>> CÁC BẠN CLICK VÀO ĐÂY ĐỂ LỰA CHỌN NHỮNG BÀI VĂN HAY NỮA NHÉ <<
MỞ BÀI TRONG BỐ CỤC BÀI VĂN KỂ CHUYỆN
(Tiết 2-Tuần 11)
Mục tiêu:
• Học sinh nhận biết phần mở đầu trong bài văn kể chuyện.
•vHọc sinh biết viết mở bài trực tiếp hoặc mở bài gián tiếp cho bài văn kể chuyện.
I. Cách nhận biết phần mở đầu trong bài văn kể chuyện:
Người kể chuyện có thể kể ngay vào sự việc mở đầu câu chuyện (mở bài trực tiếp) hoặc nói chuyện khác để dẫn vào câu chuyện định kể (mở bài gián tiếp).
Phương pháp viết mở bài trong văn kể chuyện:
1)vViết mở bài trực tiếp:
Thực hiện một trong các cách sau:
a)vGiới thiệu ngay nội dung sự việc đầu tiên câu chuyện kể để bắt đầu chuỗi sự việc của câu chuyện.
b)vGiới thiệu ngay nhân vật chính của truyện.
c)vBắt đầu câu chuyện bằng các từ như: Một hôm, ngày xưa, hồi đó, ở, tại…
2)vViết mở bài gián tiếp:
Thực hiện một trong các cách sau:
a) Nói một vấn đề khác có ý nghĩa tương tự để dẫn vào câu chuyện định kể.
b)vNêu hoàn cảnh xuất phát câu chuyện rồi bắt đầu dẫn chuyện, kể chuyện.
c)vNêu bật tính cách nhân vật chính rồi bắt đầu kể sự việc thứ nhất của câu chuyện.
Mở bài trong truyện kể “Rùa và Thỏ”
Trời thu mát mẻ. Trên bờ sông, một con rùa đang cố sức tập chạy. (Mở bài trực tiếp)
II. Cách mở bài sau đây có gì khác với cách mở bài nói trên?
Trong muôn loài, rùa vốn nổi tiếng là chậm chạp, còn thỏ thì chạy nhanh như bay. Thế mà có một con rùa dám chạy thi với thỏ và thắng cả thỏ. Vì sao có chuyện ngược đời như vậy? Sau đây, em xin kể đầu đuôi câu chuyện ấy. (Mở bài gián tiếp)
III. Luyện tập:
1) Đọc các mở bài sau và cho biết đó là những cách mở bài nào?
a) Có một con rùa sống bên sông. Biết mình chậm chạp nên hôm nào cũng vậy, vừa sáng sớm tinh mơ, nó đã ra bờ sông tập chạy. (Mở bài trực tiếp)
b) Xưa nay, người cậy tài cậy giỏi mà chủ quan, biếng nhác thì chẳng làm nên việc gì. Ngược lại sức có kém nhưng quyết tâm, nhẫn nại ắt thành công. Câu chuyện “Rùa và Thỏ” chứng minh điều đó. (Mở bài gián tiếp)
c) Đầu năm học vừa qua,lớp em có mấy bạn vì chủ quan, lười biếng nên kết quả học tập sút kém hẳn so với hồi lớp ba. Cô giáo bèn kể chuyện “Rùa và Thỏ” để khuyên các bạn phải cố gắng, chăm chỉ. Câu chuyện này như sau: (Mở bài gián tiếp)
d) Trong loài thú, mấy ai chạy nhanh bằng loài thỏ chúng tôi? Thấy bóng dáng chúng tôi trên đường đua thì hươu, nai còn phải kiêng dè, chưa nói gì tới bác trâu hay chị lợn. Thế mà có lần thỏ tôi phải ngậm đắng nuốt cay chịu thua anh chàng rùa nổi tiếng lù đù, chậm chạp. Câu chuyện ấy dạy cho tôi một bài học nhớ đời. Đầu đuôi thế này: (Mở bài gián tiếp)
2) Câu chuyện sau đây mở bài theo cách nào?
Hai bàn tay
Hồi ấy, ở Sài Gòn, Bác Hồ có một người bạn tên là Lê.
Một hôm, Bác Hồ hỏi bác Lê:
– Anh có yêu nước không?
Bác Lê trả lời:
– Có chứ!
