Trong địa chi có bốn chữ tượng trưng cho cực đoan:Tý, Ngọ, Mão, Dậu. Bốn chữ này tượng trưng cho bốn nguổn sức mạnh lớn nhất trên trái đất.Tý tượng trựng cho sức mạnh của Thủy, Ngọ tượng trưng cho sức mạnh của Hỏa, Mão tượng trưng cho sức mạnh của Mộc, Dậu tượng trưng cho sức mạnh của Kim. Chúng lần lượt tượng trưng cho bốn loại cực đoan, tức cực đoan của Thủy, cực đoan của Hỏa, cực đoan của Mộc, cực đoan của Kim. Nếu như trong Tứ trụ hoặc đại vận xuất hiện bốn loại mật mã này, tượng trưng có bốn loại ngũ hành mạnh mẽ,.và bắt nguồn từ đó sẽ có bốn sự vật cực đoan và tính cách cực đoan. Như Dậu tượng trưng cho Kim vô cùng tinh khiết, không có bất kỳ tạp chất nào, vì vậy những ngũ hành khác đều không thể làm suy yếu loại Kim này.
Trong 12 con giáp, Tý tượng trưng cho chuột, Ngọ tượng trưng cho ngựa, Mão tượng trưng cho mèo, Dậu tượng trưng cho gà. Những con giáp này mang tính chất cực đoan như thế nào? Tý tượng trưng cho nước sông cuồn cuộn; Ngọ tượng trưng cho lửa cháy rừng rực, là sự bùng nổ không thể khống chế; Mão tượng trưng cho cây cối sinh trưởng tươi tốt vào mùa xuân, thế không thể ngăn cản; Dậu tượng trưng cho kim loại chặt chém, hung hăng cực độ.
Vỉ dụ, người tuổi Ngọ khi giận dữ sẽ không thể kiềm chế, là người theo chủ nghĩa cực đoan, dữ dội như lửa thiêu. Người tuổi Mão khi tính khí cực đoan sẽ phát cuồng, không thể kiểm chế nổi. Người tuổi Dậu rất cố chấp, không thể thương lượng được với họ, dễ đi vào chỗ bế tắc. Còn người tuổi Tý rất ngạo mạn. Tuy nhiên, tác dụng của con giáp năm sinh lại không quan trọng bằng tháng sinh tháng sinh. Khi xem Tứ trụ, điểm mấu chốt nằm tại “nguyệt lệnh”.Trong cuộc sống hiện thực, có rất nhiều người cố chấp, không bao giờ chịu cúi đầu. Do đó, muốn biết đối phương có cố chấp hay không,.chỉ cần xem tháng sinh của người đó là sẽ biết.
Trong Tứ trụ, ảnh hưởng lớn nhất đối với con người không phải là năm sinh, mà là ngày,sinh và tháng sinh. Vì vậy, nếu địa chi của tháng sinh hoặc ngày sinh trong Tứ trụ xuất hiện bốn chữ này, đặc biệt là những người sinh vào các tháng “Tý, Ngọ, Mão, Dậu”, không thứ gì có thể ngăn cản nổi sức mạnh của họ, họ không dễ thay đổi bởi thời gian và hoàn cảnh, tư duy vô cùng cứng nhắc không biết ứng biến. Muốn họ thay đổi nguyên tắc hoặc biết mềm dẻo là việc hết sức khó khăn, nên họ là những người đặc biệt cố chấp, cứng đầu. Người như vậy rất thích hợp để trở thành anh hùng liệt sỹ.
Những người sinh vào tám tháng còn lại thường có thể thay đổi tính cách của họ một cách khá dễ dàng, và cũng khôn khéo hơn. Ví dụ, người sinh vào tháng Tỵ dễ thay đổi nhất, người sinh vào tháng thìn cũng giỏi ứng biến. Ngoài ra, người sinh vào tháng Thân, Dần, Hợi… đều rất giỏi tùy cơ ứng biến.
