai, quyến rũ, tăng thêm sức mạnh để ông sống tiếp. Bệnh phát triển, dày vò ông đau đớn, tiều tụy nhưng ông vẫn kiên trì chống chọi và sáng tác nhạc. Ông không thể nghe thấy âm thanh nhạc của ông khi người ta diễn tấu nhưng ông đánh giá được mức độ thành công thông qua thái độ hưởng ứng, thưởng thức của công chúng.
Ngày hai sáu tháng ba năm 1827, trái tim nhạy cảm và giàu yêu thương của nhạc sĩ ngừng đập. Thế giới mất đi một thiên tài âm nhạc. Ba mươi năm dài chiến đấu với bệnh tật, ông để lại cho đời những bản giao hưởng công-xéc-tô nổi tiếng. Hạt ngọc sinh ra từ trong vỏ trai bệnh tật, những năm tháng đau buồn lận đận giúp thêm sức cho Bet-tô-ven cống hiến cho đời những bản nhạc bất hủ.
Khép sách lại, em nghe tim mình dâng lên niềm thương cảm và tôn kính một bậc tài hoa. Em ngưỡng mộ và khâm phục nghị lực phi thường của nhạc sĩ. Bet-tô-ven là tấm gương sáng chói lọi cho chúng ta sống, học tập và làm việc. Ngày nay, dù tình cờ nghe được một đoạn nhạc của ông, em hiểu rằng em đang được thưởng thức tác phẩm nghệ thuật của bậc tinh anh, tài hoa kiệt xuất.
Văn kể chuyện đề 7: Em hãy kể câu chuyện về người có tính kiên trì, nhẫn nại (em được nghe, học trong chương trình hoặc nghe thầy (cô) giáo kể).
BÀI LÀM 1
(Chuyện “Văn hay chữ tốt”)
Bạn Sơn giỏi toán nhất lớp nhưng luôn bị trừ điểm trình bày vì bạn viết chữ rất xấu. Cô giáo viết mẫu vào một quyển vở riêng và bắt Sơn rèn chữ. Thấy bạn ấy nản chí, ít chuyên cần rèn luyện, cô giáo kể cho cả lớp nghe gương kiên trì luyện chữ của ông Cao Bá Quát.
Hồi còn đi học, Cao Bá Quát viết chữ rất xấu nên nhiều bài văn hay của ông tuy ý tứ súc tích, lời lẽ mạch lạc vẫn bị thầy cho điểm kém. Một hôm, có bà cụ hàng xóm sang nhờ ông viết giúp bà đơn để khiếu nại lên quan vì gia đình có việc oan uổng. Cao Bá Quát vui vẻ trả lời:
– Tưởng việc gì khó chứ việc ấy cháu xin sẵn lòng.
Lá đơn nêu lí lẽ rõ ràng. Cao Bá Quát yên tâm quan sẽ cứu xét nỗi oan uổng của bà cụ. Nào ngờ, chữ ông viết quá xấu, quan không đọc được, bực mình, sai lính đuổi bà cụ ra khỏi nha môn. Về nhà, bà cụ kể lại sự việc khiến Cao Bá Quát vô cùng ân hận. Ông biết là văn hay đến thế nào mà chữ viết người ta không đọc được, chữ không ra chữ cũng chẳng có ích gì. Từ đó ông quyết tâm rèn chữ viết sao cho đẹp.
Mỗi sáng, ông cầm que vạch lên cột nhà cho nét chữ thẳng, cứng cáp. Mỗi buổi tối, ông viết xong mười trang vở mới đi ngủ. Ông còn mượn những cuốn sách chữ viết đẹp làm mẫu để luyện nhiều kiểu chữ khác nhau. Luyện tập suốt mấy năm như thế, chữ ông mỗi ngày một đẹp. Ông nổi tiếng là người văn hay chữ tốt nhất nhì nước ta.
Ông Cao Bá Quát nổi tiếng là người viết văn hay còn phải rèn chữ huống hồ học sinh chúng em còn đang phải học tập để rèn luyện kiến thức cơ bản. Em sẽ noi gương ông cần mẫn, kiên trì trong học tập và trong đời sống để việc học, việc làm đạt kết quả tốt nhất, trở thành một người có ích cho gia đình và xã hội.
BÀI LÀM 2
(Chuyện “Người tìm đường lên các vì sao ”)
Thành quả khoa học ngày nay nhân loại đang hưởng thụ là kết quả của biết bao mồ hôi công sức của các nhà khoa học. Các nhà khoa học là những người có trí tuệ siêu việt, có ý chí kiên cường đáng khâm phục. Nhà bác học vũ trụ người Nga Xi-ôn-côp-xki là một trong những nhà bác học có ý chí kiên trì được lưu danh sử sách.
Từ nhỏ, Xi-ôn-côp-xki đã mơ ước được bay lên bầu trời. Ước mơ nung nấu ông đến nỗi ông dại dột nhảy qua cửa sổ để bay theo những cánh chim. Lần đó, ông bị ngã gãy chân. Đau chân nhưng ông vẫn suy nghĩ: “Vì sao quả bóng không có chân vẫn bay được?”.
Lớn lên, ông tìm mọi cách để thực hiện ước mơ của mình. Ông đọc bao nhiêu là sách, liên tục hì hục làm thí nghiệm, có khi đến hàng trăm lần. Bạn ông hỏi:
– Cậu làm thế nào mà mua được nhiều sách và dụng cụ thí nghiệm như thế?
Xi-ôn-côp-xki cười:
– Mình chỉ tiết kiệm thôi.
Quanh năm ông chỉ ăn bánh mì suông để tiết kiệm tiền mua đồ dùng làm thí nghiệm. Qua nhiều lần thí nghiệm, ông chế ra được khí cầu bay làm bằngkim loại. Không nản chí, ông nghiên cứu lí thuyết bay trong không gian. Khi quan sát chiếc pháo thăng thiên, ông chế tạo thành công tên lửa nhiều tầng (tức hỏa tiễn), là cơ sở để con người có thể làm được phi thuyền, phương tiệnbay đến các vì sao.
Hơn bốn mươi năm dày công nghiên cứu, tìm tòi, Xi-ôn-côp-xki đã thực hiện được điều ông nung nấu: “Các vì sao không phải để tôn thờ mà để chinh phục”.
Nhà bác học Xi-ôn-côp-xki dành hơn nửa đời người để nghiên cứu phương pháp bay vào không gian, một công trình vĩ đại về kết quả lẫn công sức kiên trì. Tấm gương nhẫn nại của ông thật đáng khâm phục. Nhìn lại mình, em thấy mình còn qua nhiều điều để rèn luyện tu dưỡng. Em hứa noi gương Xi-ôn-côp-xki để học tập tốt hơn.
BÀI LÀM 3
(Chuyện “Vẽ trứng”)
Ở châu Á có những họa sĩ nổi tiếng như: Đường Bá Hổ, Tề Bạch Thạch., thì ở châu Âu có những danh họa như Van Gốc, Lê-ô-na-đô đa Vin-xi…. Danh họa Lê-ô-na-đô đa Vin-xi bắt đầu sự nghiệp hội họa của mình bằng việc học ba năm liền vẽ trứng, một sự kiên nhẫn đáng thán phục.
Lê-ô-na-đô đa Vin-xi là họa sĩ vĩ đại thời Phục Hưng, ông là người Ý, sinh ngày mười lăm tháng năm năm 1452 tại An Chi-a-nô. Từ nhỏ, Lê-ô-na-đô đa Vin-xi đã rất thích vẽ tranh.
Một lần, cha Lê-ô-na-đô đa Vin-xi thấy một con gián trên tường, ông vội lấy vợt đập gián thì mới biết con gián giống như thật ấy do Lê-ô-na-đô đa Vin-xi vẽ. Sau lần ấy, cha của Lê-ô-na-đô đa Vin-xi từ bỏ ý định bắt cậu bé học ngành luật và ủng hộ Đa Vin-xi học vẽ tranh.
Hồi ấy, Đa Vin-xi mới có bốn tuổi, cha cậu đưa cậu đến nhà danh họa Vê-rô-ki-ô xin học.
Suốt mười mấy ngày đầu, thầy Vê-rô-ki-ô chỉ cho Lê-ô-na-đô đa Vin-xi vẽ trứng gà. Ban đầu, cậu vẽ rất cẩn thận, chăm chỉ từng quả trứng. Cậu vẽ hết quả này đến quả khác và bắt đầu nhàm chán. Thầy Vê-rô-ki-ô bèn bảo:
– Con đừng tưởng vẽ trứng là dễ! Trong một nghìn quả trứng xưa nay không có lấy hai quả hoàn toàn giống nhau đâu. Muốn thể hiện thật đúng hình dạng của từng quả trứng, người họa sĩ phải rất khổ công mới được.
Thầy lại nói:
– Tập vẽ đi vẽ lại quả trứng thật nhiều lần, con sẽ biết quan sát sự vật một cách tỉ mỉ và miêu tả nó trên giấy vẽ một cách chính xác. Đến lúc ấy, con muốn vẽ bất cứ cái gì cũng đều có thể vẽ được như ý.
Cậu không kêu ca chán nản nữa mà kiên trì vẽ trứng gà trong suốt ba năm liền. Sau nhiều năm khổ luyện, Lê-ô-na-đô đa Vin-xi đã trở thành danh họa kiệt xuất. Những tác phẩm của ông đã trở thành những kiệt tác nổi tiếng thế giới và được trưng bày ở nhiều bảo tàng lớn, là niềm tự hào của toàn nhân loại. Không chỉ là danh họa, Lê-ô-na-đô đa Vin-xi còn là nhà điêu khắc, kiến trúc sư và là nhà bác học lớn của thời đại Phục Hưng.
Các nhà văn, nhà thơ, nhà khoa học, họa sĩ… đã có trí tuệ và tài năng hơn người còn phải ra công rèn luyện huống hồ là người bình thường như chúng ta. Em hứa noi gương ông Lê-ô-na-đô đa Vin-xi bền chí học tập để có được tương lai tốt đẹp.
Văn kể chuyện đề 8: Em hãy kể một câu chuyện về một người có lòng tự trọng.
BÀI LÀM 1
(Chuyện về danh tướng Trần Bình Trọng)
Lịch sử Việt Nam ghi nhận những vua quan, danh tướng, chiến sĩ kiệt xuất đã đổ bao công sức, hy sinh để giữ gìn non sông gấm vóc nước ta. Bên cạnh các vị quốc tướng, công thần khác, danh tướng Trần Bình Trọng cũng đã lưu danh sử sách bằng khí phách khẳng khái ngoan cường và lòng tự trọng cao cả của mình.
Năm 1285, quân Nguyên Mông ồ ạt sang xâm lược nước ta. Thế giặc mạnh như thác lũ khiến triều đình và quân dân phải cân nhắc khi tham gia trận chiến. Để bảo toàn và đảm bảo chiến thắng, Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã thực hiện chiến dịch “vườn không nhà trống”. Triều đình sơ tán về Nam Định. Toàn bộ lực lượng quân đội và nhân dân rút vào rừng sâu trấn thủ nơi hiểm yếu, bỏ mặc thành trì vắng lặng, làng xóm không người. Hưng Đạo Vương chờ thế giặc suy giảm vì phong thổ, hao mòn lương thực, đạn dược sẽ phản công. Trên đường rút lui của vua, bãi sông Thiên Mạc là điểm mấu chốt để chặn giặc, lừa giặc. Tướng Trần Bình Trọng được giao chỉ huy trấn giữ bãi sông này đè chặn đường tiến quân của giặc.
Trần Bình Trọng sinh năm 1259, người xã Bảo Thái, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Ông kết hôn với công chúa, tước Bảo Nghĩa Hầu.
Thế giặc rất mạnh, Trần Bình Trọng cho quân đóng trại ở bờ sông Thiên Mạc, kiên quyết ngăn giặc vượt qua sông xuôi thuyền về Nam. Sau nhiều ngày chiến đấu, lực lượng quân lính hao mòn. Lúc này, hai vua Trần đã đến Nam Định. Cánh quân của Trần Bình Trọng chỉ còn là một đội quân nhỏ. Quân giặc đông hàng vạn tên vây đánh đội quân cảm tử, Trần Bình Trọng bị giặc bắt. Biết Trần Bình Trọng là danh tướng, giỏi võ nghệ, thông thạo binh thư, giặc ra sức thu phục ông hàng, hòng biến ông thành kẻ bán nước, dẫn đường cho chúng cướp nước ta. Trần Bình Trọng im lặng không đáp. Tướng giặc ngọt ngào phủ dụ:
– Có muốn làm Vương đất Bắc không?
Trần Bình Trọng quát:
– Ta thà làm quỷ nước Nam, còn hơn làm Vương đất Bắc!