– Anh có thể giữ bí mật không?
– Có!
– Tôi muốn đi ra nước ngoài xem Pháp và các nước khác họ làm như thế nào. Sau đó, trở về giúp đồng bào chúng ta. Nhưng đi một mình cũng mạo hiểm. Anh có muốn đi với tôi không?
Bác Lê sửng sốt:
– Nhưng chúng ta lấy đâu ra tiền mà đi?
– Đây, tiền đây!
Vừa nói. Bác Hồ vừa giơ hai tay ra và tiếp:
– Chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi. Anh đi với tôi chứ?
Theo Trần Dân Tiên
• Mở bài của truyện kể:
Hồi ấy, ở Sài Gòn. Bác Hồ có một người bạn tên là Lê. (Mở bài trực tiếp)
3) Kể lại phần mở đầu câu chuyện trên theo cách mở bài gián tiếp: (có nhiều cách sau)
• Bằng lời của người dẫn chuyện:
1) Khi còn là thanh niên, Bác Hồ luôn luôn canh cánh tìm kiếm con đường cứu nước nhà ra khỏi xiềng xích bảo hộ của thực dân Pháp. Lúc ấy, Bác Hồ đang ở Sài Gòn. Khi quyết định ra nước ngoài tìm hiểu về con đường cứu nước, Bác Hồ thuyết phục một người bạn thân của mình cùng đi. Người đó là bác Lê. .
2 Tất cả chúng ta ai cũng mong muốn có người bạn thân cùng chia sẻ mọi vui buồn trong cuộc sống, trong sự nghiệp và trong lý tưởng cuộc đời. Bác Hồ của chúng ta khi ra đi tìm đường cứu nước cũng mong muốn có người đi cùng. Người bạn mà Bác Hồ thuyết phục ra đi lúc ấy chính là bác Lê.
3) Bác Hồ, vị lãnh tụ cách mạng lỗi lạc của chúng ta đã ra đi tìm đường cứu nước tại cảng Nhà Rồng – Sài Gòn. Bác đã dấn thân trên con đường cách mạng chỉ với nghị lực của chính mình và sự làm việc khéo léo, kiên trì của đôi bàn tay. Người biết được ý định ra đi tìm đường cứu nước của Bác lúc ấy chính là bác Lê, một người bạn thân của Bác Hồ.
4) Bác Hồ kính yêu của chúng ta là một tấm gương sáng chói về nghị lực phi thường và sức lao động nhẫn nại. Chúng em học tập điều đó trong câu chuyện kể về Bác: chuyện “Hai bàn tay” Chuyện viết về cuộc trao đổi giữa Bác Hồ và người bạn tên Lê của Bác thời ấy.
· Bằng lời của bác Lê:
1) Tôi không bao giờ ngờ rằng người bạn thanh niên thân thiết của mình chính là Bác Hồ kính yêu của chúng ta bây giờ. Ngày ấy, Bác Hồ sống ở Sài Gòn. Người muốn ra đi tìm đường cứu nước. Người đã rất mong muốn có một người bạn cùng đi. Người mà Bác Hồ thuyết phục đi cùng lúc ấy chính là tôi.
2) Tôi luôn luôn tự hào rằng tôi là người diễm phúc được làm người bạn thân thiết thời thanh niên của Bác Hồ. Bác Hồ của chúng ta là người phi thường. Tôi xin kể cho mọi người nghe câu chuyện giữa tôi và Bác Hồ lúc ấy.
3) Đôi bàn tay của người bình thường chúng ta làm được biết bao nhiêu việc. Đôi bàn tay của những vĩ nhân lại càng thể hiện ý chí, nghị lực phi thường. Bác Hồ của chúng ta là một vĩ nhân. Tôi xin kể câu chuyện về Bác Hồ khi tôi và Bác Hồ đều là thanh niên. Bác Hồ đã bắt đầu sự nghiệp cách mạng của Bác chỉ bằng hai bàn tay trắng mà thôi.
4) Hầu như chẳng ai có thể nghĩ người bạn bình thường của mình sẽ trở thành vĩ nhân từ hai bàn tay. Tôi là một người hạnh phúc khi có một người hạn vĩ nhân là Bác Hồ. Tôi xin kể mọi người nghe câu chuyện giữa tôi và Bác Hồ thời ấy.