Điểm mấu chốt khi học Tứ trụ là tìm dụng thần, điều căn bản để tìm ra được dụng thần là phải hiểu rõ về 12 địa chi, từ giờ trở đi nếu gặp bốn địa chi Tý Ngọ Mão Dần, cần phải hiểu rằng, chúng sẽ luôn luôn giữ được ngũ hành của mình, bất luận hoàn cảnh có thay đổi ra sao, cũng giữ được đặc tính của mình.
Những người trong Tứ trụ có Tý, Ngọ, Mão, Dậu, sẽ thành công dễ dàng, thậm chí có thể xưng vương xưng đế. Nhưng trong hiện thực, chúng ta chỉ thường gặp những “hoàng tử hoàng tôn” đang “gặp nạn”, chỉ có khí chất ngạo mạn của hoàng đế, nhưng lại không gây dựng được sự nghiệp. Tại sao lại vậy? Nếu như “Tý Ngọ Mão Dậu” trong Tứ Trụ không có sức mạnh điều hòa, thì người này sẽ rất cố chấp, không biết cách ứng biến theo thời thế, thiếu khả năng biến thông. Nếu lại hành vận không thuận lợi, e rằng khó mà thành công được.
Ngoài ra, bốn địa chi này lại chia thành hai nhóm, xung khắc lẫn nhau, tức Tý Ngọ tương xung, Mão Dậu tương xung. Nếu như trong Tứ trụ không có loại “xung” này, tượng trưng cho sự cực đoan và cực độ, đặc biệt là khi hai chữ tương xung đứng cạnh nhau, ví dụ như năm và tháng lần lượt là Tý, Ngọ, hoặc tháng và ngày lần lượt là Tý, Ngọ, người như vậy rất dễ thành công lớn và thất bại lớn. Nhưng nếu xét một cách cụ thể, vẫn còn phải kết hợp với đại vận điều này sẽ được giới thiệu trong những nội dung phía sau.
“Xung” có sáu loại, mười hai địa chi tương xung từng đôỉ một vì vậy gọi là “lục xung”. Sáu tổ hợp tương xung lẫn nhau lần lượt là
Tý Ngọ xung; Mão Dậu xung; Thìn Tuất xung; Sửu Mùi xung; Dần Thân xung, Tỵ Hợi xung.
Nếu như Tứ trụ của một người nào đó có các địa chi là Tý Ngọ Mão Dậu, Thìn Tuất Sửu Mùi, hoặc Dần Thân Tỵ Hợi, là bốn đại cách cục, nếu như xung được tốt đẹp, có thể trở nên đại phú đại quý, vinh đạt hiển hách. Ví dụ hoàng đế Càn Long, bốn địa chi trong Tứ trụ chính là Tý Ngọ Mão Dậu. Nhưng đối với phẩn lớn mọi người, nếu như trong Tứ trụ có xung, và tổ hợp địa chi phối hợp không tốt, phần lớn là hung, dễ gặp phải các chuyện nguy hiểm bất ngờ, trong đời dễ gặp biến cố và tâm trạng cũng dễ bị dao động.
Tý Ngọ Mão Dậu còn có một cách gọi khác, gọi là “tứ Đào hoa”, chỉ một loại sức mạnh không bị khống chế, rất dễ đánh mất khả năng tự khống chế. Tình yêu (đào hoa) vốn dĩ mù quáng, đó là một thứ tình cảm cực đoan, rất dễ mất kiểm soát. Khi tình yêu xuất hiện, trong mắt chúng ta sẽ không còn nhìn thấy một ai khác, mà chỉ còn có người mình yêu, cho dù gặp nguy hiểm cũng không sợ hãi, người yêu đòi hỏi gì cũng sẽ thực hiện cho bằng được.Tý Ngọ Mão Dậu lại chứa đựng tính chất cực đoan mãnh liệt, thuẩn túy, nên được gọi là “tứ Đào hoa”. Nếu như trong Tứ trụ hoặc đại vận có nhiều Tý Ngọ Mão Dậu, Đào hoa kiếp của người này cũng rất nhiều. Loại Đào hoa kiếp này đến từ tính cách gan góc, bạo dạn, không biết sợ ai, luôn tự cho mình là đúng.