Biết không thể thu phục được ông, giặc trói chặt ông ở bãi sông, chờ nước triều dâng cao dìm ông chết. Tuy bị giặc giết hại nhưng khí phách trung liệt của Trần Bình Trọng đã làm rung động đã lòng quân thù. Tướng chỉ huy giặc lúc ấy ngửa mặt than: “Danh tướng nước Nam trung liệt như thể, ta e thôn tính nước Nam còn nhiều việc khó.”.
Trần Bình Trọng mất, vua Trần Nhân Tông phong ông là Bảo Nghĩa Vương. Trần Bình Trọng bị quân giặc giết hại nhưng khí phách và lòng tự trọng của ông sống mãi nghìn thu.
Tấm gương trung liệt của Trần Bình Trọng làm xúc động hàng triệu trái tim con người và là tấm gương sáng chói cho chúng em noi theo. Em hứa rèn luyện phẩm chất cách mạng, lòng tự trọng của mình, không vì bất kì mối tham lợi nào mà quên đi danh dự người Đội viên Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh.
Văn kể chuyện đề 9: Hãy kể một câu chuyện về một người có lòng quả cảm mà em biết
BÀI LÀM
(Chuyện “Lá cờ thêu sáu chữ vàng ”)
Có một vị tướng trẻ lập nhiều chiến công hiền hách trong cuộc chiến chống quân Nguyên Mông. Vị tướng trẻ tuổi còn thiếu niên lưu danh sứ sách ấy là Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản.
Trần Quốc Toản sinh năm 1267, là quý tộc họ Trần, gốc tích của ông chưa rõ nhưng nhiều thuyết cho rằng ông là con của Hoài Đức Vương Trần Bá Liệt, sống ở Tây Chân (Nam Định).
Năm 1282, vua Trần mở hội nghị Diên Hồng ở bến Binh Than để bàn kế đánh giặc. Trần Quốc Toản mới mười lăm tuổi nên không được tham dự. Quốc Toản nóng lòng muốn biết kế sách chiến đấu nên to tiếng với quân Cấm Dực. Vua nghe thấy gọi thị vệ mang cam đến ban cho ông, rồi bảo ông quay về. Căm thù quân giặc, giận mình còn ít tuổi không được tham gia bàn việc nước, Quốc Toản bóp nát quả cam lúc nào không hay. Sau đó ông về quê, huy động người cùng họ hàng thân thuộc được hơn một ngàn người, phiên chế thành quân ngũ, rèn vũ khí, đóng chiến thuyền, ngày đêm luyện tập để chờ ngày giết giặc.
Năm 1285, quân Nguyên ồ ạt tiến quân vào nước ta, ông đưa quân lên đường tham gia chiến đấu, giương cao lá cờ thêu sáu chữ vàng: “Phá cường địch, báo hoàng ân” (Phá giặc mạnh, báo ơn vua). Quân của ông đi đến đâu,giặc tan đến đó. Tháng năm năm 1285, ông cùng Chiêu Thành Vương và tướng Nguyễn Khoái đánh tan giặc ở Tây Kết. Sau đó ông tham gia chiến đấu với Trần Quang Khải, lập nên chiến công Chương Dương nổi tiếng và tiến quân về giải phóng Thăng Long. Quân giặc rút chạy. Ông được lệnh mai phục ở sông Như Nguyệt chặn đường thoát của giặc. Cánh quân chủ lực của địch rút chạy qua đây do Thái tử Thoát Hoan chỉ huy. Quân của Trần Quốc Toản đổ ra đánh rất mạnh, nhưng trong chiến thắng vẻ vang này, người anh hùng mới mười tám tuổi đầy hứa hẹn đó đã hy sinh. Được tin, vua Nhân Tông vô cùng thương tiếc, truy phục ông tước Vương và đích thân làm bài văn tế lễ.
Mười lăm tuổi, Trần Quốc Toản đã là danh tướng. Ông là người tiêu biểu cho lòng quả cảm. yêu nước của tuổi trẻ Việt Nam. Em tự hào chi đội của em được mang tên ông: chi đội Trần Quốc Toản.
Văn kể chuyện đề 10: Hãy kể một câu chuyện về một người có lòng trung thực, dũng cảm.
BÀI LÀM
(Chuyện Geogre Washington và chiếc rìu nhỏ)
Một trong những danh nhân thế giới được người đời ca tụng về đức tính trung thực là Tổng thống Geogre Washington của Mỹ. Không phải khi đã là Tổng thống, Geogre Washington mới được ca ngợi về đức tính trung thực mà ngay từ bé, ông đã có tính trung thực, dũng cảm. Chuyện về thời niên thiếu của ông rất thú vị.
Washington sinh tại Bridges Creek, tiểu bang Virginia vào ngày hai mươi hai tháng hai năm 1732, cha ông là một trại chủ giàu có. Một hôm, cậu bé Washington nghịch ngợm đã dùng một chiếc rìu nhỏ chặt cây hoa anh đào mà bố cậu rất quý. Khi bố cậu hỏi, cậu biết là việc mình làm sai thế nào cũng bị bố trách mắng, nhưng cậu vẫn dũng cảm nhận lỗi:
– Bố ơi, chính con đã chặt cây hoa anh đào, bố hãy phạt con đi.
Bố cậu tuy mất cây hoa anh đào yêu quý nhưng ông lại vui vẻ nói: “Con trai ngoan, con đã dũng cảm nói sự thật. Điều ấy khiến bố rất vui. Bố không trách phạt con, nhưng con phải nhớ trung thực là một đức tính tốt. Con phải biết phát huy nó;”
Washington ghi nhớ lời cha dạy và xem trung thực là nguyên tắc sống của mình, về sau, ông trở thành một người chính trực, một Tổng thống vĩ đại sống mãi trong lòng nhân dân Mỹ.
Từ xưa đến nay, trong cuộc sống cũng như trong truyện kể, kể cả truyện cổ tích, người trung thực luôn luôn được ca ngợi. Họ bao giờ cũng có bản lĩnh vượt mọi khó khăn trong cuộc đời. Họ làm được nhiều việc tốt và có khả năng giúp đỡ người khác. Bản thân họ là tấm gương đạo đức trong sáng. Bác Hồ đã dạy chúng em: khiêm tốn, thật thà, dũng cảm. Em nguyện noi gương Tổng thống Geogre Washington và thực hiện đúng lời dạy của Bác Hồ.
Văn kể chuyện đề 11: Em hãy kể câu chuyện về một người đã chiến thắng bệnh tật (em được nghe kể, đọc ở sách báo hoặc nghe thầy cô giáo kể).
BÀI LÀM
(Chuyện “Nữ kị sĩ trên xe lăn Trương Hải Địch ”)
Em đã được đọc nhiều truyện kể viết về cuộc đời của những người có nghị lực chiến thắng bệnh tật nhưng hầu hết họ đều là nam giới như thầy Nguyễn Ngọc Ký, nhạc sĩ Bết-tô-ven…. Tình cờ, em, xem được truyện kể về một nhà văn nữ, dịch giả Trương Hải Địch. Cô được mọi người tôn vinh là “Nữ kị sĩ trên xe tăng”.
Từ tấm bé, Trương Hải Địch cũng hồn nhiên vô tư như bao em nhỏ khác. Cô bé cũng xinh tươi, phơi phới như búp trên cành, như bao trẻ em trên đời. Khi Trương Hải Địch lên năm tuổi, bất hạnh đến với cô. Căn bệnh u cột sống tàn khốc đã hủy hoại cuộc sống của cô. Trương Hải Địch không còn được đến trường, không còn được chạy nhảy vui đùa như các bạn nữa. Mọi sinh hoạt hằng ngày của cô đều phải có bố mẹ ở bên chăm lo.
Nhìn các bạn nhỏ nhảy nhót, chơi đùa vui vẻ, Trương Hải Địch lại khóc nức nở. Để cô đỡ buồn khổ, bố mẹ cô mua cho cô rất nhiều đồ chơi đẹp. Bố mẹ cô yêu thương, chăm sóc, kể cho cô nghe nhiều câu chuyện hay để cô đỡ thấy thời gian dài trống trải. Dần dần, Trương Hải Địch cũng quên đi bệnh tật của mình. Cô tự chăm sóc mình phần nào để bố mẹ đỡ lo lắng.
Một hôm, lắng nghe đám bạn trao đổi với nhau về mơ ước của mỗi người, Trương Hải Địch cũng muốn bộc lộ hoài bão của mình. Thấy Trương Hải Địch tàn tật, phải ngồi xe lăn, mọi người có vẻ thờ ơ. Một người còn nói:
Người tàn tật mà cũng có ước mơ à!
Không hề phật ý. Trương Hải Địch cười và nói:
– Ước mơ của tôi là trở thành nhà văn để viết các câu chuyện thật hay cho các bạn nhỏ trên thế giới.
Mọi người xúc động sững sờ trước lòng dũng cảm của Trương Hải Địch. Từ đó, không một ai dám chế nhạo Trương Hải Địch là người tàn tật nữa. Để thực hiện ước mơ của mình, Trương Hải Địch bắt đầu tự học ở nhà. Cô ngồi trên xe lăn nhưng đã dịch được rất nhiều tác phẩm văn học nước ngoài. Mọi người rất khâm phục trước ý chí và nỗ lực làm việc của Trương Hải Địch.
Câu chuyện về nữ dịch giả Trương Hải Địch làm em vô cùng xúc động vàthán phục. Cô đã nêu cao tấm gương chiến thắng bệnh tật. Cô đã giành lại đóa hoa hồng tươi mát từ bàn tay của thần bệnh tật và chết chóc. Noi gương nữ văn sĩ, chúng em phải nỗlực học tập, phấn đấu trong cuộc sống để đạt mọi thành quả tốt đẹp.
Văn kể chuyện đề 12: Em hãy kể một câu chuyện về một người có tấm lòng nhân hậu, biết giúp đỡ bạn (chuyện người thật, được ghi nhận trong lịch sử, trong truyện kể).
BÀI LÀM 1
(Chuyện “Tình bạn cao cả của thầy đồ Lê Tăng Quýnh và nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu “)
Tài năng và tính cách cao thượng của con người là một nét đẹp chinh phục mọi tầng lớp nhân dân đôi khi đem lại những nhân duyên kì ngộ. Tình bạn của thầy đồ Lê Tăng Quýnh và nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đẹp như thơ, lung linh như truyện cổ tích. Chuyện thầy đồ Lê Tăng Quýnh đã cưới vợ cho bạn mình như sau.
Nguyễn Đình Chiểu sinh năm 1822, mất năm 1888 thường gọi là Đồ Chiểu, quê gốc Thừa Thiên — Huế, nhưng ông sống ở Gia Định, sau dời về Ba Tri (Bến Tre). Năm 1843, Nguyễn Đình Chiểu đỗ Tú tài. Năm 1848, ông đang học tập ôn thi để chuẩn bị dự kì thi năm Kỉ Dậu 1849 thì mẹ ông mất ở Gia Định. Nguyễn Đình Chiểu tạm gác giấc mộng công danh, bỏ thi, trở về nhà chịu tang mẹ. Dọc đường, vì quá thương mẹ, ông khóc đến nỗi mù cả hai mắt. Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ nổi tiếng với các tác phẩm Lục Vân Tiên, Ngư Tiểu y thuật vấn đáp, Dương Từ Hà Mậu. Tác phẩm Dương Từ Hà Mậu đã làm rung động lòng thầy đồ Lê Tăng Quýnh ở Cần Giuộc. Thế là Đồ Quýnh khăn gói đến Bến Tre, tìm gặp Đồ Chiểu để kết bạn. Ngay lần đầu gặp gỡ hai người đã trở thành bạn thân thiết của nhau. Cảm phục trước tài năng và đạo đức của Đồ Chiểu đông thời ái ngại cho Đồ Chiểu sống một mình, phòng đơn gối chiếc, Đồ Quýnh bèn tính chuyện cưới vợ cho bạn. Biết tính khảng khái của Đồ Chiểu. Đồ Quýnh âm thầm thu xếp công việc. Đồ Quýnh bày tỏ ý định của mình cùng em gái. Em gái Đồ Quýnh là cô Lê Thị Điền, một cô gái đẹp người đẹp nết dang tuổi kén chồng. Theo lời khuyên của Đồ Quýnh, cô Điền đóng giả nam nhi đến nhà Đồ Chiểu xin học. Hằng ngày tiếp xúc với Đồ Chiểu, cô thật sự kính phục con người tao nhã, tâm hồn chứa chan tình cảm cao đẹp với dân với nước của nhà thơ. Cô càng khâm phục tài năng của nhà thơ bao nhiêu, càng thương cảm số phận của nhà thơ mù mà sáng ngời khí phách hào kiệt bấy nhiêu. Cô Điền đã vượt qua bao toan tính thường tình của người đời đồng ý làm vợ Đồ Chiểu. Không bao lâu sau, Đồ Chiểu cưới em gái của Đồ Quýnh. Cô Điền đảm đang, tháo vát sát cánh bên chồng thậtxứng danh là “nội tướng” của nhà thơ lỗi lạc và em gái thầy Đồ Quýnh biết kính đạo, trọng nhân.