KẾT BÀI TRONG BỐ CỤC BÀI VĂN KỂ CHUYỆN
(Tiết 1 – Tuần 12)
Mục tiêu:
• Học sinh nắm được hai kiểu kết bài trong bài văn kể chuyện:
Kiểu 1: Kết bài mở rộng.
Kiểu 2: Kết bài không mở rộng.
• Học sinh viết kết bài theo yêu cầu cho một câu chuyện kể cho sẵn.
I. Đọc lại truyện “Ông trạng thả diều”:
(SGK Tiếng Việt 4, tập 1/Trang 104)
II. Đoạn kết bài của truyện “Ông trạng thả diều”‘.
Thế rồi vua mở khoa thi. Chú bé thả diều đỗ Trạng Nguyên. Ông Trạngkhi ấy mới có mười ba tuổi. Đó là Trạng Nguyên trẻ nhất nước ta.
III. Thêm vào cuối truyện “Ông trạng thả diều” một lời đánh giá, nhận xét làm đoạn kết bài:
Có thể thêm lời đánh giá, nhận xét như sau:
1) Nguyễn Hiền bộc lộ tài hoa và ý chí khi còn rất bé. Bẩm sinh thông minh, nhưng điều đáng trân trọng là Nguyễn Hiền đã học tập trong hoàn cảnh nghèo khó mà lạc quan. Ông Trạng thiếu niên đó là minh chứng hùng hồn cho câu tục ngữ của ông cha ta: “Tuổi trẻ tài cao”.
2) Học sinh chúng em tự thấy mình phải chuyên tâm rèn luyện, học tập hơn nữa để không phải hổ thẹn trước cậu bé Nguyễn Hiền vừa học, vừa chăn trâu, vừa thả diều vẫn đỗ Trạng Nguyên.
3) Ngày nay chúng em được hưởng mọi phương tiện vật chất trong học tập. Chúng em vô cùng cảm phục cậu bé Nguyễn Hiền thông minh, tài hoa, có ý chí, chỉ mười ba tuổi đã đạt danh vị học vấn cao nhất nước ta thời bấy giờ: Trạng Nguyên.
IV. So sánh hai cách kết bài nói trên:
– Kết bài trong bài “ông Trạng thả diều” là kết bài không mở rộng.
– Kết bài được lời nhận xét, đánh giá, rút ra bài học là kết bài mở rộng.
Có hai cách kết bài:
1) Kết bài mở rộng: nêu ý nghĩa hoặc đưa ra lời bình luận về câu chuyện.
2) Kết bài không mở rộng: chỉ là cho biết kết cục của câu chuyện, không bình luận gì thêm.
V. Luyện tập
1. Sau đây là một số kết bài của truyện “Rùa và Thỏ Em hãy cho biết đó là những kết bài theo cách nào.
(Xem nội dung kết bài ở Bài tập 1 Phần Luyện tập. SGK Tiếng Việt 1. tập 1/ Trang 122). Sau đây là đáp án đúng:
a) Kết bài không mở rộng.
b) Kết bài mở rộng.
c) Kết bài mở rộng.
d) Kết bài mở rộng.
e) Kết bài mở rộng.
2. Tìm phần kết bài của các truyện sau. Cho biết đó là kết bài theo các nào.
Tên truyện | Kết bài | Cách kết bài |
a) Một người chính trực | Tô Hiến Thành tâu: – Nếu Thái Hậu hỏi người hầu hạ giỏi thì thần xin cử Vũ Tán Đường, còn hỏi người tài ba giúp nước, thần xin cử Trần Trung Tá. | Kết bài khôngmở rộng. |
b) Nỗi dằn vặt của An-drây-ca. | Nhưng An-đrây-ca không nghĩ như vậy. Cả đêm đó, em ngồi nức nở dưới gốc cây táo do tay ông vun trồng. Mãi sau này, khi đã lớn, em vẫn luôn tự dằn vặt: “Giá như mình mua thuốc về kịp thì ông còn sống thêm được ít năm nữa. “ | Kết bài khôngmở rộng. |
3. Viết kết bài mở rộng:
a) Truyện “Một người chính trực”
Các em thêm vào phần kết bài của truyện những nhận xét, bình luận.
