A – MỞ BÀI
Trang giang là một bài thơ tiêu biểu của Huy Cận trước cách mạng. Nó thể hiện một nỗi buồn thấm thìa tới tận đáy hồn nhân thế của Thơ mới. Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” cho thấy nỗi buồn ở đây mang tầm vóc vũ trụ và cảm hứng về không gian sẽ là cảm hứng chủ đạo chi phối hồn thơ Huy Cận trong bài thơ này.
B – THÂN BÀI
Theo lời của tác giả, cảm hứng của bài thơ đã bắt đầu vào một chiều thu năm 1939. Khi đó tác giả đứng ở bờ phía Nam bến Chèm nhìn cảnh sông Hồng mênh mang sóng nước, bốn bề bao la vắng lặng mà nghĩ về kiếp người thật nhỏ bé cô đơn và không biết trôi dạt về đâu. Tuy nhiên sông Hồng chỉ là sự gợi cảm. Bài thơ còn mang cảm xúc chung về những dòng sông khác trên đất nước quê hương. Cảnh sông ở bài thơ tuy buồn nhưng đẹp và cũng thật quen thuộc với người Việt Nam.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Âm hưởng chung của khổ thơ bàng bạc không khí Đường thi cổ điển.
Ngay dòng thơ đầu tiên, chúng ta đã bắt gặp từ Hán Việt “tràng giang”. “Tràng giang” tạo nên một âm hưởng xa xôi: Có con sông đấy nhưng dường như nó không có thực. “Tràng giang” còn gợi ý niệm về không gian “con sông dài”. Nó gợi cả ý niệm về thời gian: con sông ấy có từ khi nào? Có lẽ nó chảy triền miền từ khi có vũ trụ, từ quá khứ và sẽ còn chảy mãi khi lớp người đang sống hôm nay sẽ trở thành thiên cổ. Tác giả không dùng từ “sông dài” bởi quá nôm na và cũng không gọi là “trường giang”. Có lẽ 2 vần “ang” đã tạo nên một cộng hưởng gợi lên sự trống vắng mênh mang của lòng người. Mặt khác, trong tâm thức văn hóa của người Việt, đất nước và thôn xóm đã hình thành bên dòng trànggiang như thế cho nên câu thơ dã gợi hình ảnh tượng trưng cho non sông đất nước muôn đời.
Trên dòng tràng giang ấy, những con sóng không dữ dội, nó chỉ gợn lên. Thế nhưng dòng sông lại được nhân hóa với nỗi buồn “điệp điệp”. Hai tiếng “điệp điệp” gợi hình ảnh về 2 con sóng kế tiếp vào nhau cứ đuổi nhau xa mãi nơi chân trời. Hơn thế nữa, “điệp điệp” tạo nên một không gian bao la bát ngát của dòng sông, quyện nỗi buồn cảnh vật với hồn người. Mỗi con sóng mang một tâm sự buồn, cả con sông đầy sóng là hằng hà sa số những nỗi buồn. Thật ra nhìn tràng giang như một sinh thể đầy tâm tư buồn là do chính nỗi buồn từ trong lòng nhà thơ lan tỏa – à trải dài trên sóng nước. Đó là một nỗi buồn vô tận triền miên hết lớp này đến lớp khác không thôi.
Ba câu thơ tiếp theo gợi sâu hơn nỗi buồn đó. Ở đây xuất hiện ba hình ảnh được nhà thơ quan sát trên dòng tràng giang. Đó là một con thuyền xuôi mái dường như trôi song song với dòng nước tưởng như nước không có quan hệ gì với thuyền.