Chuyện Đồ Quýnh cưới vợ cho nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đẹp như truyện cổ tích, nên thơ thấm đượm tình bạn tri kỷ, tri âm. Đồ Quýnh giúp bạn cũng chính là kén cho em gái một người chồng có tư cách hơn người, tìm cho mình một người em rể danh nhân, đạo mạo. Em nghĩ nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu xứng đáng được hạnh phúc như vậy. Tình bạn của hai người được đi vào sử sách, trở thành giai thoại văn chương để đời sau chúng em thán phục, cảm động và học tập.
BÀI LÀM 2
(Mười năm cõng bạn đi học)
Bài chính tả tuần hai em đã được học viết theo nội dung bài báo “Mười năm cõng bạn đi học” của báo Đại đoàn kết, kể về một tấm gương giúp đỡ bạn thật cảm động.
Chuyện xảy ra ở xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Bạn nhỏ được báo tuyên dương là bạn Đoàn Trường Sinh. Sinh trong mười năm liền, đã cõng bạn Hanh đến trường. Tuyên Quang là một tỉnh miền núi, quãng đường từ nhà Sinh tới trường dài hơn 4 ki-lô-mét, vượt suối, khúc khuỷu, gập ghềnh. Sinh đã không quản ngại khó khăn, ngày ngày cõng bạn Hanh bị liệt hai chân, đến trường rồi về nhà. Tuy chỉ có vài dòng ngắn ngủi, chuyện kể trên làm em xúc động mãnh liệt. Em như thấy bạn Sinh chịu thương chịu khó giúp đỡ Hanh. Em thấy đường đồi, đá suối, dốc núi, nước chảy mà bạn Sinh vẫn dũng cảm vượt qua. Những ngày nắng ráo không nói làm gì, còn những ngày mưa dầm nước xiết thì sao? Điều đáng khâm phục hơn nữa là Sinh làm việc này không phải chỉ một ngày. Sinh cõng bạn trong mười năm liền. Không phụ lại tình cảm và công lao giúp đỡ bạn của Sinh, Hanh nhiều năm liền là học sinh tiên tiến, có năm Hanh còn tham gia Đội tuyển học sinh giỏi cấp huyện.
Suốt bậc Phổ thông, chúng em chỉ học mười hai năm, thế mà Sinh đã cõng Hanh mười năm. Ở góc trời miền núi xa xôi của tỉnh Tuyên Quang sáng ngời một tình bạn cao cả, cảm động như thế thật đáng khâm phục. Xin hãy cho em gửi tình cảm yêu thương, kính phục và trân trọng của em đến với cả hai anh.
Văn kể chuyện đề 13: Em hãy kể một câu chuyện về nhân vật có nghị lực (có thật trong lịch sử Việt Nam)
• Chú ý giới hạn đề bài:
– Chu đô: nhân vật có nghị lực là người có thật trong lịch sử.
Gợi ý tìm nhân vật:
– Mai An Tiêm trong “Sự tích quả dưa hấu”
– Sơn Tinh (Tản Viên).
BÀI LÀM 1
(Kể chuyện sự tích quả dưa hấu)
Mỗi độ xuân về, mọi nhà đều dâng hoa quả thờ cúng tổ tiên. Theo tục lệ từ ngàn xưa, bàn thờ ông bà của gia đình em cũng có một quả dưa hấu. Nhìn quả dưa hấu em nhớ đến ông Mai An Tiêm, một người có nghị lực và có công phát hiện, trồng giống dưa đỏ ngon lành này.
Mai An Tiêm vốn là một người bị bán làm nô lệ cho vua Hùng. Ông khỏe mạnh, khéo léo, chăm chỉ lao động lại có đức độ nên được vua Hùng tin yêu gả con gái cho. Từ khi trở thành con rể vua Hùng, cuộc sống của Mai An Tiêm trở nên giàu sang và có uy thế hơn trước. Song, không vì thế mà ông sao nhãng lao động. Ông tin vào luật nhân quả của nhà Phật, đã nói với vợ:
– Giàu sang này là nhờ ở kiếp trước cả.
Vợ Mai An Tiêm đem câu nói đó nói với vua Hùng. Hùng Vương cả giận, đày ông và gia đình ra bãi biển Thanh Hóa, vùng đất Nga Sơn ngày nay. Lúc ấy, vợ chồng An Tiêm đã có hai con: một trai một gái.
Bước chân lên đảo hoang vắng, chỉ nghe rừng cây lao xao và gió biên ào ạt, vợ An Tiêm vô cùng lo sợ, còn hai con bé bỏng thì òa khóc. An Tiêm bình tĩnh an ủi vợ:
– Nàng đừng lo, còn hai bàn tay này, ta còn làm lụng nuôi gia đình được.
Ông cùng vợ chặt cây dựng nhà và bắt tay vào việc khai khẩn đất hoang.
Một hôm, đang cuốc đất khai hoang, ông trông thấy một đàn chim từ phía Tây bay lại, nhả một số hạt đen trên nền cát ẩm. Ông theo dõi mấy ngày sau thì thấy hạt nảy mầm thành cây. Tuy không biết là cây gì nhưng ông cùng gia đình ra sức chăm bón cho cây nhanh tươi tốt. Rồi cây ra dây leo, bò lan đầy bãi, ra hoa, kết trái thành quả tròn đẹp. Quả chín có màu xanh đen thẫm, vân đen bóng mờ mờ. Mai An Tiêm bổ ra thấy ruột đỏ, ăn vào ngon ngọt và giải khát. Từ đấy, ông ra sức chăm trồng, lấy quả ăn, còn khắc tên mình vào quả, thả xuống biển. Các thuyền buôn bắt được, ghé đảo đổi lương thực, vật dụng cho ông để mua dưa. Ông trồng dưa hấu đầy khắp đảo và buôn bán với dân thuyền mà trở nên giàu có. Nhân dân khắp nơi hay tin, đổ xô về đảo khai hoang và trồng dưa hấu. Cái đảo hoang, nơi An Tiêm bị đày trở nên một vùng đất trù phú. Được tin đó, vua Hùng cho người mời ông về và giống dưa đỏ được phổ biến. Nhân dân ta tôn Mai An Tiêm là ông tổ nghề trồng dưa đỏ.
Trong hoàn cảnh bị đày trên đảo hoang, ông Mai An Tiêm vẫn bình thản đối mặt với mọi khó khăn, tự mình khai khẩn đất hoang để trồng trọt và nuôi sống gia đình, còn phát triển được giống dưa quý. Câu chuyện “Sự tích quả dưa hấu “mãi mãi là câu chuyện ấm áp đâu xuân để chúng em kính tưởng tổ tiên và biêt ơn ông Mai An Tiêm, người trồng giống dưa đỏ ngon lành này.
BÀI LÀM 2
(Kể chuyện sự tích Sơn Tinh – Tản Viên)
Truyện cổ tích kể rằng: Sơn Tinh là một vị thần đã giúp nhân dân ta chống lại lũ lụt. Sơn Tinh là người có thật, ông rất giỏi và kiên cường, rất có công trong việc giúp dân phòng chống bão lụt và trị thủy.
Sơn Tinh là nhân vật nổi tiếng thời các vua Hùng. Truyền rằng, ông nhà nghèo, nhờ cứu con vua Thủy Tề thoát chết mà được Long Vương tặng một chiếc gậy thần ước gì được nấy ông ngụ tại núi Tản, được nhân dân gọi là Tản Viên.
Vua Hùng thứ mười tám có một cô công chúa tên là Mị Nương, xinh đẹp tuyệt trần. Công chúa đến tuổi lấy chồng. Sơn Tinh và Thủy Tinh (con trai vua Thủy Tề) đều đến hỏi. Vua Hùng rất khó xử vì cả hai chàng trai đều rất giỏi. Cuối cùng, nhà vua nói:
– Ngày mai, ai đem được voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao đến sớm hơn sẽ được gả công chúa.
Sáng sớm hôm sau nhờ gậy thần, Sơn Tinh đem đủ lễ vật đến trước và đưa công chúa về núi Ba Vì ở Hà Nội ngày nay.
Thủy Tinh đến sau, biết Sơn Tinh đã cưới được Mị Nương, giận lắm. Thủy Tinh bèn cho nước dâng lên làm lụt, hô phong hoán vũ, sai lũ ba ba, thuồng luồng, quái vật đến đánh Sơn Tinh để đòi công chúa. Nhờ gậy thần giúp, nước dâng đến đâu, Sơn Tinh làm cho núi cao đến đấy ông lại cùng nhân dân dùng lưới, đinh ba, gậy gộc… giết hết lũ quái vật Thủy Tinh thua đau, đành rút quân về. Thủy Tinh căm hận Sơn Tinh, năm nào cũng dâng nước đánh Sơn Tinh. Sơn Tinh cùng nhân dân làm đê điều, đắp đập ngăn sông trị thủy, làm kè chống bão, chống lũ rừng và thủy triều dâng cao. Ông giúp dân chống lũ lụt, canh tác theo mùa màng để tránh nạn lụt hàng năm, Sơn Tinh có công lớn trong việc xây dựng nền nông nghiệp và thủy lợi nước ta. Trong nhiều năm, ông kiên trì cùng dân đắp đê ngăn lũ lụt, quyết bảo vệ mùa màng và tính mạng của nhân dân. Ông được nhân dân tôn làm thần, lập đền thờ ở núi Tản Viên. Chuyện về cuộc đời ông đã trở thành huyền thoại cổ tích.
b. Chủ đề ước mơ:
Uớc mơ đẹp
Văn kể chuyện đề 1: Em hãy kể một câu chuyện (đã nghe, đã đọc, được thầy cô giáo kể) nói về ước mơ đẹp.
Hướng dẫn chọn chuyện kể:
Chương trình học có hai câu chuyện:
– “Ở Vương quốc Tương Lai” (Xem bài mẫu T2 – tuần 8).
– “Lời ước dưới trăng” (chú dề ước mơ và nhân hậu) (Xem bài mẫu ở chủ đề nhân hậu.)
Chú ý:
Chuyện “Lời ước dưới trăng” thể hiện hai chủ đề: ước mơ và nhân hậu.
1. Chị Ngàn là một cô gái nhân hậu.
2. Thể hiện ước mơ: làng của Ngàn có tập tục dỗ thương: tục ước nguyện ở giếng làng. Điều đó thể hiện khát vọng cháy bỏng của dân làng, của các cô gái về một tương lai tốt đẹp. Khi kể, nội dung chuyện kể không thay đổi, chỉ thay đổi mở bài, kết luận .
– Mở bài: Giới thiệu tập tục nói lời ước của dân làng và nhân vật Ngàn trong câu chuyện.
– Kết bài: Nêu ý nghĩa của câu chuyện: nói lên ước mơ tốt đẹp của chị Ngàn dành cho cho Yên, mẹ chị Yên.
Các em có thể tham khảo mở bài, kết bài mẫu sau đây:
• Mở bài:
Mong muốn điều tốt lành cho chính mình và cho mọi người là ước mơ chính đáng của mọi tầng lớp nhân dân. Bạn nhỏ trong câu chuyện sau đã giúp chị Ngàn nêu được ước nguyện của mình.
• Kết luận:
Để biến lời ước của chị Ngàn trở thành hiện thực, em nghĩ bạn nhỏ và chị Ngàn cần vận động bà con láng giềng giúp mẹ chị Yên chữa bệnh. Em xin cầu chúc cho mẹ chị Yên được dân làng giúp đỡ mau chóng khỏi bệnh. Nếu em được ước theo tập tục nói trên, em sẽ ước cho cuộc sống ngày nay nâng cao hơn nhân dân ta sống bình yên, hạnh phúc hơn.
– Truyện cổ tích: “Viên ngọc ước”.