Một số nhận xét, bình luận để các em tham khảo là:
– Tô Hiến Thành là tấm gương về lòngchính trực để chúng ta noi theo. Ông không vì tình riêng mà đề cử người sai với yêu cầu công việc triều chính. Thế hệ đời sau luôn ca tụng ông.
– Lòng khẳng khái và chính trực của Tô Hiến Thành được sử sách ghi nhận và ca tụng. Chúng ta luôn kính trọng và tôn vinh ông.
– Câu chuyện về Tô Hiến Thành giáo dục học sinh chúng em tính thắng thắn và ngay thật. Em hứa tự rèn luyện và noi gương ông.
b) Truyện “Nỗi dằn vặt của An-đrây-ca ”
Một số nhận xét,bình luận, bài học kinh nghiệm có thể thêm vào là:
– Chuyện “Nỗi dằn vặt của An-đrây-ca” là một bài học cảnh tỉnh chúng em phải chu toàn công việc được giao để tránh rủi ro, sai sót, áy náy trước kết quả không mong muốn.
– Ông của An-drây-ca mất không phải do lỗi của An-đrây-ca nhưng An-đrây-ca lấy đó làm nỗi dằn vặt trong tâm mình. Điều đó thể hiện phẩm chất đáng quý của An-đrây-ca: yêu ông và nghiêm khắc với lỗi lầm của bản thân.
– Nghiêm khắc với bản thân, tự dằn vặt mình như An-đrây-ca cũng là một tính tốt để tiến bộ. Điều đó thể hiện xúc cảm biết yêu thương và hối hận. Chúng em nên nghiêm khắc, tự phê bình để tiến bộ.
ÔN TẬP BÀI VĂN KỂ CHUYỆN
(Tiết 2 – Tuần 13)
Mục tiêu:
• Học sinh nhận biết được thể loại văn kể chuyện, phân biệt được các dạng bài văn kể chuyện.
• Học sinh kể được câu chuyện theo đề bài cho sẵn, viết đúng văn kể chuyện.
• Học sinh biết kết cấu văn kể chuyện, biết phân tích và tổng hợp nội dung truyện đã kể.
I. Cho ba đề bài như sau:
– Đề 1: Lớp em vừa có một bạn theo gia đình chuyển đi xa. Em hãy viết thư thăm bạn và kể tình hình học tập của lớp em cho bạn em biết. (Văn viết thư)
– Đề 2: Em hãy kể một câu chuyện về một tấm gương rèn luyện thân thể. (Văn kể chuyện)
– Đề 3: Em hãy tả chiếc áo hoặc chiếc váy em mặc đến trường hôm nay. (Văn miêu tả đồ vật: chiếc áo)
Đồ nào trong ba đề trên thuộc thể loại văn kể chuyện? Vì sao?
• Đề số 2 là đề văn kể chuyện vì nội dung có:
– Nhân vật: người rèn luyện thân thể.
– Tình tiết diễn biến câu chuyện: hoàn cảnh và các bước rèn luyện thân thể của nhân vật (tấm gương rèn luyện thân thề).
II. Kể một câu chuyện về một trong các đề tài sau:
a) Bài văn kể chuyện về đoàn kết, thương yêu bạn bè:
BÀI LÀM 1
Khi em chuyển về học lớp ba ở trường Tiểu học thị xã quê mình, em đã hết lòng yêu thương, giúp đỡ bạn bè.
Người đầu tiên em giúp đỡ là Xuân Lan. Bạn ấy ngồi sát cạnh em. Xuân Lan học yếu, bạn ấy mặc đồng phục không gọn gàng và tay chân lúc nào cũng bẩn. Các bạn trong lớp xa lánh Xuân Lan, không một bạn nào kết bạn với Xuân Lan. Xuân Lan không biết làm toán cộng, trừ có nhớ. Thế là em ân cần giảng giải cho bạn ấy với một điều kiện là Xuân Lan phải giữ gìn vệ sinh cá nhân sạch sẽ, mặc đồng phục gọn gàng. Sau hôm giảng toán cho Xuân Lan, em tặng bạn một cái khăn mùi xoa. Em hướng dẫn bạn nhúng nước khăn, lau mặt cho mát và sạch. Lúc đầu. các bạn trong lớp chê cười em, chế giễu em kết bạn với “người ở dơ nhất lớp”. Em không trả lời một bạn nào, chỉ cười.