Hình ảnh tiếp theo cho thấy sự mâu thuẫn giữa thuyền và nước: nếu thuyền về thì nước lại. Và hình ảnh cành củi khô trơ trọi kết thúc khổ thơ. Đến đây ta chợt nhớ câu thơ quen thuộc của Bà Huyện Thanh Quan: “Gác mái ngư ông về viễn phố”, ta mới thấy câu thơ của Huy Cận mới hơn, nỗi buồn thấm thìa hơn. Dù gác mái nhưng trên thuyền vẫn có bóng ngư ông, nghĩa là vẫn có con người. Con thuyền vẫn có bến xác định là “viễn phố”. Còn trong câu thơ của Huy Cận, con thuyền vừa không có dáng người vừa vô định. Miêu tả sự vật (thuyền) vốn gắn bó với đời sống con người mà lại không có con người tạo nên một cảm giác rờn rợn về thế giới loài người đã mất. Thuyền và nước vốn gần gũi với nhau nhưng không phải bao giờ cũng gắn bó vì mỗi con sóng chỉ xuôi theo thuyền trong chốc lát, vì những dòng nước trên tràng giang sẽ chia ra trăm ngả xa xôi. Nỗi buồn ở dòng thơ thứ 3 là nỗi buồn của sự tan tác chia li. Thực ra thuyền cũng không biết nhờ đâu mà trôi chỉ biết rằng nước song song không đi với thuyền. Do đó “thuyền về” đối ứng một cách trớ trêu với “nước lại”. Câu thơ rất dễ gợi đến nghịch cảnh mà Hàn Mặc Tử đã chua chát.
Gió theo lối gió, mây đường mây .
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Nỗi buồn được đẩy lên cao hơn khi xuất hiện dòng nước.
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Hiện tượng đảo ngữ đã dồn thông báo vào từ “củi”, nó gợi cả một thân phận từ quá khứ đến hiện tại và tương lai. Quá khứ là một cành cây xanh tươi mà giờ đây chỉ còn là một cành củi khô bập bềnh trên sóng – những cá thể cũng rất cô đơn. Cành củi ấy rất thụ động, nó bị xô dạt theo những dòng tràng giang. Thân phận của cành củi trải qua bao đau thương khô héo, bao trôi dạt đổi thay. Đến đây khổ thơ đã tạo nên cái tương phản giữa sự mênh mang vĩnh hằng của không gian với sự nhỏ bé
của cành củi. Tất cả chỉ làm sâu thêm nỗi sầu nhân thế của nhà thơ trên dòng tràng giang cuộc đời. Mỗi kiếp người có khác gì cành củi khô kia cũng mong manh đơn độc, cũng lênh đênh trôi dạt không biết về đâu.
Câu thơ thứ nhất tả sóng, câu hai tả những dòng trôi, những luồng nước trên sông Đọc câu thơ thứ nhất ta thấy những vòng sóng đang loang ra, gối lên nhau, xô nhau đến chân trời thì ở câu thứ hai mở ra những luồng nước song song rong ruổi mãi về cuối trời. Trên sóng nước muôn trùng ấy hình ảnh con thuyền trôi im lìm được nhấn đậm nét bằng hình ảnh một cành củi khô bơ vơ lạc nẻo.
Vào đến khổ thơ thứ 2, Huy Cận đã vẽ thêm nhiều nét rất cụ thể để diễn tả sự mênh mang lạnh lẽo xa vắng của dòng sông bằng cách miêu tả nỗi buồn của cảnh vật.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
“Lơ thơ… đìu hiu”là không gian kề cận của bờ tràng giang. “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” là một không gian vời vợi, cách rất xa dòng tràng giang.