Tý Ngọ Mão Dậu tượng trưng cho sự can đảm và dũng cảm, nếu xuất hiện trong Tứ trụ sẽ có liên quan tới tình yêu, tình dục. Nếu như Tứ trụ của một người nào đó hành tới Tý Ngọ Mão Dậu, thì trên phương diện tình yêu, người này sẽ trở nên can đảm hơn trong quá khứ rất nhiều, thậm chí bất chấp tất cả. Ví dụ hoàng đế Càn Long xuống Giang Nam, bỏ lại hoàng hậu và ba ngàn hậu cung, gặp phải người mình thích liền theo đuổi tới cùng.
Cho dù bạn không hiểu vể Tứ trụ, chỉ phân tích bốn chữ Tý Ngọ Mão Đậu là đã có thể phát hiện ra những điều vô cùng kỳ diệu. Có một phương pháp nhanh nhất để ghi nhớ bốn chữ này: Viết bốn,chữ nên ngón tay, Xòe bàn tay trái ra, mỗi một ngón tay có 3 đốt, ngón trỏ, ngón giữa và ngón áp út cộng lại có 9 đốt. Dùng bút viết chữ “Tý” vào đốt dưới cùng của ngón giữa, viết chữ “Ngọ” vào đốt trên cùng của ngón giữa, viết chữ “Mão” vào đốt thứ hại của ngón trỏ, viết chữ “Dậu” vập đốt thứ hai của ngón áp út. Như vậy, trong 9 đốt của ba ngón tay đã xuất hiện bốn chữ Tý Ngọ Mập Dậu. Dùng ngón tay cái ấn vào đốt chữ “Tý”, Tý” lượt đếm thuận theo thứ tự “Tý, Dậu, Ngọ, Mão”. Đây chính là phương pháp “bấm đốt ngón tay” mà các thuật sỹ giang hồ thường dùng, tức bấm ngón tay cái theo thứ tự “Dậu Ngọ Mão Tý” thuận theo chiều kim đồng hồ.
Phương pháp này rất hữu dụng, có thể giúp bạn tìm ra nhiều thông tin quý giá. Ví dụ bạn muốn biết “rung động” vào năm nào. “Rung động” có mấy hàm ý, ví dụ lẩn rung động đầu tiên thời niên thiếu, tình yêu lúc trưởng thành, ngoại tình sau khi kết hôn… Những rung động này xuất hiện vào năm nào, có thể tính được. Trong Tứ trụ, tình yêu nam nữ này được gọi là Hàm Trì, tục gọi là Đào Hoa. Từ “Hàm Trí” vốn vốn có nghĩa là Dương Quý Phi tắm ở ao Hoa Thanh: Nó chủ yếu ảnh hưởng tới tình yêu, tình cảm, tính dục, cuộc sống hôn nhân sức quyến rũ, tài hơa nghệ thuật của một người. Nếu như trong Tứ trụ xuất hiện Đào Hoa và ờ nởi sinh vượng, người này sẽ xinh đẹp tuấn tú, thông minh lanh lợi, hào phóng phong lưu, có duyên với người khác giới. Các bạn có thể thử tìm ra mật mã tình yêu của mình.