Hẻm nhà Xuân Lan ở đối diện nhà em, mỗi ngày học về, em giữ Xuân Lan lại nhà em hai mươi phút để giảng toán cho bạn ấy. Chỉ một tháng sau, Xuân Lan tự mình giải cả bài toán đố và bạn ấy bắt đầu cười.
Em rủ các bạn khác đến chơi với Xuân Lan. Em cầm tay Xuân Lan đưa cho các bạn xem Xuân Lan đã dùng khăn mùi xoa nên tay, quần áo, mặt rất sạch sẽ. Chúng em cùng nhau đến chỗ vòi nước sau lớp,lấy nước về tưới cho những chậu Trường Sinh leo trang trí lớp mà trước đó cả lớp đã trồng. Em các bạn và Xuân Lan hì hục sửa chỗ dây Trường Sinh leo lên bệ cửa sổ. Chúng em thực sự vui sướng vì làm việc cùng nhau. Sửa dây Trường Sinh xong, chúng em chơi nhảy dây. Các bạn khác đều công nhận Xuân Lan nhảy dây rất giỏi.
Về sau, lớp ba của em là một lớp nổi tiếng trong mọi phong trào của nhà trường. Em rất hạnh phúc được các bạn tin tưởng, yêu thương bầu làm lớp trưởng.
BÀI LÀM 2
Hồi đó,em mới học lớp một. Ở lớp, em thấy bạn Trà có tính đoàn kết rất dễ thương.
Trà là học sinh giỏi nhất lớp. Bạn ấy nhỏ nhắn và rất nhanh nhẹn. Ngồi cạnh Trà là Thu. Thu học chậm, viết yếu. Da bạn Thu đen và mặt đầy những nốt tàn nhang. Nhà Thu nghèo, vở bạn ấy học chỉ là loại xoàng nên khi cô giáo cho viết bút mực, chữ viết của Thu lem luốc rất xấu. Trà ra sức chỉ cho Thu cách đưa bút viết nhè nhẹ để ngòi bút đừng đè vào giấy, như thế chữ viết bớtbị lem mực. Một hôm, không biết bạn nào chơi xấu chà phấn vào trang vở của Thu. Bạn ấy òa khóc khi thấy cứ đặt bút vào là vết mực loang ra. Thu khóc nức nở đòi mách cô giáo. Trà lật trang vở mới tiếp theo không có phấnvà giục Thu viết nhanh lên vì sắp vào lớp. Sau đó, Trà bảo Thu: “Đưa vở của bạn đây mình cất cho. Chúng mình không cần mách cô giáo. Thu viết đẹp hơn nữa thì không ai dám ghẹo Thu đâu!”. Mỗi buổi học, Trà cất giữ vở cho Thu như giữ vở của chính Trà. Trà làm gì cũng nhanh nên bạn ấy thường chỉ cho Thu học toán, viết bài. Trả còn rủ Kim Chi. Minh Tịnh chơi nhảy dây, chơi nhảy vòng với Thu. Dần dà, không thấy bạn nào chơi xấu, ăn hiếp Thu nữa. Rồi Thu học khá lên,chữ viết đẹp, làm toán nhanh. Cả lớp cùng chơi với nhau chẳng nhớ gì về chuyện vở lem dạo nọ.
Bây giờ đã học lớp bốn nhưng em vẫn nhớ câu chuyện xảy ra từ hồi lớp một. Câu chuyện ấy cho em thấy tấm lòng yêu thương, đoàn kết giúp đỡ bạn của chính bạn học cùng lớp với mình. Trà thật đáng cho em trân trọng, học tập.
b) Bài văn kể chuyện về giúp đỡ người tàn tật:
BÀI LÀM 1
Em có một người anh họ tên Nghĩa kém may mắn bị liệt hai chân từ lúc bé. Thỉnh thoảng em ghé thăm nhà bác, giúp anh Nghĩa làm một số công việc.