BÀI LÀM
(Kể chuyện “ Viên ngọc ước ”)
Có một câu chuyện kể về mọi ước mơ của con người đều được toại nguyện. Đó là chuyện “ Viên ngọc ước”
Chuyện xảy ra xưa lắm, vào năm trời hạn hán, thiên tai lũ lụt, mùa màng thất bát đói kém khắp nơi. Đê là con trai của một nhà nghèo đông con nên cậu phải đi ở đợ cho một lão trọc phú để giúp bố mẹ nuôi đàn em. Lão trọc phú giao cho Đê chăn dắt cả đàn trâu. Một hôm, do sơ xuất. Đê để lạc mất con trâu lão chủ quý nhất đàn. Cậu chạy bộ khắp nơi tìm kiếm nhưng tìm khắp nơi mà chẳng thấy trâu đâu. Đê sợ bị chủ phạt đền nên cậu không dám về nhà, lang thang khắp nơi đến lúc chân mỏi rã rời đành dừng lại nghỉ. Đê đang mơ màng chợt choàng tỉnh vì thấy đau nhói khắp mình. Hoá ra lũ quạtưởng anh đã chết nên kéo đến mổ xác. Đê vờ nằm im rồi bất ngờ tóm được một con. Quạ bật thốt tiếng người van xin:
– Xin tha cho tôi tôi sẽ biếu anh một vật quý.
Nói rồi, quạ nhả vào tay Đê một viên ngọc nhỏ sáng lấp lánh và dặn:
– Đây là viên ngọc màu nhiệm nhất thế gian. Anh muốn ước điều gì sẽ được toại nguyện. Xin hãy giữ gìn ngọc cẩn thận.
Rồi quạ bay di. Đê ngắm nghía viên ngọc, cậu buột miệng:
– Ngọc ơi, ta muốn tìm thấy con trâu bị lạc để trả lại cho ông chủ.
Ngay lúc ấy, con trâu quý của lão trọc phú lững thững đi đến trước mặt Đê. Đê mừng rỡ reo lên:
– Ôi quả là viên ngọc thần kì.
Đê cẩn thận cất viên ngọc quý vào túi rồi dắt trâu về trả cho lão chủ. Từ ngày có ngọc quý. Đê trở nên sung sướng, giàu có. Đê xây nhà, mua ruộng, tìm thầy dạy chữ cho các em. Không chỉ lo cho gia đình, Đê còn ước có nhiều gạo, tiền đê giúp bà con xóm giềng. Thời gian thấm thoắt, Đê trở thành một chàng trai khỏe mạnh, cha mẹ giục anh cưới vợ. Một hôm, chàng nói với viên ngọc:
– Ngọc ơi ta muốn có một người vợ đẹp.
Lời ước vừa dứt thì ngoài ngõ đã có tiếng bà mối đến bảo:
– Ở làng bên có nhà giàu đánh tiếng muốn gả con gái cho anh.
Đê theo bà mối đến xem mắt cô gái. Thấy cô gái mày ngài mắt phượng, dung nhan diễm lệ, chàng bằng lòng cưới cô gái về làm vợ. Cô vợ chẳng chịu làm gì chỉ theo chồng dò hỏi xem viên ngọc diệu kì cất chỗ nào. Rắp tâm muốn lấy cắp ngọc quý cô ta chuốc rượu cho chồng say bí tỉ. Trong cơn say, Đê lảm nhảm nói ra nơi để ngọc cho vợ biết. Cô vợ chờ chồng ngủ say mê man lấy trộm viên ngọc rồi lẻn về nhà cha mẹ đẻ. Đê tỉnh dậy, biết mất ngọc lại chẳng thấy vợ đâu, chàng sang nhà bố mẹ vợ để tìm, nhưng vừa đến cổng, bố mẹ vợ đã xua chó ra cắn đuổi.
Chán ngán cho nhân tình thế thái, Đê vừa đi vừa than:
– Lòng người qua khó dò! Vợ mình còn thế nữa là người thiên hạ!
Đột nhiên có một cụ già cầm một bông hoa trắng, một bông hoa đỏ đưa cho Đê. Cụ già bảo:
– Con đừng buồn, hãy mang bông hoa trắng này cài vào cửa nhà bố mẹ vợ, rồi đợi đến khi nào họ cần thì đưa bông hoa đỏ ra giúp. Lúc đó, con sẽ lấy lại được vợ và viên ngọc.
Đê chưa cả cảm ơn cụ già đã biến mất.
Sáng hôm sau vợ Đê thấy có bông hoa lạ cài cửa bông hoa thật đẹp, những cánh hoa lung linh kì ảo, hoa tỏa hương thơm ngát khắp nhà.
Mọi người ngửi hương thơm ấy đều khỏe khoắn hơn duy chỉ có vợ chồng lão nhà giàu cùng con gái bị đau đầu và ngứa mũi. Họ ra sức gãi, càng gãi, mũi càng sưng to và dài ra. Ba người vô cùng hoảng sợ vì cài mũi của họ không ngừng dài ra như cái vòi voi con. Lão nhà giàu lo sợ, vội cho người đi mời thầy thuốc nhưng không ai chữa được. Đê đợi cho nhà vợ hoảng hốt, rối ren gần như tuyệt vọng mới thủng thỉnh bước vào nhà vợ, chàng không nhịn nỗi cười khi thấy cái mũi kì dị của ba người. Chàng nói:
– Chỉ tại cha sai con gái lấy trộm ngọc của con mà ra nông nỗi này. Nếu cha trả ngọc, trả lại vợ cho con thì cái mũi sẽ lành lặn như cũ.
Lão nhà giàu đành phải ưng thuận. Đê đưa bông hoa đỏ ra cho họ ngửi. Chỉ trong chốc lát “cái vòi voi con” co lại, trở thành cái mũi nguyên hình như xưa.
Từ đó, vợ Đê ngoan ngoãn, nghe lời chồng, chăm chỉ làm ăn. Họ sống với nhau đầm ấm, thuận hòa. Vợ chồng Đê, nhờ viên ngọc ước, cứu giúp rất nhiều dân chúng khó khăn, nguy khốn.
Khi Đê đã là một cụ già râu tóc bạc phơ thì con quạ năm xưa bay đến kêu to:
– Quạ đây, quạ đây, mau trả ta viện ngọc! Trả ta viên ngọc!
Cụ Đê vội lấy viên ngọc trả lại cho quạ. Quạ ngậm viên ngọc, bay vút lên cao, biến mất. Từ đó đến nay, không biết bao nhiêu người đi tìm nhưng chưa ai tìm được viên ngọc ước ấy.
Nếu em có một viên ngọc ước như câu chuyện trên, em sẽ ước cho hành tinh Trái Đất của chúng ta mãi mãi tươi xanh và thanh bình, hạnh phúc.
Văn kể chuyện đề 2: Hãy kể một câu chuyện về một ước mơ đẹp giúp íchcho đời của một nhân vật có thật, ước mơ đó đã được thực hiện trong thực tế.
BÀI LÀM 1
(Kể chuyện “Anh em nhà Wright với ước mơ chế tạo máy bay”)
Ngày xưa, con người chỉ có thể đi từ nơi này đến nơi khác bằng cách đi bộ đi ngựa và ghe thuyền. Những phương tiện ấy ngày một được cách tân nhưng việc đi lại của con người vẫn tốn rất nhiều thời gian. Người ta bắt đầu mơ ước đến một phương tiện di chuyển nhanh hơn. Người ôm ấp ước mơ đó nhiều nhất và biến điều đó thành hiện thực là anh em nhà Rai (Wright).
Anh em nhà Rai sống ở bang Ohio, nước Mỹ. Người anh là Uynbua Rai (Wilbur Wright), sinh năm 1867, người em là Orơoen Rai (Orwell Wright) sinh năm 1871. Anh em nhà Rai từ nhỏ đã rất thông minh, thích lắp ráp đồ chơi, máy móc cơ khí và phi hành. Hai anh em đều ấp ủ ước mơ chế tạo ra một “chiếc xe bay”. Một hôm, cha đi công tác xa về mua cho hai anh em một món đồ chơi rất lạ, hai anh em chưa thấy bao giờ, đó là “chuồn chuồn bay” cấu tạo của “chuồn chuồn bay” rất đơn giản gồm một que và ba cánh quạt tạo thành, phía dưới có một sợi dây thun, chỉ cần kéo căng sợi dây thun rồi thả tay ra là “chuồn chuồn bay” bay được lên trời. Từ đó, ước mơ chế tạo một chiếc xe bay càng nung nấu hai anh em. Hai anh em đều nghĩ: sức mạnh nào đã thổi “chuồn chuồn bay” bay lên trời. Ước mơ cháy bỏng đó là niềm đam mê thôi thúc hai anh liên tục làm nhiều thí nghiệm. Hai mươi năm sau, sau bao vất vả tìm tòi, nghiên cứu, thử nghiệm, nguyện vọng đó của họ cuối cùng đã biến thành hiện thực. Năm 1903, anh em nhà Rai đã phát minh ra chiếc máy bay đầu tiên trên thế giới, thực hiện được mộng tưởng bay lên trời xanh của mình và của loài người.
Nhờ có ước mơ chân chính và cao cả, các nhà khoa học đã đem lại những thành tựu to lớn, phục vụ cho hạnh phúc của toàn nhân loại. Kế thừa ước mơ của anh em nhà Rai. em ước mơ mình học giỏi, trở thành phi công giỏi, lái máy bay bay khắp bầu trời, giúp mọi người có thể đi nhanh và an toàn.
BÀI LÀM 2
(Kể chuyện “ước mơ bay như chim và phát minh ra chiếc dù của Lu-i Lê-nô-măng”)
Khi người ta ấp ủ một ước mơ gì đó, đơn giản chỉ là người ta mơ ước thực hiện điều đó mà thôi, còn khi ước mơ đã kết trái rồi, có đem lại lợi ích như thế nào, con người cũng không tính toán trước hết được. Em nghĩ ước mơ bay như chim của Lu-i Lê-nô-măng là như thế.
Lu-i Lê-nô-măng sinh ra trong một gia đình trí thức người Pháp. Từ lúc nhỏ, Lu-i Lê-nô-măng đã mơ tưởng: “Nếu con người có thể biết bay như chim thì chăng cần phải làm cầu thang”. Khi ông nói với các bạn suy nghĩ đó của mình, mọi người đều cười, cho ông là mơ tưởng viển vông. Nhưng không vì thế mà ông từ bỏ ước mơ của mình. Trải qua nhiều năm nghiền ngẫm, nghiên cứu, thí nghiệm, năm 1783, Lê-nô-măng đã thiết kế ra chiếc dù có ý nghĩa thực dụng đầu tiên trên thế giới, ông quyết định làm thí nghiệm nhảy dù từ trên tháp cao. Ngày ông biểu diễn thí nghiệm, người ta kéo tới vây quanh tháp đông nườm nượp. Trước tiên, Lê-nô-măng buộc một hòn đá nặng hơn trọng lượng một con ngựa vào chiếc dù rồi thả nó rơi từ tháp cao. Mọi người rất sửng sốt vì chiếc dù không lao nhanh xuống mà từ từ rơi xuống mặt đất. Sau đó, Lê-nô-măng đeo dù nhảy ra từ tháp cao. Chiếc dù bung ra và ông bay như một con chim rồi đáp xuống mặt đất an toàn. Mọi người mừng rỡ, hoan hô vang dội. Thế là ước mơ bay được như chim của Lê-nô-măng thành hiện thực.
Ứng dụng của chiếc dù tiện lợi đến không ngờ: người ta làm dù để cứu thoát phi công và hành khách khi máy bay gặp nạn; người ta còn dùng dù để thả thực phẩm cứu trợ khi bão lụt, tai nạn xảy ra; dùng dù để đặt chân đến những vùng đất xa xôi chưa tiện đường đi để nghiên cứu, thám hiểm. Và trong quân đội các nước trên thế giới, binh chủng thiện chiến: lính nhảy dù ra đời… Còn nhiều ứng dụng khác của chiếc dù mà em không thể kể hết được.
Không phải chỉ có một mình Lê-nô-măng ước mơ bay được như chim. Jean Pière Blanchard (Giăng Pi-e Blăng-sa), người Pháp, cũng ước mơ như Lê-nô-măng, nhưng Blăng-sa đã chế tạo ra khinh khí cầu. Anh em nhà Rai cũng mong muốn bay như chim và chế tạo ra máy bay. Các thiết bị này đều rất hữu ích cho con người trong đời sống cũng như trong khoa học. Các nhà phát minh sáng chế thật đáng khâm phục. Em rất kính trọng những ước mơ và thành tựu của các nhà khoa học ấy.
Ước mơ viễn vông, phi lý
Văn kể chuyện đề 1: Em hãy kể lại câu chuyện “Điều ước của vua Mi-đát”em đã học.
BÀI LÀM
Ước muốn quá độ của con người là tham vọng xấu xa, phi lí. Kết quả của những điều ước tham lam ấy chỉ đem lại đau khổ mà thôi, dù cho điều ước ấy là của một ông vua.