– Nhóm mật mã thứ hai: Thìn Tuất Sửu Mùi, chúng được gọi là “Tứ khố” (bốn kho). Tý Ngọ Mậo Dậu là mật mã của hoàng đế, vì người có Tý Ngọ Mão Dậu cò tính khí cực đoan. Thìn Tuất Sửu Mùi là mật mã của người glàu có, vì khố (nhà kho) tượng trưng cho glàu có, người có Thìn Tuất Sửu Mùi sẽ có được tài phú. Ngoài ra, Thìn Tuất Sửu Mùi thuộc Thổ, cũng tượng trưng cho bất động sản.
Tý Ngọ Mão Dậu tượng trưng cho phong thái của hoàng đế, dù là cá nhân hay tổ chức, chi khi có được sức mạnh cực đoan này mới dễ dàng thành đại sự. Nhưng chỉ dựa vào sức mạnh này thôi vẫn chưa đủ, còn phải dựa vào nhóm mật mã thứ hai. Vì Tý Ngọ Mão Dậu tượng trưng cho sự cực đoan, là anh hùng liệt sỹ trong chiến tranh. Nhưng muốn thành đại sự, cần phải có rất nhiều nhân tố phối hợp khác, như tứ khố Thìn Tuất Sửu Mùi.
Tứ khố tượng trưng cho điều gì? Thìn là Thủy khố, Tuất là Hỏa khố, Sửu là Kim khố, Mùi là Mộc khố. Ví dụ đối với Tý Thủy, chỉ có nó chưa thể thành công, cẩn phải dùng “thương khố” (kho tàng) để tích trữ nước lại, hình thànhThủy khố, như vậy mới có thể phát huy tối đa giá trị của nó. Điều này cũng giống như làm việc không nên có thái độ cực đoan, phải biết thời thế và hòa hoãn.
Trong Tứ trụ có Thìn Tuất Sửu Mùi, tượng trưng người này có khả năng tích trữ năng lượng, cũng tượng trưng cho có tính bao dung. Điều này cũng giống như trong một đất nước, Tý Ngọ Mão Dậu là hoàng đế, Thìn Tuất Sửu Mùi là tể tướng hoặc hoàng hậu.
Thìn Tuất Sửu Mùi tượng trưng cho bốn loại vật chất tích trữ một nguổn năng lượng lớn, có thể dùng để hoãn xung.Trong tứ khố tích trữ lượng lơn Kim Mộc Thủy Hỏa, nhưng không được bộc lộ một cách bộc trực mãnh liệt như Tý Ngọ Mão Dậu, mà là ẩn chứa những loại vật chất này, đồng thời phát ra từ từ và có kế hoạch.
Người sinh ra vào tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, có tính cách bao dung, dễ hòa hợp, có khả năng tích lũy, tu dưỡng, nhu hòa. Nếu như Tý Ngọ Mão Dậu là một dạng tình cảm kích động, không thể ngăn cản, thì Thìn Tuất Sửu Mùi là một dạng tình cảm êm ái, nhẹ nhàng.
Bốn loại thương khố này có hai tình huống tương phản: tình huống thứ nhất là chứa đựng ngũ hành, cánh cửa lớn của kho tàng luôn đóng chặt khiến những vật chất được chứa đựng trong đó không thể thoát ra; tình huống thứ hai là cánh cửa kho tàng mở toang, khiến lượng lớn ngũ hành thất thoát ra ngoài. Ví dụ một người nào đó có Tứ trụ cẩn Hỏa, trong Tứ trụ có Tuất tà Hỏa khố, nên đã nảy sinh hai loại kết quả: một loại là Tuất là Hỏa khố của Tứ trụ này, nhưng lại không giải phóng Hỏa trong thương khố ra; loại còn lại là Tứ trụ có Hỏa khố, và mở cửa thành công, khiến một lượng lớn Hỏa thất thoát ra ngoài.