Năm nay anh Nghĩa mười lăm tuổi. Tay và vai anh phát triển bình thường nhưng từ bắp đùi xuống hai bàn chân thì co rút, teo lại. Hai chân anh bé xíu rất khó cử động. Khi ngồi một chỗ,anh có thể làm những việc vặt như: xếp quần áo, lau chén để vào tủ. Khi muốn di chuyển, anh dịch chuyển người trên hai cái bàn ngồi thấp sát đất.Hai cái bàn ngồi thay phiên nhau giúp anh “đi” về phía trước hoặc dịch lùi. Tuy có tật bệnh nhưng anh rất chăm làm việc. Em đến nhà giúp anh nấu cám cho lợn ăn. Anh Nghĩa ngồi trên bàn ngồi, cắt rau lang vun thành đống. Em dùng rổ xúc rau đã băm đổ vào thùng rồi đem thùng đó bắc lên bếp đã gác củi sẵn. Sửa cái thùng cho chắc chắn, em lấy xô xách nước đổ vào thùng. Độ ba xô nhỏ thôi, nước đã ngập rau rồi. Trên rau, em xúc bắp xay đổ vào. Khi em đậy nắp thùng xong, anh Nghĩa nhóm bếp. Bác em, mẹ của anh Nghĩa, trước khi đi làm đã gác sẵn củi và mồi nhen lửa. Anh Nghĩa bật quẹt, nhen lửa vào tờ giấy đun vào bếp, em dùng quạt, quạt nhè nhẹ. Chút xíu thôi là củi bắt lửa cháy đượm quanh đáy thùng. Hai anh em em ngồi đun củi, chờ nồi cháo rau sôi lục đục. Khi nồi cháo chín, em giúp anh Nghĩa tắt lửa, vùi củi vào tro cho tắt ngấm rồi phụ anh Nghĩa làm việc khác. Xong việc, em mang đến cho anh Nghĩa mấy quyển truyện thiếu nhi. Anh Nghĩa thích xem truyện tranh Tây Du Kí và lúc nào cũng giành tự đọc, không chịu để em đọc cho nghe.
Em rất thương anh Nghĩa và quý tính tự học, chăm làm của anh. Mặc dù anh tàn tật nhưng anh giúp đỡ mẹ anh rất nhiều trong việc nhà. Anh Nghĩa là tâm gương siêng năngvui sống mà em học tập. Em rất vui được giúp anh Nghĩa.
BÀI LÀM 2
Nam là một cậu bé bằng tuổi em nhưng không may bạn ấy kém phát triển về trí tuệ lẫn thể hình. Bố mẹ Nam đưa Nam đi khám nhiều bác sĩ, bệnh việnnhưng rồi cũng đành chờ thời gian lớn lên Nam có đỡ hơn không. Em ở sát nhà Nam, em thường sang chơi với Nam và giúp bạn ấy học tập.
Mười tuổi nhưng Nam bé choắt như một học sinh lớp một. Tay chân bạn ấy bình thường không có tật gì nhưng mảnh khảnh, gầy yếu. Nam vụng về. Cầm nắm cái gì cũng yếu ớt, có khi bạn ấy không tự sắp xếp mọi thứ như người bình thường được. Bạn ấy thường làm rơi vỡ đồ đạc cho nên lúc nào cũng phải có người bên cạnh trông nom cho bạn ấy. Nam chưa nhận rõ mặt con chữ, âm, vần. Bạn ấy chưa biết đọc và cũng chẳng biết viết gì ngoài việc tô màu trên giấy. Em cố giúp bạn ấy nhớ mặt các phụ âm và vần. Em chỉ bạn ấy cách viết các chữ, tiếng, từ đã được in sẵn ở vở tập viết mà mẹ Nam mua. Dần dà, Nam đọc được chút ít rồi học hết sách Tiếng Việt lớp một – tập một. Mỗi ngày em giúp Nam học độ một giờ đồng hồ, sau đó chúng em chơi cờ cá ngựa. Chúng em chơi rất vui. Nam hiền, bạn ấy cười rất dễ thương. Không phải ngày nào chúng em cũng học và chơi với nhau. Có khi Nam ốm cả tuần liền. Bạn ấy đã gầy lại gầy thêm.
Em rất thương Nam. Em cảm nhận được một điều là con người sinh ra bình thường không tàn tật là một diễm phúc lớn. Biết vậy nên em rất quý bản thân mình và càng thương yêu, chia sẻ với Nam. Em mong Nam mau chóng phát triển tốt hơn.
c) Bài văn kể chuyện về thật thà trung thực trong cuộc sống.
