“Văn sĩ Hộ mang nhiều nét tiêu biểu hay cũng như dở của tính cách một trí thức nghệ sĩ có tâm huyết, tài năng nhưng sống túng quẫn trong xã hội cũ.”
Hãy phân tích nhân vật Hộ trong truyện ngắn “Đời thừa” của Nam Cao để chứng minh nhận định trên.
DÀN Ý
I. MỞ ĐẦU
– “Đời thừa” đăng trên Tiểu thuyết Thứ bảy số 490 ngày 4/ 12/ 1943, là một trong những truyện ngắn đặc sắc của Nam Cao, có đề tài về người trí thức nghèo. Với ngòi bút phân tích tâm lí thật sâu sắc, Nam Cao đã phản ánh chân thực cảnh nghèo khổ, bế tắc của nhân vật trung tâm: nhà văn Hộ.
– Dẫn đề và chuyển mạch,
II. THÂN BÀI
A. VĂN SĨ HỘ MANG NHIỀU NÉT TIÊU BIỂU HAY CŨNG NHƯ DỞ CỦA TÍNH CÁCH MỘT TRÍ THỨC NGHỆ SĨCÓ TÂM HUYẾT, TÀI NĂNG
1. Nét hay
Trước hết Hộ là một nhà văn tự trọng, có ý thức sâu sắc về nghề văn, nên viết thận trọng. Vì Hộ quan niệm rằng sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi.Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện. Cho nên hẳn đọc, ngẫm nghĩ, tìm tòi, nhận xét và suy tưởng không biết chán.
Là một nhà văn có ý thức sáng tạo, Hộ cho rằng văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có… Cho nên anh đã từng ôm ấp một hoài bão lớn về sự nghiệp văn chương, và vì nó, Hộ có thể hi sinh tất cả. “Nghệ thuật là tất cả” không phải sa vào quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật”, thoát li đời sống. Mà đây chính là niềm say mê quên mình vì lí tưởng nghệ thuật, vì sự nghiệp văn chương chân chính thấm đẫm tính nhân đạo, như niềm mơ ước của Hộ: “Cả một đời tôi, tôi sẽ chỉ viết một quyển thôi, nhưng quyển đó sẽ ẵm giải Nô-ben…Đó chính là một tác phẩm văn chương “chứa đựng một cái gì to lớn, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho người gần người hơn”.
Đây cũng không phải là sự thèm khát hư danh, mà xét cho cùng, chính là niềm khao khát tự khẳng định của một cá nhân có ý thức về mình, về giá trị cuộc sống, không muốn sống cuộc đời mờ nhạt, bị lãng quên.
2. Nét dở
Rất say mê văn chương nhưng Hộ cùng dễ cao hứng, bốc đồng vì chuyện văn chương. Sau một lần lãnh tiền ở tòa báo, định mua thức ăn ngon một bữa cho lũ con đói khát, nhưng khi nghe bàn về một tác phẩm văn chương, Hộ bốc lên, vào quán rượu cùng bạn bè, tiêu sạch tiền, say sưa rồi hối hận…
Hộ vừa chủ quan, kiêu ngạo, vừa bi quan, thiếu tự tin: Còn gì buồn hơn chính mình lại chán mình? Khi chán nản, hắn thừ mặt ra, như một kẻ phải ải đày (…) “Thôi thế là hết! Ta đã hỏng đứt rồi!”
B. NHƯNG HỘ SỐNG TÚNG QUẪNTRONG XÃ HỘI CŨ
1. Cái xã hội cũ mà Hộ đang sống chính là xã hội nước ta dưới chế độ thực dân, một xã hội tù đọng, bế tắc đã đày đọa con người khốn cùng, đã vùi đập những ước mơ tốt đẹp của con người. Tấn bikịch của một người trí thức nghệ sĩ nghèo luôn giằng xé nội tâm Hộ. Ước mơ đẹp đẽ của anh phải luôn đối đầu với sự nghèo khó, cực nhục, với gánh nặng áo cơm.
2. Cái hoài bão lớn mà Hộ quyết đạt tới bằng một ý chí phi thường từ ngày còn trẻđã không thực hiện được. Chỉ vì những bận rộn tẹp nhẹp, vô nghĩa lí của cả một gia đình mà Hộ phải chăm lo. Hộ không còn cách nào khác là phải kiếm cho ra tiền. Hắn phải cho in nhiều cuốn văn viết vội vàng. Điều đau đớn và nhục nhã của Hộ là cứ viết toàn những cái vô vị, nhạt phèo, gợi những tình cảm rất nhẹ, rất nông, điên một vài ý rất thông thường quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ dãi.
3. Sự túng quẫn đã giày vò Hộ đến cực điểm. Hắn trở nên cau có và gắt gỏng và nhiều khi, không còn chịu nổi cái không khi bực tức ở trong nhà, hắn đang ngồi
bỗng đứng phắt lên, mắt chan chứa nước mắt, mặt hầm hầm, vùng vàng đi ra phố, vừa đi vừa nuốt nghẹn. Nhiều lúc, nỗi đau khổ, thất vọng làm anh trở nên u uất. Hộ đến quán rượu để tìm sự quên lãng. Trong cơn say, Hộ lại trút nỗi uất hận vào vợ con mà có lúc anh tưởng là nguyên nhân trực tiếp của tình cảnh bế tắc của mình. Rồi khi tỉnh rượu, nhớ lại những hành vi thô bạo, tồi tệ của mình, Hộ vô cùng hối hận, tự xỉ vả mình là một thằng… khốn nạn.
Cái vòng luẩn quẩn vì nghèo túng nên viết cẩu thả đểkiếm tiền rồi tự giày vò, làm khổ vợ con, lại hối hận, đau khổ… đã thể hiện cái bi kịch đời sống của nhân vật. Đời thừa đã đặt ra vấn đề sống còn của nghệ thuật chân chính với lí tưởng nhân đạo cao cả đối mặt trước thử thách nghiệt ngã của khốn cùng, của gánh nặng áo cơm mà người sáng tạo nghệ thuật phải gánh chịu.
III. KẾT BÀI
– Diễn tả quá trình phát triển tâm lí thật tinh tế, khám phá những ngõ ngách sâu kín nhất của tâm hồn con người bằng giọng văn miêu tả, tự sự lạnh lùng có sắc thái khinh bạc chuyển sang giọng trữ tình sôi nổi, thiết tha, Nam Cao đã xoáy sâu vào tấn bi kịch của một nhà văn nghèo trong xã hội cũ qua truyện ngắn Đời thừa.
– Tác phẩm còn toát lên lời kết án cái xã hội nặng nề ngột ngạt đã tước đoạt giá trị của cuộc sống, phá hoại nhân cách của con người, nhất là người trí thức nghệ sĩ có hoài bão cao đẹp, muốn sống tử tế và muốn công hiến nhiều cho xã hội.
Leave a Reply