Dường như dòng sông đang chảy qua một nghĩa địa, ở nơi ấy chỉ có gò mả ngổn ngang. Những cồn nhỏ lụp xụp bên bờ sông đã gợi một sự trơ trụi trống vắng. Nó vừa có sự thưa thớt rải rác trong từ “lơ thơ” lại vừa gợi cảm. “Cồn nhỏ lơ thơ” còn có một sức gợi, hình như những cồn nhỏ ấy đang lừ đừ trôi không phải trên dòng nước mà trong một sức mạnh thần bí của dòng đời. Điều cảm nhận này chúng ta có thể đọc được trong bài ca quan họ “Sông Cầu nước chảy lơ thơ”. Cái cồn nhỏ lơ thơ ấy đáng ghê sợ và lạnh lẽo hơn bởi có ngọn gió đìu hiu đầy âm khí làm bầu bạn. Từ “đìu hiu” gợi cõi âm đáng sợ rất ghê rợn đưa chúng ta đến thế giới _ khác, không phải thế giới cuộc đời. Chính Huy Cận cho rằng, khi ông viết câu thơ này, ông bị ám ảnh bởi “Chinh phụ ngâm”: “Bến phì gió thổi đìu hiu mấy gò”. Từ láy đìu hiu rất dễ gợi không khí tang tóc. Xuân Diệu từng viết: “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang”.
Dòng thơ thứ 6 là một câu hỏi khắc khoải về một không gian ấm áp tình người “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. Đây là không gian giả định, không gian mơ ước, một không gian mà nhà thơ muốn dứt ra khỏi cõi hãi hùng của cồn nhỏ, của gió đìu hiu. Thế nhưng cố gắng lắng nghe thì tiếng làng xa, tiếng của đời thường hoàn toàn không có. Tuyệt vọng hơn là cầu mong những tiếng lơ thơ thưa thớt của phiên chợ vãn cũng không có nốt. Phiên chợ vãn buổi chiều của thôn quê Việt Nam ngàn đời vốn rất tiêu sơ và ảm đạm. Nó không giống như một phiên chợ “lao xao chợ cá làng ngư phủ” của Nguyễn Trài. Chợ vãn gợi nên cái buồn nhưng dù sao vẫn còn dấu vết của con người. Ở đây ngay cả cái tiếng của phiên chợ ấy cũng không có. Nỗi buồn nhân thế được nhân lên gấp bội.
Hai câu thơ sau hướng về không gian trống không của vũ trụ:
Nắng xuống… chót vót
Sông dài… cô liêu
Có một cái trục tung được dựng thẳng đứng lên. Nhờ nắng xuống mà ta thấy trời lên, lên đến mức làm ta choáng ngợp ngỡ rằng đang nhìn xuống trái đất như là một đỉnh núi mà vũ trụ thăm thẳm như một thung lũng ở phía dưới.
Có một cái trục hoành cắt ngang đó là một dòng sông dài và bầu trời cứ mở rộng ra thành bến hoang lạnh cô liêu khiến cho dòng sông hoang vắng lạ lùng.
Như vậy có một hệ trục tọa độ của không gian mà chẳng hề có một giá trị đáng kể nào để được ghi nhận. Khổ thơ này đã nhấn mạnh thêm cảm hứng dậm đặc về không gian của bài Tràng giang và cho thấy cảm quan rất tinh tế của Huy Cận. Khi mặt trời đang ở trên cao thì cảm giác giữa trời và đất là hữu hạn. Còn khi mặt trời đã nhuốm hoàng hôn thì ánh nắng đã hắt lên cao, bầu trời sẽ trở nên thăm thẳm không cùng, con mắt của chúng ta khó lòng mà nhìn tận cùng độ sâu hun hút ấy. vẻ đẹp rất hoang sơ, hùng vĩ chỉ làm cho nỗi buồn thêm dằn vặt và lan rộng. Cái bến cô liêu nào cũng rất dễ gợi thân phận của người ngắm cảnh.
Sang khổ thơ thứ ba dường như có sự đối lập với khổ thơ hai.
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thần mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Tác giả không quan tâm tới cái mênh mông, cái hùng vĩ mà chú ý đến những cánh bèo dạt. Những cánh bèo dắt díu nhau lê thê, hàng nối hàng không dứt và chầm chậm trôi cũng ngơ ngác như con thuyền, cành củi khô ở khổ thơ đầu. Chính trong những hàng bèo ấy tạo ra sự chuyển động dọc song song gợi về một sự đơn điệu tẻ nhạt.