BÀI LÀM 1
Hôm ấy, em đi chợ mua rau cho mẹ. Hàng cô Loan là hàng rau lớn nhất chợ Hạnh Thông Tây. Cô Loan bán rau củ cả giá bán lẻ và bán buôn nên rất đông khách hàng.
Em chào cô Loan rồi đưa tờ giấy ghi các món rau để cô lựa rau cho mẹ. Một vài món rau em biết chọn, em tự lựa và để vào túi ni-lông chờ cô tính tiền. Em mua không nhiều, chỉ độ hơn hai mươi ngàn tiền rau. Em đưa cô Loan tờ giấy bạc năm mươi nghìn. Cô Loan đếm tiền trả lại. Ơ hay, cô trả lại cho em những hai trăm mười tám ngàn đồng. Có lẽ tờ giấy bạc hai trăm nghìn có màu hơi giống tờ giấy bạc mười nghìn đồng nên cô Loan nhầm lẫn. Em lễ phép thưa:
– Thưa cô, cô trả lại tiền cho cháu nhầm rồi. Cháu chỉ đưa cho cô năm mươi nghìn mà!
Cô Loan cầm số tiền em đưa lại, rối rít:
– May quá, cô cảm ơn con nghen. Con thật thà đáng khen lắm!
Cô Loan trả lại đúng tiền cho em, em vui vẻ ra về.
Trên đường về nhà, lòng em lâng lâng vui lạ. Em vui sướng vì mình đã thật thà không tham lam số tiền cô Loan trả nhầm. Hôm đó, mẹ rất vui khi nghe em thuật lại chuyện.
BÀI LÀM 2
Hôm ấy là ngày kiểm tra học kì môn Toán. Em đọc đề bài và chỉ làm được một câu duy nhất.
Em cắn bút đọc đi, đọc lại đề bài, không có một tý kiến thức nào lóe lên trong đầu. Em không đổi được đơn vị, không biết toán giải làm mấy bước tính. Cả cái hình vẽ tam giác, tứ giác cũng rối mù, rối tinh lên. Em nhìn xung quanh: các bạn cắm cúi viết, đưa tay nhẩm tính. Chỉ có mình em ngơ ngác, dốt đặc. Em chưa biết tính sao thì một tờ giấy tròn vo lăn nhẹ dưới chân. Em nhặt viên giấy, mở ra xem. Đầu trang giấy là dòng chữ: “Bạn viết nhanh lên. Sắp hết giờ rồi!”, dưới đó là bài giải đề bài đang kiểm tra. Thế này là tốt hay tệ đây? Em tự hỏi mình rồi quyết định gấp tờ giấy vuông lại. Em không thể trả lại tờ giấy được vì thầy giáo xem thi sẽ phạt. Hồi lâu, chuông báo hết giờ vang lên. Em nộp bài làm chỉ có một câu của mình rồi thu xếp ra về. Đóng cặp lại,ngâng đầu lên, em thấy Hùng đứng trước bàn mình. Hùng hỏi:
– Bạn chép kịp không?
Em chìa tờ giấy gấp vuông đưa trả lại cho Hùng nói nhỏ:
– Cảm ơn bạn nhưng mình không chép một câu nào cả. Mình làm được câu tính cộng mà thôi!
Hùng tròn mắt:
– Bạn sẽ không đạt điểm tốt trong kì thi.
Em gật đầu:
– Mình sẽ tự học và phải học chăm chỉ. Còn đến ba kì thi nữa cơ mà.
Bài kiểm tra lần ấy em chỉ đạt một điểm và một dấu chấm hỏi. Anh trai em suýt cho em một trận đòn dữ. Em chỉ nói rất nhỏ:
– Em xin hứa sẽ tự học chăm chi.
Em bắt đầu học và làm bài tập từ tiết đầu của năm học. Chỗ nào không hiểu em hỏi anh trai em. Ba lần thi sau. Em đều đạt điểm mười.
Chuyện xảy ra từ hồi em học lớp ba. Cái điểm một lần thi ấy làm các bạn thắc mắc. có bạn cười nhạo em. Riêng em,em vui vì mình đã quyết định đúng theo lời cô giáo dạy: “Phải trung thực khi làm bài!”.
c) Bài văn kể chuyện về chiến thắng bệnh tật.