Nếu như người cần Hỏa có thể mở được cửa Hỏa khố, đương nhiên là rất tốt. Có hai phương pháp để dẫn Hỏa xuất khố: một là dựa vào chữ “Ngọ” để dẫn Hỏa. “Tuất” chứa đựng rất nhiều Hỏa, mà “Ngọ” cũng là Hỏa, loại Hỏa này dễ đường đột, gây rối, nếu Tuất đột ngột gặp phải đại vận hoặc lưu niên Ngọ sẽ có thể mở được cánh cửa kho tàng, khiến Hỏa thoát ra; phương pháp còn lại là dựa vào sức mạnh của “xung” để phá vỡ cánh cửa kho tàng, trong 12 địa chi, Thìn Tuất tương xung, muốn phá vỡ Hỏa khố cẩn dùng Thìn để xung Tuất.
Khi Thìn Tuất tương xung, lại phát sinh hai khả năng: một là chữ Thìn xung khai kho Tuất, có rất nhiều Hỏa thoát ra; hai là Hỏa khố Tuất xung khai Thủy khố Thìn, khiến rất nhiều Thủy được thoát ra. Vậy khi hai chữ này gặp nhau, là Hỏa khố được mở ra, hay Thủy khố được mở ra? Điểu này sẽ được quyết định bởi những ngũ hành bên cạnh chúng. Nếu như bên cạnh Thìn, Tuất có Tý Thủy, sẽ là Thủy khố được mở ra, nếu như có Ngọ Hỏa, sẽ là Hỏa khố được mở ra.
Ví dụ trong Tứ Trụ có Tuất, ngũ hành cẩn Hỏa, trong năm Canh Thìn 2000, sẽ xuất hiện hai tình huống: thứ nhất là vào tháng Ngọ, Hỏa khố bị phá vỡ; thứ hai là đến tháng Tý, Thủy khố bị phá vỡ. Nếu như Tứ Trụ cần Hỏa, vào tháng Ngọ sẽ rất may mắn, còn đến tháng Tý lại rất xui xẻo.
– Nhóm mật mã thứ ba trong mười hai địa chi là: Dần Thân Tỵ Hợi, còn gọi là “Tứ Trường sinh”.
Có người nói, Tý Ngọ Mão Dậu tượng trưng cho trái tim yếu ớt của trẻ nhỏ, rất dễ xung động, có thể manh động làm những việc mù quáng. Dần Thân Tỵ Hợi tượng trưng bước vào tuổi trung niên, cuộc đời nhiều biến động bất trắc, phải trải qua rất nhiều thay đổi. Sau thời kỳ trung niên đạt được thành tựu, có thể tích lũy tiền tài, tức là đến giai đoạn tứ khố Thìn Tuất Sửu Mùi, cũng là giai đoạn cuối cùng của cuộc đời, vì tứ khố tượng trưng cho kho tàng và của cải, đồng thời cũng tượng trưng cho phẩn mộ. Vì vậy tứ khố còn được gọi là tứ mộ. Nếu Tứ Trụ kỵ Thủy, khi về glà hành tới Thủy khố, chắc chắn sẽ chết.
Dần Thân Tỵ Hợi tượng trưng cho thay đổi, biến đổi thất thường, khó dự liệu. Vì vậy những người sinh vào bốn tháng này, tính cách biến hóa đa đoan rất khó lường. Khi Dần Thân Tỵ Hợi gặp Thìn Tuất Sửu Mùi, sẽ không nảy sinh những thay đổi quá lớn. Nhưng nếu gặp Tý Ngọ Mão Dậu, sẽ phải xuất chinh đánh trận. Ví dụ người sinh vào tháng Dần, tính cách cương liệt nóng nảy, nếu gặp Tý Ngọ Mão Dậu, sức mạnh sẽ tăng gấp bội, khó lòng ngăn cản; nhưng nếu gặp “Thìn Tuất Sửu Mùi” lại trở thành thuần phục, yên tĩnh.