Chuyện xảy ra từ thời xa xưa lắm ở xứ sở Hy Lạp. Một lần, thần Đi-ô-ni-đốt đi qua vương quốc của vua Mi-đát. Vị thần tặng vua một điều ước. Mi-đát là một ông vua rất tham lam nên nói ngay:
Xin thần ban phép cho tay tôi chạm vào vật gì, vật đó đều biến thành vàng.
Thần Đi-ô-ni-đốt gật đầu ưng thuận. Vua Mi-đát thử bẻ một cành sồi, cành đó liền biến thành vàng. Vua hái một quả táo quà táo đó cũng biến thành vàng. Nhà vua sung sướng vô cùng. Chỉ khi đến giờ ngự tiệc, nhà vua mới hiểu ra rằng mình đã xin thần Đi-ô-ni-đốt một điều ước kinh khủng. Tất cả những đồ ăn, thức uống, hoa quả trên bàn tiệc thơm phức, hấp dẫn vô cùng nhưng khi vua Mi-đát đưa tay vào để ăn thì mọi thứ đều biến thành vàng. Nhà vua không thể nào nuốt vàng để sống. Bụng đói cồn cào vua Mi-đát quỳ xuống cầu khấn thần Đi-ô-ni-đốt:
– Xin thần tha tội cho tôi. Xin người hãy lấy lại điều ước để tôi được ăn và sống.
Thẩn Đi-ô-ni-đốt hiện ra và phán:
– Nhà ngươi hãy đến sông Pắc-tơn mà tắm, phép màu sẽ biến mất và nhà ngươi sẽ rửa được lòng tham.
Mi-dát làm theo lời dạy của thần và thoát khỏi điều ước xuẩn ngốc, tham lam của mình. Tỉnh ngộ, nhà vua hiểu rằng, lòng tham không thể đem lại hạnh phúc.
Thực tế ngày nay cũng cho thấy lòng tham không đem lại cho con người hạnh phúc. Vì con người tham lam khai thác cây rừng mà hạn hán, lũ lụt xảy ra; vì con người tham lam tranh giành quyền lực bằng vũ khí mà chiến tranh tàn khốc xảy ra, còn làm ảnh hưởng đến môi trường sống, sức khỏe…. Câu chuyện kể trên là điều nhắc nhở con người cần hạn chế lòng tham của mình.
Văn kể chuyện đề 2: Em hãy kể một câu chuyện nói về ước mơ viễn vông, phi lí (chuyện kể em được học, đọc hay nghe thầy cô giáo kể).
BÀI LÀM
Đôi khi con người không bằng lòng với những gì mình đang có, họ sinh ra ước mơ điều nọ, điều kia. Nếu đó là những điều ước xa vời, viển vông thì nó chẳng những không đem lại lợi ích cho họ mà đem lại những mối lo toan, sợ hãi chán chường. Chuyện kể “Ba điều ước ” sẽ chứng minh điều đó.
Ngày xưa, có chàng trai khỏe mạnh tên là Rít làm nghề thợ rèn. Ngày nọ, chàng gặp một ông tiên cho chàng ba điều ước. Chàng nghĩ trên đời này chỉ có vua là hạnh phúc, giàu có nhất, thế là chàng ước mình được làm vua. Phút chốc, Rít thấy mình ở trong cung điện tráng lệ; quan quân, binh lính, hộ vệ ra vào khúm núm cung nghinh còn mình thì đai mũ sang trọng đang ngự ở bệ rồng. Sống trong lầu son gác tía, ăn đồ ăn cao lương mĩ vị, xem cung phi mĩ nữ múa hát mua vui, kẻ hầu người hạ tấp nập khiến Rít làm việc gì cũng nhọc mệt nên chàng đâm chán chường. Được mấy ngày, Rít bỏ cung điện ra đi thơ thẩn rong ruổi trên đường dài. Ngày kia, Rít gặp một đoàn người buôn bán giàu có. Rít bỗng nảy ý muốn mình có thật nhiều tiền. Điều ước thứ hai linh nghiệm tức khắc. Rít trở thành thương nhân giàu có tiền muôn bạc ức. Lần này thì Rít khổ thật sự vì tiền của Rít làm kẻ trộm tham lam dòm ngó. Chúng rình rập muốn cướp tiền của Rít. Rít sống trong cảnh lo sợ, tiền bạc cũng chẳng làm chàng vui. Chàng bỏ xứ sở buôn bán sầm uất đó, lang thang sang một vùng đất khác. Ngước nhìn những đám mây bồng bềnh trôi trên bầu trời, Rít đột nhiên ao ước được bay như mây. Điều ước cuối cùng ứng nghiệm. Chàng hay như mây đi khắp mọi nơi ngắm nhìn cảnh đẹp của quê hương đất nước và nhiều phong cảnh trữ tình khác. Bay mãi rồi cũng chán, chàng nhớ cảnh quê nhà và cái lò rèn đỏ lửa. Đám mây đưa chàng trở về nơi chôn nhau, cắt rốn của mình. Rít lại làm nghề rèn. Chàng rèn cuốc, rựa cho bà con phát nương, làm rẫy. Sửa một cái lưỡi cày hư, mài một lưỡi hái cũng làm chàng cảm thấy vui. Có chàng rèn dụng cụ bà con không phải đi xa mua dụng cụ nữa. Bà con yêu thương, quý trọng chàng vì chàng tuy không trồng lúa nhưng cái lò rèn của chàng hữu ích cho bà con xiết bao. Cuối cùng, Rít hiếu lao động có ích như thế nào và tình yêu của dân làng dành cho chàng chính là hạnh phúc quý giá nhất. Nó ở ngay trong đời sống hằng ngày của chàng, không phải mơ tưởng viển vông đâu xa.
Câu chuyện trên khẳng định ước mơ viển vông, phi lí không đem lại lợi ích thiết thực cho con người. Hạnh phúc của con người chính là niềm vui trong lao động, trong tình làng nghĩa xóm như Bác Hồ đã dạy chúng em: “Học tập tốt, lao động tốt, đoàn kết tốt”. Đó là cơ sở cho hạnh phúc chân chính của con người mà học sinh chúng em phải rèn luyện, tu dưỡng
c. Văn kể chuyện chủ đề về tài trí
Văn kể chuyện đề 1: Em hãy kể một câu chuyện cổ tích (trong chương trìnhđã học) ca ngợi về tài trí của con người.
Bài làm
Để xây dựng cuộc sống hạnh phúc, bình an, loài người luôn cần những nhân vật tài ba thao lược, có khả năng phi thường. Những người kiệt xuất đó đi vào chuyện kể dân gian với sắc thái li kì, được nhân dân yêu mến xây dựng hình tượng như những vị anh hùng cứu thế. Em xin được đưa mọi người về thời xa xưa, nơi non cao, ở đó dân tộc Tày của nước ta sinh sống, có ”Bốn anh tài”.
Ngày ấy, ở bản kia, có một chú bé nhỏ người nhưng ăn một lúc hết chín chõ xôi. Người dân đặt tên cho chú là Cẩu Khây, Cẩu Khây lên mười, sức mạnh đã bằng trai mười tám, mười lăm tuổi Cẩu Khây đã tinh thông võ nghệ. Hồi ấy, trong vùng có một con yêu tinh chuyên bắt người và súc vật. Làng bản trở nên tan hoang, tiêu điều, dân chúng bị yêu tinh giết hại nhiều không kể xiết. Thương dân bản, Cẩu Khây lên đường diệt trừ yêu tinh.
Cẩu Khây đi ngang qua một cánh đồng khô cạn Cẩu Khây thấy một cậu bé vạm vỡ đang đóng cọc, đắp đập, dần nước vào ruộng bằng nắm tay của mình. Mỗi quả đấm của cậu bé giáng xuống, cọc tre lún xuống cả gang tay. Tên cậu bé ấy là Nắm Tay Đóng Cọc. Nắm Tay Đóng Cọc hăng hái xin theo Cẩu Khây diệt yêu tinh.
Hai người tiếp tục đi thì nghe tiếng tát nước ầm ầm. Cả hai rất ngạc nhiên khi thấy một cậu bé đang lấy vành tai tát nước suối để tưới cho thửa ruộng cao bằng mái nhà. Nghe Cẩu Khây nói chuyện, Lấy Tai Tát Nước xin cùng hai bạn lên đường.
Đi được ít lâu, ba người gặp một cậu bé lấy móng tay đục gỗ thành lòng máng dẫn nước vào ruộng. Móng Tay Đục Máng sốt sắng xin được làm em út đi theo diệt yêu tinh.
Bốn anh tài tìm tới nơi yêu tinh ở. Bản làng vắng teo, chỉ còn mỗi bà cụ bị yêu tinh bắt chăn bò cho nó. Bà cụ nấu cơm cho bốn anh em ăn. Ăn xong, bốn cậu bé lăn ra ngủ. Sáng sớm yêu tinh đập cửa. Biết yêu tinh đánh hơi thấy thịt trẻ con mà đến, bà lão giục anh em Cẩu Khây chạy trốn, Cẩu Khây nói:
– Bà đừng sợ, anh em chúng cháu đến đây để bắt yêu tinh đấy.
Cẩu Khây hé cửa, yêu tinh thò đầu vào. Mắt nó xanh lè, lưỡi nó dài như quả núc nác. Nắm Tay Đóng Cọc đấm liền một cái làm gãy hết hàm răng của yêu tinh. Yêu tinh bỏ chạy. Bốn anh em cẩu Khây đuổi theo, cẩu Khây nhổ cây bên đường làm côn đánh yêu tinh. Yêu tinh đau quá thét lên, giông bão nổi lên ầm ầm, trời tối sầm lại. Yêu tinh phun nước ngập cả cánh đồng. Lấy Tai Tát Nước tát nước còn Móng Tay Đục Máng ngả cây khoét máng khơi dòng nước chảy đi. Phút chốc, mặt đất lại cạn khô. Yêu tinh thua, đành phải quy hàng. Từ đấy, bản làng được bình yên.
Câu chuyện cho em thấy lực lượng tài trí bảo vệ bình yên cho nhân dân chính là thanh thiếu niên. Em xin rèn luyện, học tập để trở thành thiếu niên khỏe mạnh, tháo vát, sẵn sàng cống hiến sức trẻ cho công trình xây dựng và bảo vệ trật tự an ninh của đất nước; xứng đáng với lời kêu gọi của Tố quốc: “Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên.”.
Văn kể chuyện đề 2: Hãy kể một câu chuyện (trong chương trình em đãhọc) về một nhân vật tài trí lỗi lạc có thật trong lịch sử, trong thời đại ngày nay
Hướng dẫn chọn chuyện kể:
– “Ông Trạng thả diều” (Tập đọc 4 – tuần 11).
– “Anh hùng Lao động Trần Đại Nghĩa” (Tập đọc 4 — tuần 21).
– “Nhà toán học Pu-xoun vù món quà tặng cha” (Luyện từ và câu bài “Dấu gạch ngang” Tuần 23).
Chú ý: Các em có thể đọc thêm về tiểu sử và sự nghiệp của các nhân vật trên trong tác phẩm “Danh nhân Lịch sử Việt Nam” (NXB Giáo dục); “Thời niên thiếu những nhân vật kiệt xuất” (NXB Mĩ thuật).
BÀI LÀM 1
(Kể chuyện “Ông Trạng thả diều ”)
Danh nhân hào kiệt nước ta đời nào cũng có nhưng nổi tiếng thần đồng đỗ đạt Trạng Nguyên khi tuổi còn thiếu niên chỉ có có duy nhất ông Trạng Hiền.
Vào đời vua Trần Thái Tông, có một gia đình nghèo sinh được một người con trai đặt tên là Nguyễn Hiền. Hiền thông minh, dĩnh ngộ, từ nhỏ đã biết tự mình làm diều chơi và rất say mê thả diều. Lên sáu tuổi, chú học một ông thầy đồ trong làng. Thầy rất kinh ngạc vì Hiền học một biết mười lại có trí nhớ lạ thường. Hiền vừa đi học, vừa chơi diều vẫn thuộc làu làu cả hai mươi trang sách. Vì nhà quá nghèo nên Hiền phải bỏ học. Ban ngày, Hiền đi chăn trâu và mặc trời mưa nắng thế nào cũng đứng ngoài lớp nghe giảng nhờ.
Tối đến, Hiền đợi bạn học xong thì mượn vở về học bài. Đèn sách của chú không có gì ngoài vở chính là lưng trâu, nền cát, bút là ngón tay hay mảnh gạch vỡ, đèn là vỏ trứng thả đom đóm vào trong. Nghèo khổ và vất vả như thế nhưng tài học của Hiền rất xuất sắc. Bài văn thơ phú của Hiền rồng bay phượng múa, ý tứ sâu sắc, điển tích xác đáng khiến bạn và thầy rất nể phục. Bận chăn trâu, bận học nhưng Hiền vẫn đủ thời gian chơi diều, cánh diều của Hiền vẫn bay cao, tiếng sáo diều vi vút tầng mây.