BÀI LÀM 1
Hai mươi tháng tuổi, em bị trúng gió rất nặng. Mẹ em kể lại rằng nhờ ông thầy thuốc giỏi như ông tiên mà em được cứu sống. Nhưng lần trúng gió ấy đã để lại cho em một chứng bệnh nặng: bệnh động kinh.
Theo lời mẹ kểem thường xuyên bị động kinh nếu thời tiết thay đổi đột ngột. Mỗi lần như vậy, cả nhà phải tụ lại, cấp cứu kịp thời.
Em luôn luôn phải uống thuốc. Em luôn luôn bị đau đầu và đau khắp tay chân cột sống. Đôi khi những lần té ngã, co giật để lại cho em những chấnthương như trật khớp tay chân, u đầu, dập môi. Sáu tuổi, em may mắn gặp một vị thiền sư cho một cây thuốc Nam kì diệu: cây cửu lý hương. Em thường xuyên uống thuốc lá đó ngay cả khi không lên cơn động kinh và bệnh giảm dần. Cùng với uống thuốc lá cửu lý hương, em tập chạy, tập nhảy dây, tập đi xe đạp. Em còn muốn tập bơi nữa nhưng nếu tiếp xúc nhiều với nước lạnh em sẽ bị bệnh nên em không tập được. Khi em còn bé, mẹ và chị hái lá thuốc, giã và lọc nước cho em uống. Cửu lý hương rất khó uống nhưng vì uống nhiều nên em quen rồi. Lớn lên, em tự mình hái lá mà mẹ em trồng trong chậu trước nhà và tự làm thuốc cho mình. Em luôn rèn luyện thể lực để chống chọi với bệnh tật. Em phát triển bình thường, gầy hơn các bạn cùng lớp nhưng năm học nào em cũng đạt được danh hiệu Học sinh giỏi nhất khối lớp.
Dù lúc nào cũng phải uống thuốc, nhưng em cảm thấy mình may mắn vì được gặp thầy thuốc giỏi, được thiền sư cho cây thuốc quý. Em hứa sẽ cố gắng vượt mọi khó khăn, rèn luyện tinh thần và thể lực để bản thân khỏe mạnh, bố mẹ đỡ lo lắng hơn.
BÀI LÀM 2
Anh Danh, kĩ sư trong khu phố em là một tấm gương chiến thắng bệnh tật đáng khâm phục.
Anh Danh bị sốt tê liệt từ bé, hai chân không phát triển được bình thường. May mắn là đôi chân bệnh tật ấy tuy nhỏ một chân thấp một chân cao nhưng vẫn co duỗi và đi lại được. Anh Danh ít khi ra ngoài, anh học tập chăm chỉ và rất giỏi. Những năm Trung học anh đều đạt học sinh giỏi. Rồi anh thi đỗ vào trường Đại học Bách khoa thành phố Hồ Chí Minh, khoa Công nghệ Thông tin. Việc học của anh đôi khi bị gián đoạn vì sức khỏe của anh yếu, thường hay trở bệnh liệt giường. Khi đỡ bệnh, anh đi khập khiễng đến giảng đường trường Đại học. Thường xuyên đau ốm nhưng anh luôn luôn vui vẻ lạc quan. Để rèn luyện thể lực, anh tập chạy tại chỗ, rồi bệnh cũng lui dần. Chân anh không thể trở lại như người bình thường được nhưng anh khỏe khoắn hơn, không ốm đau thường xuyên như trước. Anh nhận bằng tốt nghiệp kĩ sư loại giỏi và được một công ty phần mềm danh tiếng tuyển dụng. Hiện nay anh đã lập gia đình và có một cậu con trai kháu khỉnh.
Có những người kém may mắn, bị bệnh tật nhưng họ vẫn sống tốt và có nhiều công sức đóng góp cho cuộc đời. Họ học tập, rèn luyện, làm việc, cải thiện đời sống của chính họ và cống hiến trí tuệ cho cuộc sống tiến bộ của nhân loại. Những tấm gương như anh Danh luôn luôn nhắc nhở chúng em phải học tập, rèn luyện và không bao giờ được lười biếng, ỷ lại; phải trau dồi bản thân để trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.
Leave a Reply