Dần Thân Tỵ Hợi biến hóa khó lường ra sao? Lấy Tỵ,Thân làm ví dụ.Tỵ là rắn, Thân là khỉ. Năm 2004 là năm khỉ, năm này là một năm rất đáng lo, vì Thân tượng trưng cho sự thay đổi. Nó thuộc Kim, nhưng có khi lại không phải Kim, nó là mật mã của sự thay đổi. Tôi gọi đây là năm “điên tài”, tức trong cả năm có khi Thủy nhiều, có khi Hỏa nhiều, kinh tế lúc tốt lúc xấu, tai nạn giao thông cũng đặc biệt nhiều, là năm biến đổi khó lường.
Bản thân Tỵ thuộc Hỏa, nhưng ngũ hành của nó lại rất dễ thay đổi. Khi Tỵ gặp Thân, sẽ biến thành Thủy. Bản thân Tỵ thuộc Hỏa, Thủy và Hỏa tương khắc lẫn nhau, nhưng sau khi Tỵ hợp Thân, Tỵ từ Hỏa biến thành Thủy, vì thế mỗi khi gặp Tỵ, mọi người phải hết sức cẩn thận. Vì vậy năm Tỵ 2001, toàn thế giới đã xảy ra một sự kiện lớn – vụ khủng bố kinh hoàng 11 tháng 9, đây chính tà do tính chất dễ thay đổi tạo nên.
Chữ Tỵ gặp Thân sẽ biến thành Thủy, gặp Dậu và Sửu sẽ biến thành Kim, gặp phải Ngọ Hỏa và Mùi Thổ sẽ biến trở vể thành Hỏa. Nói cách khác, ngũ hành của Tỵ có thể là Hỏa, cũng có thể là Kim và Thủy.Từng có người hỏi rằng:”Tôi cần Hỏa và đã hành đến vận Hỏa, nhưng tại sao vẫn không thấy vận số tốt lên?”Tôi hỏi lại anh ta: “Anh đã bước vào đại vận Tỵ Hỏa hay chưa?” “Rổi”. Mặc dù đại vận của anh ta đã hành đến Tỵ Hỏa, nhưng trong Tứ Trụ có Dậu Kim, Tỵ hợp với Dậu, khiến Tỵ Hỏa trong đại vận biến thành Kim. Vì vậy mới nói, Tỵ sẽ biến đổi bất cứ lúc nào.
Dần thuộc Mộc, Thân thuộc Kim, Tỵ thuộc Hỏa, Hợi thuộc Thủy. Khi Hợi gặp Dần sẽ biến thành Mộc, gặp Tý và Sửu sẽ biến thành Thủy, không có Mộc nữa. Tóm lại, Dần Thân Tỵ Hợi đều tượng trưng cho ngũ hành thay đổi và biến chất, tương phản với Tý Ngọ Mão Dậu. Tý Ngọ Mão Dậu là không biến đổi, cho dù có va chạm thế nào cũng không làm thay đổi tính chất vốn có của mình. Nhưng “Dần Thân Tỵ Hợi” lại có thể thay đổi bất cứ lúc nào, cho dù là Tứ Trụ hay đại vận, nếu thấy bốn chữ này, chớ nên lập tức cho rằng mình đã bước vào ngũ hành đó.
Hiểu rõ vể 12 chữ Tý Ngọ Mão Dậu, Thìn Tuất Sửu Mùi, Dần Thân Tỵ Hợi, là bạn đã có được những hiểu biết ban đầu về dụng thần Tứ Trụ. Rất nhiều người cảm thấy rằng Tứ Trụ rất khó học, vì đã đọc rất nhiều sách vở và nghiên cứu một thời gian dài, nhưng vẫn chưa biết rốt cuộc một người cẩn đến loại ngũ hành nào. Bắt đầu từ việc tìm hiểu về mười hai địa chi và mười thiên can, cuốn sách này đã mở cho bạn một con đường bằng phẳng, để giúp mọi người nhanh chóng đi đến được chỗ tinh túy của Tứ Trụ.
Leave a Reply