Rồi vua mở khoa thi, Hiền đỗ Trạng Nguyên khi mới mười ba tuổi. Đó là Trạng Nguyên trẻ nhất nước ta.
Ông Trạng Nguyễn Hiền vừa là người có tài năng lỗi lạc, vừa là người có ý chí kiên trì vượt khó. Ông là tấm gương sáng cho mọi thiếu nhi noi theo. Em hứa cố gắng học tập để đỗ đạt thành danh, cống hiến khả năng của mình để xây dựng Tổ quốc.
BÀI LÀM 2
(Kể chuyện “Anh hùng Lao động Trần Đại Nghĩa”)
Năm 1972, đế quốc Mỹ đem bom B52 tấn công Thủ đô Hà Nội và một số vùng ven Thủ đô nhằm làm suy giảm lực lượng hậu phương nước ta trong kháng chiến chống Mỹ. Máy bay B52 của Mỹ được mệnh danh là “pháo đài bay”, bất khả xâm phạm, gần như chưa một phi cơ tiêm kích nào đối địch được và chưa bao giờ bị bắn rơi. Nhưng trên bầu trời miền Bắc lúc ấy, “pháo đài bay” của Mỹ lần đầu tiên chịu gãy cánh, rơi trên đất miền Bắc Việt Nam. Người làm nên kì tích đó chính là anh hùng Lao động Trần Đại Nghĩa.
Giáo sư Trần Đại Nghĩa tên thật là Phạm Quang Lễ, ông sinh năm 1913 và mất năm 1997. Quê hương ông ở tỉnh Vĩnh Long, miền Tây Nam Bộ. Ông được gia đình nuôi ăn học chu đáo. Năm 1935, sau khi học xong bậc Trung học ở Sài Gòn, ông sang Pháp du học, ông là người thông minh, say mê khoa học và có khả năng học tập, làm việc đáng kinh ngạc. Ông theo học cả ba ngành kĩ sư cầu cống, kĩ sư điện, và kĩ sư hàng không. Không chỉ làm việc cho chuyên ngành mình đã theo học, ông còn nghiên cứu tỉ mỉ kĩ thuật chế tạo vũ khí.
Ông gặp Bác Hồ trên đất Pháp, cảm phục đức độ và hoài bão giải phóng dân tộc của Bác, nghe theo tiếng gọi của trái tim người con Việt, năm 1946, ông rời bỏ cuộc sống đầy đủ tiện nghi ở nước ngoài, theo Bác Hồ trở về nước. Ông được Bác Hồ đặt tên mới là Trần Đại Nghĩa và giao nhiệm vụ chế tạo vũ khí phục vụ công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Ông đảm trách chức vụ Cục trưởng cục Quân giới, lãnh đạo và cùng các đồng sự, chiến sĩ miệt mài nghiên cứu, chế tạo vũ khí có sức công phá lớn như súng ba-dô-ca, súng không giật, bom bay tiêu diệt xe tăng và lô cốt của giặc. Khi Mỹ dùng máy bay B52 bắn phá, thả bom trải thảm miền Bắc, ông nghiên cứu cải tạotên lửa phòng không, nâng chiều cao quỹ đạo bay của đạn tên lửa, bắn rơi máy bay B52 của Mỹ, buộc đế quốc Mỹ phải ngừng tấn công miền Bắc, tham dự và thực hiện hội nghị đàm phán Pa-ri năm 1973, lập lại hòa bình tạm thời ở Việt Nam cho đến ngày giải phóng dân tộc 1975. Chiến công bắn rơi máy bay B52 Mỹ của bộ đội phòng không Việt Nam gây tiếng vang chấn động thế giới, là công sức đóng góp to lớn của Giáo sư Trần Đại Nghĩa. Bên cạnh những cống hiến xuất sắc cho sự nghiệp quốc phòng, Giáo sư Trần Đại Nghĩa còn có công lớn trong việc xây dựng nền khoa học trẻ tuổi của nước nhà. Ông là Chủ nhiệm ủy ban Khoa học và Kĩ Thuật nhà nước trong nhiều năm liền. Năm 1948, ông được phong Thiếu tướng. Năm 1952, ông được tuyên dương Anh hùng Lao động, được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh và nhiều huân chương cao quý.
Để ghi nhớ công ơn to lớn của ông đối với Tổ quốc, để tỏ lòng thán phục và tự hào về tài năng của Giáo sư Trần Đại Nghĩa, tên ông được dành đặt cho các trường bậc Trung học, nơi đào tạo các học sinh giỏi cho đội tuyển Quốc gia. Học sinh chúng em phải chăm chỉ học tập và học xuất sắc đế kế tục sự nghiệp khoa học của Giáo sư Trần Đại Nghĩa.
Văn kể chuyện đề 3: Hãy kể một câu chuyện (đã nghe, đã đọc) về một nhân vật tài trí lỗi lạc.
BÀI LÀM 1
(Kể chuyện kể về nhà văn hóa, nhà toán học lỗi lạc Lương Thế Vinh)
Một trong những Trạng Nguyên giỏi nhất nước ta thời trước là ông Lương Thế Vinh.
Lương Thế Vinh sinh năm 1442, người thôn Cao Hương, xã Thiên Bảo (nay là thôn Cao Phương, xã Liên Bảo, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định). Ngay từ nhỏ, ông đã nổi tiếng thông minh, sắc sảo, được xem là thần đồng, học đâu nhớ đấy. Thuở nhỏ, gia đình Lương Thế Vinh nghèo, nhà ông làm nghề nông, không đủ ăn nên cha mẹ ông phải vay nợ phú ông. Ngày nọ, phú ông đến nhà Lương Thế Vinh đòi nợ. Cha mẹ Vinh đi vắng cả, chỉ có Vinh đang chơi nặn đất với bạn. Phú ông hỏi:
– Bố mẹ mày đi đâu?
Lương Thế Vinh cười trả lời:
– Bố tôi đi giết người sống, mẹ tôi đi cứu người chết.
Phú ông giật mình, gặng hỏi nhưng Lương Thế Vinh không đáp. Tò mò thôi thúc, phú ông hứa:
– Nếu mày nói thật, ta sẽ xóa hết nợ cho!
Vinh rất khôn ngoan, Vinh nói:
– Nếu vậy phải có bằng cớ. Xin ông hãy ghi dấu vân tay vào cái bát đất này.
Phú ông làm theo, Vinh trả lời:
– Bố tôi đi nhổ mạ, mẹ tôi đi cấy lúa.
Mấy hôm sau, phú ông lại đến đòi nợ. Vinh đem cái bát đất ra đối chứng, dấu vân tay vẫn còn nguyên vẹn, phú ông đành than thở và khen ngợi:
– Ngươi còn bé thế này mà đã có cơ mưu như vậy, ngày sau tất làm nên bậc danh thần.
Năm hai mươi hai tuổi, ông thi đỗ Trạng Nguyên, nên còn có tên gọi là Trạng Lường. Lương Thế Vinh là quan đại thần của triều đình, rất giỏi về nho học và là người không ngừng học tập trong thực tế. Ông thường về nơi có tranh chấp ruộng đất, đo đạc đất đai, vẽ và tính toán cụ thể, giúp nông dân hòa giải việc mâu thuẫn. Thực nghiệm vất vả, ông đã tìm ra các quy tắc tính toán diện tích các thửa ruộng có hình dạng khác nhau. Ông tìm ra cách tính ẩn số, bình phương khai phương… và viết thành cuốn Đại thành toán pháp. Ông giữ các chức quan giáo dục, lâm Hàn lâm viện thị giảng, Nhập thị kinh diên, làm tư vấn ở Sùng Văn Quán, giữ chức Sái phu (sửa chữa và bình phẩm thơ văn) trong hội Tao Đàn của vua Lê Thánh Tông, ông không ham công danh phú quý, tính tình cương trực, thẳng thắn, hóm hỉnh, khôi hài. Khi về già, ông sống bình dị ở quê hương. Lịch sử ghi nhận ông là nhà văn, nhà toán học, nhà nghiên cứu Phật học, nhà giáo tận tụy, trang nghiêm của sĩ tử và nhân dân.
Lương Thế Vinh chẳng những là một Trạng Nguyên tài giỏi mà còn là một nhân tài kiệt xuất, hết lòng vì dân, vì nước. Em rất tự hào được học tập trong ngôi trường mang tên ông.
BÀI LÀM 2
(Kể chuyện kểv ề Bill Gates)
Hôm nay em nhận được một lá thư rất vui. Trong thư bạn kể cho em nghe về Bill Gates, người sáng lập ra tập đoàn Microsoft nổi tiếng thế giới.
Bill Gates là doanh nhân nổi tiếng người Mỹ, người đi tiên phong trong lĩnh vực phần mềm máy vi tính. Ông đã sáng lập ra tập đoàn Microsoft, công ty phần mềm lớn nhất thế giới với hệ điều hành MS DOS và phần mềm Windows. Nhờ hệ điều hành này, loài người có những bước tiến bộ đột phá về máy tính giúp ích cho nghiên cứu, thám hiểm, y học rất nhiều. Bố mẹ Bill Gates đều là những người trí thức, tài giỏi. Thuở bé, Bill Gates đã nổi tiếng thông minh xuất chúng. Khi mới bảy tuổi, cậu bé Bill Gates đã thích đọc sách về khoa học công nghệ. Cuốn “Bách khoa tri thức thế giới” là một trong những cuốn sách mà lúc nhỏ Bill Gates yêu thích. Một lần, Bill Gates phát hiện máy vi tính ở phòng máy, từ đó, cậu bắt đầu suy nghĩ về vật hình khối ấy. Thay vì gõ phím để máy thực hiện các điều mình muốn tìm biết, Bill Gates ưu tư về nguyên tắc làm việc của máy tính, cậu luôn suy nghĩ: vì sao máy tính có tốc độ làm việc nhanh như vậy. Tự mình suy nghĩ và nghiên cứu, cậu đắm mình trong phòng máy hàng giờ, hàng ngày. Bill Gates tìm kiếm tài liệu có liên quan đến máy tính, phân tích và sáng tạo. Chẳng bao lâu, Bill Gates trở thành một chuyên gia về máy tính. Vừa sáng tạo vừa kinh doanh, Bill Gates là “người khổng lồ” trong lĩnh vực công nghệ phần mềm máy tính trên thế giới.
Ngày nay chúng em có thể gõ phím máy tính để sử dụng chức năng tìm kiếm của nó trên mọi lĩnh vực. Biết sử dụng máy vi tính một cách tích cực, em có thể tự học, tự rèn rất nhiều. Giải trí bằng các chương trình trò chơi trên máy vi tính có nhiều lợi ích nếu chúng em biết tự chủ học hỏi thay vì say mê quên học. Em hết sức biết ơn ông Bill Gates đã sáng lập ra công ty phần mềm hữu dụng như thế. Em sẽ cố gắng học tin học thật giỏi để có thể trở thành kĩ sư công nghệ phần mềm sau này.
d. Văn kể chuyện chủ đề: Vẻ đẹp muôn màu
Văn kể chuyện đề: Hãy kể một câu chuyện (em đã được nghe, được đọc)ca ngợi cái đẹp hay phản ánh cuộc đấu tranh giữa cái đẹp với cái xấu, cái thiện với cái ác.
Phân tích đề:
– Mệnh lệnh đề: kể một câu chuyện (văn kể chuyện).
– Chủ đề truyện kể:
1. Ca ngợi cái đẹp.
2. Phản ánh cuộc đấu tranh giữa cái đẹp với cái xấu.
– Giới hạn đề bài:
• Có thể chọn một trong hai chủ đề trên khi lựa chọn nội dung câu chuyện.
• Chuyện em đượcnghe, được đọc nên có thể kể những chuyện ngoài chương trình học.
• Câu chuyện là truyện kể, được ghi trong tác phẩm, văn bản.
Gợi ý:
1. Các truyện ngợi ca cái đẹp:
– Cái đẹp của tự nhiên (“Chim họa mi ” – Truyện cổ An-đéc-xen).
– Cái đẹp của phẩm chất con người (“Cô bé Lọ Lem ” – Truyện Co Grim, “Cô gái nói ra hoa, ra ngọc” – Truyện cổ Việt Nam).
– Truyện giáo dục về cái đẹp, cái xấu (“Con vịt xấu xí” – Truyện An-đéc-xen).
2. Các truyện nói về cuộc đấu tranh giữa cái đẹp với cái xấu, cái thiện với cái ác:
– “Tấm Cám, Sọ Dừa”(Truyện dân gian Việt Nam)
– “Cây Khế” (Xem bài mẫu đề số 1).
– “Cây tre trăm đốt” (Đềsố 3 – bài làm 2).
– “Gà trống và Cáo”(Xem bài mẫu tiết 1 – tuần 8).
BÀI LÀM 1
(“Cô gái nói ra hoa, ra ngọc” – Truyện cổ Việt Nam)
Giải nhất cuộc thi kể chuyện cổ tích thường niên của trường em năm nay thuộc về lớp bốn A. Câu chuyện đạt giải là chuyện “Cô gái nói ra hoa, ra ngọc ” – truyện cổ Việt Nam. Chuyện kể về một cô gái hiền lành, nhân hậu được đền bù xứng đáng.
Ngày xưa có một cô béđẹp người, đẹp nết; cô hiền lành, nhân hậu và đảm đang việc nhà. Cô bé sớm mồ côi mẹ, phải sống với bố và mẹ kế. Bà mẹ kế hung dữ có một cô con gái riêng. Bố cô làm lụng nuôi sống gia đình chẳng để ý đến bà vợ kế đanh ác hà hiếp con gái. Bà mẹ kế cưng chiều cô con gái riêng vừa xấu người vừa xấu nết bao nhiêu thì đày đọa con chồng bấy nhiêu. Cô bé mồ côi ấy làm tất cả việc nhà và còn phải gánh nước, chặt củi… toàn những việc nặng nhọc. Với bản tính hiền lành và rất giỏi việc nhà, cô bé ấy chịu thương chịu khó lẳng lặng làm tất cả không than vãn một lời, cô thương bố vất vả nặng nhọc nên không muốn bố biết tí gì. Không chỉ thế, cô bé đối xử với mọi người một lòng thương yêu, hòa nhã. Trước hai mẹ con bà mẹ kế đỏng đảnh và ác độc, cô bé im lặng làm việc, chẳng nói một lời.
Cho đến một hôm, trời nắng chang chang, mặt đường như bốc lửa, cô múc đầy hai thùng nước toan đặt gánh lên vai để gánh về nhà thì có một bà lão gây còm, héo hắt, ăn mặc rách rưới đi về phía cô. Bà lão xin cô nước uống. Vội vàng, cô thả cây đòn gánh xuống sân giếng, dìu bà lão ghé vào bóng cây gần giếng. Mắt bà lão kèm nhèm, mặt mũi đen xì bụi đất, người bà lão bốc mùi hôi thối. Cô ái ngại xót thương bật thốt:
– Nắng nóng quá! Bà ngồi tạm đây, con múc nước giếng mới sạch và mát cho bà nhé!
Nói đoạn, cô quảy gánh trở về giếng nước. Cô múc lên một gàu nước mát, đến cạnh bà lão:
– Bà ạ,chẳng có một cái ly, cái chén gì ở đây cả. Tay con rửa sạch rồi, con vốc nước mát cho bà uống nhé!
An cần, cô dùng tay vốc nước đưa lên miệng bà lão. Bà lão chép môi uống nước. Phải vài lần như thế, bà lão mới qua cơn khát. Bà lão thở dài khoan khoái:
– Bà đỡ mệt rồi. Quả tiếng đồn không sai, cô quả là một cô bé hiền lành, đôn hậu.
Bà lão cầm đôi tay nhỏ bé của cô:
– Con sẽ trở nên xinh đẹp và ta ban cho con một phép màu: mỗi lời con thốt từ miệng sẽ nở ra hoa và ngọc bởi tấm lòng của con chính là tinh hoa thơm ngát dâng đời và vốn quý ngọc ngà của nhân loại.
Chớp mắt, bà lão hoá vầng hào quang, biến mất. Cô bé ngẩn ngơ tưởng như mộng như mơ. Nhìn gánh nước, cô sực tỉnh quảy gánh về nhà. Vềđến nhà, cô nghe mụ dì ghẻ chì chiết:
Có mỗi gánh nước, mày trốn biệt ngoài giếng làm gì mà giờ này mới gánh về.
Cô lễ phép:
– Thưa dì…
Chưa nói được lời thưa, hai mẹ con bà mẹ kế và chính cô vô cùng kinh ngạc khi thấy từ miệng cô những đóa hoa thơm ngát và những viên ngọc lấp lánh rơi ra. Bà mẹ kế vặn hỏi, cô thật thà kể lại câu chuyện mình gặp bà lão ăn xin. Trưa hôm sau, bà mẹ kế bảo cô để cho cô chị con riêng của bà đi gánh nước. Cô chị lười biếng nào muốn làm cái chuyện nặng nhọc ấy nhưng thấy cô em trở nên xinh đẹp nên cũng muốn gặp bà lão. Cô chị múc nước vào thùng xong thì bà lão xuất hiện. Bà lão cũng phều phào mấy tiếng xin nước uống. Cô chị ghê tởm nhìn bà lão:
– Bà chân tay dơ bẩn thế này uống nước trong thùng làm tôi mất công múc thùng nước khác bây giờ. Gàu đây, bà tự múc nước mà uống.
Bà lão khua gậy, lần đi,miệng lẩm bẩm:
– Người đâu mà độc ác, dữ dằn. Ngươi sẽ nhận hậu quả vìlòng dạ ích kỉ, độc ác của mình.
Cô chị vội vã gánh nước về nhàđể tránh xa bà lão dơ bẩn. Vừa đặt gánh xuống, bà mẹ đon đả:
– Sao hả con, con có gặp bà già đó không?
Cô chị ngúng ngấy, trề môi:
– Xì…
Cô vừa “xì” một tiếng, một mùi hôi thối tanh nồng từ miệng cô bốc ra và rắn, rết, cóc, nhái nhảy ra từ miệng cô. Hai mẹ con hốt hoảng nhảy tránh rắn rết. Cô chị bụm lấy miệng, càng than khóc thì rắn rết, cóc nhái lại càng nhảy ra, lổm ngổm đầy nhà. Xóm giềng không chịu nổi rắn rết nhảy ra từ miệng cô con gái riêng bà mẹ kế. Ai nấy đều lánh xa họ. Tủi hổ, hai mẹ con dắt díu nhau đi đâu mất tăm. Cô bé mồ côi hiền đức đem số ngọc rơi ra bán đi lấy tiền nuôi cha già và bà con nghèo khổ. Tiếng lành đồn đến tai Hoàng tử, Hoàng tử về đến làng. Chàng nhìn thấy nhan sắc thùy mị dịu dàng của cô sinh lòng yêu mến và cưới cô làm vợ.
Câu chuyện ca ngợi cô bé mồ côi hiền lành nhân đức và răn đe những ai ăn ở độc ác, bất nhân. Những hoàn cảnh đau khổ, bất công ngày nay vẫn tồn tại dù xã hội loài người đã tiến bộ,bình đẳng rất nhiều. Em sẽ học tập, rèn luyện tính cách nhân hậu, biết chia sẻ với người nghèo khổ để góp phần nào công sức nhỏ bé của em làm giảm đi những đau khổ, bất công của xã hội.
BÀI LÀM 2
(“Tấm Cám” – Truyện dân gian Việt Nam)
Chiến đấu với cái ác,cái xấu để giành lại hạnh phúc chân chính là cuộc đấu tranh của cô Tấm trong câu chuyện dân gian “Tấm Cám”.
Ngàyxưa, có đôi vợ chồng nọ sinh một cô con gái ngoan hiền, đặt tên là Tấm. Năm Tấm lên mười tuổi, mẹ Tấm mất. Bố Tấm cưới một bà vợ kế. Bà mẹ kế của Tấm có một cô con gái riêng tên Cám. Cám lười nhác, tính tình đỏng đảnh, được mẹ cưng chiều nên chỉ rong chơi không làm gì cả. Tấm bị mẹ kế bắt nạt, hành hạ đủ điều, làm đủ việc nhà: giặt giũ, cơm nước, chăn trâu…
Một hôm, mẹ kế bảo cả hai chị em Tấm Cám đi bắt cá. Tấm chăm chỉ mò cua, bắt cá nên được một giỏ đầy. Cám cả buổi chỉ rong chơi nên chả có con nào. Đểtranh công của Tấm, Cám nghĩ cách lấy cá của Tấm, cô ta bảo Tấm:
“Chị Tấm ơi, chị Tấm!
Đầu chị lấm,
Chị hụp cho sâu
Kẻo về mẹ mắng”
Tấm tưởng thật, nghĩ mình mò tôm bắt cá mình mẩy dính bùn sình nên xuống sông tắm cho sạch. Ởtrên bờ, Cám trút cá của Tấm sang giỏ của mình rồi về nhà trước. Tấm tắm rửa xong lên bờ thấy giỏ chỉ còn một con cá bống bé xíu. Về đến nhà,Tấm buồn rầu chịu mẹ kế mắng. Tấm đem con cá bống thả xuống giếng nuôi. Mồi bữa cơm, Tấm nhịn bớt đem cơm ra giếng cho cá bống ăn:
“Bống bống bang bang
Bống bống bang bang
Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta
Chở ăn cơm hâm cháo hoa nhà người ”
Bống bơi lên ăn cơm rồi lặn xuống đáy giếng, một thời gian sau, mẹ con Cám rình bắt cá Bống ăn thịt. Cám đem xương cá Bống vứt ở ngoài sân. Trưa hôm đó, chăn trâu về, Tấm đem cơm cho Bống. Tấm gọi Bống mãi chẳng thấy Bống đâu chi thấy một cục máu đỏ nổi lên mặt nước. Thương Bống, Tấm ôm mặt khóc. Bụt hiện ra bảo:
– Con đem xương cá Bống chôn ở bốn góc giường, đừng vứt đi đấy!
Tấm vâng lời nhặt xương Bống bỏ vào hũ chôn như lời Bụt dặn.
Ngày nọ,nhà vua mở hội. Nhân dân cả nước nô nức lụa là, xe ngựa đi dự hội. Mẹ kế đồ hai thúng thóc, một thúng đậu trộn lẫn bắt Tấm nhặt bao giờ nhặt xong mới được đi dự hội. Tấm nhìn thúng đậu, òa khóc. Bụt hiện ra, gọi chim đến, sai chim nhặt thóc và đậu giúp Tấm. Bụt sai Tấm đào chân giường chỗ chôn xương Bống đem hũ ra. Lạ thay, mấy cái hũ đựng xương Bống ngày trước bây giờ đựng toàn quần áo, lụa là, trang sức, hài thêu. Bụt bảo Tấm thay quần áo ấy đi dự hội. Tấm mặc đồ đẹp, đeo vòng vàng, đi hài vào.
Cô Tấm thùy mị nết na hằng ngày vốn đã xinh nay còn trở thành người đẹp như tiên giáng trần. Tấm đến hội ,được vua đón tiếp ân cần. Vui hội xong,Tấm xin vua ra về. Tấm đi qua cầu ao đánh rơi một chiếc hài, quân lính nhặt được dâng vua. Tấm về nhà cất quần áo ở hũ chôn ở giường. Tấm không dự hội nữa vì hài thiếu mất một chiếc. Mấy ngày hội liền, vua trông mong Tấm đến dự nhưng không thấy Tấm đâu. Vua buồn rầu và ra lệnh cho quan quân tổ chức thư hài, ai đi vừa chiếc hài thêu đó sẽ được làm hoàng hậu. Mọi cô gái đổxô đi thử hài. Đểngăn Tấm đi thử hài,bà mẹ kế lại đổ thóc chắc vào đống lép, bắt Tấm sàng sẩy, nhặt ra. Bụt lại hiện lên gọi chim đến nhặt giúp. Vì phải thu dọn thóc và lép cho gọn gàng, Tấm đến sân dinh muộn, suýt tí nữa thì quan quân mang chiếc hài sang làng khác. Cô Tấm ướm bàn chân bé nhỏvào vừa in chiếc hài thêu xinh đẹp. Vua rước Tấm về Hoàng cung, phong làm Hoàng hậu. Tấm vốn hiền hậu, xinh đẹp, nết na,vua rất đẹp lòng và yêu Tấm lắm. Đốn ngày giỗ cha, Tấm xin vua về nhà cúng giỗ. Bà mẹ kế bảo Tấm trèo cau bẻlấy một buồng bày lễ cúng, Tấm vâng lời. Khi Tấm trèo lên câycau,hai mẹ con dì ghé chặt cho cau ngã. Tấm nghe tiếng chặt cau liền hỏi vọng xuống:
– Dì làm gì dưới gốc cau vậy?
Mụ dì ghẻ nói dối:
– Dì đuổi kiến cho con đấy!
Cau ngã, Tấm rơi xuống ao chết. Dì ghẻ lấy áo quần của Tấm cho Cám mặc rồi đưa Cám vào triều thế chị, nói dối là Tấm bỏ đi đâu mất rồi. Cám xấu xí, người bẩn và hôi, vua rất buồn bực, không ngó ngàng gì đến Cám. Tấm chết oan, hồn biến thành con chim vàng anh đến hoàng cung, hót bên song cửa. Vua buồn bực, ngắm Vàng Anh tự dưng thấy lòng nhẹ nhõm, vua bảo:
“Vàng ảnh vàng anh,
Cóphải vợ anh
Chui vào tay áo”
Vàng Anh bay lên chui ngay vào tay áo vua. Vua yêu vàng anh lắm, truyền lính làm một cái lồng đẹp, suốt ngày vui với Vàng Anh. Vàng Anh thấy Cám giặt áo cho vua, bèn hót:
“Giặt áo chồng tao
Phải giặt cho sạch,
Phơi áo chồng tao
Phải phơi bằng sào
Chớ phơi bờ rào
Rách áo chồng tao”.
Cám ghét Vàng Anh lắm, một ngày nhân vua đi săn bèn bắt Vàng Anh ăn thịt. Cám đem đổxương chim ngoài vườn thượng uyển. Ngay chỗ ấy lập tức mọc lên một cây xoan đào cành lá xum xuê. Đi săn về vua chẳng thấy Vàng Anh đâu trong lòng thương nhớ đi tha thẩn trong vườn. Vua đến gốc xoan đào, cành lá xoan tự dưng lòa xòa phe phẩy che mát cho vua, lá cây vờn tóc vua rất âu yếm. Vua yêu cây xoan đào, truyền mắc võng ở đó cho vua nghỉ mệt. Cám bị vua bỏ bê, thù ghét cây xoan đào lắm sai quân lính chặt cây xoan lấy gỗ làm khung cửi dệt vải. Cám ngồi dệt cửi lấy làm đắc ý, nào ngờ khi thoi chạy, khung cửi lại kêu lên:
“Kẽo cà kẽo kẹt
Lấy tranh chồng chị
Chị khoét mắt ra”
Cám hoảng sợ, chặt khung cửi đốithành tro, đem đổ tro ngoài thành hoàng cung. Ngay chỗ tro ấy mọc lên một cây thị tươi tốt. Cây thị có duy nhất một quả, chín vàng ươm, thơm lừng nhưng không ai hái được. Có một bà lão mỗi ngày đều ghé nghỉ mát dưới gốc cây thị. Thị chín thơm, gió đưa hương thơm ngát làm bà khỏe khoắn. Bà lão mở miệng túi hứng quả thị, lầm rầm nói:
“Thị ơi thị
Thị rụng bị bà
Bà để bà ngửi
Chứ bà không ăn”
Quả thị rơi nhẹ nhàng vào túi bà. Bà lão đem thị về nhà cất trong ú gạo. Mỗi ngày đi làm về,bà rất ngạc nhiên thấy nhà cửa gọn gàng, cơm canh có sẵn, quả thị tươi tắn lạ lùng. Bà lão rình xem, Bà thấy một cô gái đẹp bước ra từ ú gạo liền biết ngay là cô gái ấy ẩn trong quả thị. Rón rén, bà đi thật nhẹ đến ú gạo, xé tan vỏ thị không cho cô gái chui vào. Cô gái trong vỏ thị ấy chính là Tấm, từ đó, Tấm nhận bà lão làm mẹ nuôi. Bà lão đem số tiền dành dụm,mở một hàng nước chè ngay tại nhà.
Ở hoàng cung, vua biết Cám chặt cây xoan, giận lắm, bỏ hoàng cung đi chơi quanh thành cho vơi buồn bực. Một bữa, vua ghé quán nước của mẹ nuôi Tấm. Vua nhìn thấy những miếng trầu têm cánh phượng rất khéo bèn hỏi bà lão:
– Trầu này do ai têm vậy?
Bà lão tâu:
– Thưa bệ hạ, trầu này do già têm đấy ạ!
Vua ngắm nghía những miếng trầu sinh nghi ngờ vì Tấm, vợ vua ngày trước cũng têm trầu như vậy. Vua gặng hỏi mãi, bà lão đành thú thật là do con gái bà têm. Vua dòi bà đưa con gái đến. Tấm vén màn bước ra chào vua. Nhận ra vợ mình, nhà vua vô cùng mừng rỡ đưa Tấm về cung. Tấm về cung ở ngôi Hoàng hậu như trước. Vua đuổi Cám về quê với mẹ. Tấm làm vợ vua, hạnh phúc hơn xưa.
Chịu nhiều gian nan, khổ sở, cuối cùng Tấm vẫn giành lại được hạnh phúc của mình. Đấu tranh với cái ác đểbảo vệ bình an là đạo lý hợp với lẽ công bằng. Em kiên quyết đấu tranh với mọi thói xấu, lòng tham đề rèn luyện thành người học sinh tốt. Noi gương cô Tấm, em hứa sẽ dũng cảm bảo vệ lẽ công bằng.
e. Văn kể chuyện chủ đề về khám phá thế giới (du lịch):
Đề bài: Em hãy kể một câu chuyện cổ tích về một danh lam thắng cảnh (hoặc một di tích lịch sử) mà em biết.
Gợi ý chọn chuyện kể:
– “Sự tích Hồ Ba Bể”.
– “Sự tích Hòn Vọng Phu”.
– “Sự tích Núi Ngũ Hành”
– “Sự tích Thành Cô Loa” (di tích lịch sử).
– “Sự tích Hồ Gươm” (di tích lịch sử).
BÀI LÀM 1
“Sự tích Hòn Vọng Phu” (tỉnh Bình Định) .
Hè vừa qua, em được ba mẹ đưa đi nghỉ mát ở Nha Trang. Từ bãi Hòn Chồng ngắm về phía Bắc, em trông thấy ngọn núi cao hướng Tây Bắc giống hình người trông ra biển. Ba em liền giải thích đó chính là núi Vọng Phu. Gió biển lồng lộng, mát rượi, em gối đầu lên tay ba, nghe ba kể “Sự tích núi Vọng Phu”.
Ngày xưa. ở một cùng quê nọ, có một đôi vợ chồng nghèo sinh được hai người con: một trai, một gái. Người con trai càng lớn càng hiếu thảo, biết giúp đỡ cha mẹ làm việc nhà và chăm sóc em gái. Một hôm, cha mẹ đi làm xa, hai anh em ở nhà chơi với nhau. Đến chiều, cha mẹ vẫn chưa về, người em đói bụng mếu máo khóc. Anh trai liền dỗ dành em và chặt mía cho em ăn. Chẳng may trong lúc róc mía, lưỡi dao tuột ra khỏi chuôi, văng vào đầu em gái. Em bé gái ngã lăn ra bất tỉnh, máu chảy lênh láng. Anh trai hoảng sợ vô cùng, chạy trốn biệt không dám về nhà. Em gái may mắn được một cụ hàng xóm cứu sống.
Cậu con trai bỏ nhà trốn biệt hơn mười năm trời, làm đủ nghề để kiếm sống, lưu lạc nhiều nơi. Một ngày, cậu con trai, lúc này đã đôi mươi, đến một làng chài. Chàng gặp một ông lão đánh cá tốt bụng nhận chàng học nghề đi biển. Ông già không có con nên nhận chàng làm con nuôi. Từ đó, hai người một già một trẻ sống nương tựa, hạnh phúc bên nhau. Một hôm đi biển trở về, chàng gặp một cô gái đan lưới ở bãi biển. Cô gái cũng là người lưu lạc từ nơi xa đến, cô mồ côi cha mẹ chẳng ai thân thích, cô đan lưới để kiếm sống. Thế là dần dà, chàng trai khỏe mạnh và cô gái dung nhan thùy mị, phúc hậu ấy yêu nhau. Họ cưới nhau và một năm sau sinh được một bé trai kháu khỉnh. Mỗi ngày, chồng ra biển đánh cá thì vợ ở nhà trông con và vá lưới, đan lưới. Hai vợ chồng sống êm đềm, hạnh phúc. Một ngày biển động dữ đội, chồng không ra biển đánh cá được nên ở nhà cùng vợ vá lưới. Cơm nước xong, vợ xõa tóc nhờ chồng bắt chấy. Chồng thấy vợ có một vết sẹo trên đầu, ngạc nhiên hỏi nguyên do. Người vợ kể đầu đuôi câu chuyện:
– Anh trai của thiếp trong khi róc mía cho thiếp ăn rủi ro bị văng lưỡi dao vào đầu thiếp. Thiếp được một bác hàng xóm cứu chữa kịp thời nhưng khi hồi phục, thiếp biết anh mình do hoảng sợ đã đi mất tăm, cha mẹ tìm khắp nơi nhưng không thấy. Cha mẹ dần già đi, thương nhớ anh mà mất sớm. Thiếp lưu lạc đến đây và gặp chàng.
Người chồng nghe vợ kể mà rưng rưng nước mắt. Vợ nghĩ chồng thương nên khóc, còn chồng đau xót nhận ra anh đã lấy phải chính người em gái ruột của mình. Mấy ngày sau, người chồng chuẩn bị ra khơi chài lưới và nhủ lòng sẽ đến nơi thật xa. Chàng ôm con, từ biệt vợ. Từ hôm ấy, chàng đi biệt không về. Người vợ ở nhà mong chồng, mỗi chiều đều bồng con lên mỏm núi ngóng đợi. Hai mẹ con đứng lặng chờ mong cho đến khi hoá đá. Đỉnh núi ấy là đỉnh Đe Hy thuộc huyện Phú Cát, tính Binh Định. Người dân đặt tên cho núi là Hòn Vọng Phu để ghi nhớ sự tích ấy. Mây mờ che phủ, Hòn Vọng Phu non xanh thẫm, nước của biển bao la tạo nên một thắng cảnh non sông thật đẹp. Sự tích của núi cũng đẹp, sắt son, thương cảm, thủy chung như tình vợ chờ chồng.
Em yêu cảnh đẹp nhìn từ xa và thật sự xúc động khi nghe về sự tích của Hòn Vọng Phu. Lớn lên, chắc chắn em sẽ đi du lịch đến vùng núi xinh đẹp ấy.
f. Văn kể chuyện chủ đề Tình yêu – Cuộc sống
Đề bài: Em hãy kể một câu chuyện về một ngưòi có tinh thần lạc quan yêu đời (chuyện đã nghe, đã học hoặc nghe cô giáo kể).
BÀI LÀM
(Chuyển kể về Bác Hồ)
Bác Hồ kính yêu của chúng em không chỉ là người nhân hậu, tài ba lỗi lạc mà còn là người rất lạc quan yêu đời. Chuyện kể về Bác Hồ là cả một kho tàng không đếm xuể, em chỉ xin kể mẩu chuyện nhỏ về tính lạc quan của Bác khi Bác bị cầm tù ở Quảng Châu – Trung Quốc.
Tháng tám năm 1942, trên đường sang Trung Quốc, Bác Hồ bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt và giam giữ hơn một năm trời. Chính quyền Tướng Giới Thạch cấu kết với thực dân Pháp muốn giam cầm và kết án Bác để loại bỏ người lãnh đạo cách mạng của Việt Nam và Đông Dương. Bác đã đấu tranh đến cùng để phán bác lại luận điệu gian trá, trơ trẽn của chính quyền thực dân. Bác Hồ bị cầm tù rất kham khổ, thiếu thốn trăm bề. Bác bị mắc rất nhiều bệnh: chân đau, người ghẻ lở. Thế nhưng, người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc, Bác Hồ của em vẫn tin tưởng vào ngày thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Khi địch hỏi cung, phỏng vấn, đó là lúc Bác dùng lí lẽ sắc bén và ý chí của mình để đập tan âm mưu quỷ quyệt của địch. Ở trong tù, Bác vẫn suy nghĩ, làm việc. Giặc càng xảo quyệt, Bác càng bình tĩnh chỉ đạo mọi việc của Đảng và cách mạng một cách tài tình. Bị giam cầm nhưng bác vẫn cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên. Trăng sáng, Bác để tâm hồn được ánh trăng tưới mát. Trong tù, tâm hồn thi ca của Bác vẫn dâng tràn:
Ngắm trăng
Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.
Bác chỉ ngắm được trăng qua khe cửa vì Bác đang bị giam cầm nhưng tinh thần lạc quan, yêu thích thiên nhiên của Bác thoát ra ngoài chấn song của nhà tù, đã bay khắp không gian, vũ trụ cùng với ánh trăng.
Tinh thần lạc quan, yêu đời của Bác Hồ là tấm gương sáng đểchúng em học tập và thêm yêu kính Bác. Em cần phải phấn đấu tự chủ và lạc quan trong mọi hoàn cảnh sống, học tập và làm việc của mình để rèn luyện ý chí hiện nay và mai sau.
Leave a Reply