Nếu những khổ thơ trên con thuyền, cành củi là những cá thể buồn thì ở đây những tập hợp có quan hệ với nhau nhưng không làm giảm đi nỗi buồn. Nếu khổ thơ trên thân phận của thuyền của củi không định hướng thì những hàng bèo này cũng mặc cho nước cuốn trôi. Cá nhân hay cộng đồng cũng mang nỗi buồn như nhau. Trong Tràng giang cuộc đời và tất cả cũng đều là những thân phận thụ động.
Nếu trên kia mơ ước giả định một âm thanh thì giờ đây lại mơ ước giả định một hình ảnh. Nhà thơ rất mong có một chuyến đò ngang để cắt mạch dòng thời gian nghiệt ngã nhưng “Mênh mông không một chuyến đò ngang”.
Không có đò thì lại mơ ước có một cây cầu nối giữa đôi bờ thế nhưng cầu cũng không và một chút niềm thân mật của tình người cũng không có nốt. Hai từ “không” phủ định mạnh mẽ hơn rất nhiều so với câu hỏingơ ngác “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. Điều này cho thấy nội tâm của tác giả tăng lên rất nhiều: càng lúc nỗi sầu ấy, nỗi khát khao tình người càng trở nên cồn cào vò xé và bức bách hơn. Câu thơ tiếp theo như một tiếng thở dài đành phải chấp nhận chỉ đứng bên này tràng giang để ngắm bên kia mà không hề gặp.được.
Đọc câu thơ “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” ta như thấy xuất hiện hai màu, hai sự vật chứa đựng sắc thái lạc quan đó là bờ xanh và bãi vàng nhưng không thể đến được nơi ấy. Từ “lặng lẽ” đặt trong câu thơ bưng bức một nỗi đau gợi nên sự u buồn của nhà thơ và của Tràng giang. Như vậy cùng lúc Tràng giang mang tính chất biểu tượng – đây là con sông cuộc đời, là hoang mạc vắng tanh của cuộc đời. Nó là bờ khổ đau ở bên này mong tìm kiếm cái bờ hạnh phúc ở bên kia.
Dường như tất cả những cảm xúc, những ấn tượng, những suy nghĩ của Huy Cận đã dồn lại ở khổ thơ cuối cùng này. Dòng đầu miêu tả phía chân trời, những lớp mây trắng ngày càng dâng cao lên, nó phản chiếu ánh hoàng hôn trông giống như những dãy núi bạc. Đây là một hình ảnh rất đẹp, chứa đựng biết bao yêu mến của nhà thơ đối với thiên nhiên, xứ sở.
Giữa tầng tầng lớp lớp mây núi chất chồng ấy, nổi bật hình ảnh một cánh chim nhỏ đang sa xuống. Đôi cánh lấp lánh hoàng hôn khiến nó trông giống như một giọt nắng từ trên trời cao rải xuống. Nhà thơ có cảm giác cả không gian vũ trụ đang đè nặng lên đôi cánh nhỏ bé ấy khiến cho chim phải chao nghiêng đi. Xuân Diệu đãtừng bình “bóng chiều sa nặng đến nỗi nó phải nghiêng cánh / lệch cánh đi”. Đây là một cách nhìn rất lạ, chỉ có các nhà thơ mới quan niệm được như vậy. Không gian là hữu hình không khối lượng. Đám mây xốp cũng như vậy. Thế nhưng không gian làm nghiêng cánh chim, những đám mây cứ ùn lên tạo thành những hòn núi bạc. Hình như cái nặng của núi mới có khả năng đè lên cánh chim trời ấy.
Hai dòng thơ có cái thế tương phản: Một bên là lớp mây cao hùng vĩ và một bên là sự đơn độc nhỏ bé của cánh chim. Cái mênh mông của vũ trụ và cái nhỏ bé của một thân phận đã gợi nên sự vĩnh viễn của vũ trụ và cái hữu hạn nhỏ bé cô đơn của kiếp người. Như vậy, bất cứ ở khổ thơ nào, nhân vật tôi thường gởi mình vào trong hình ảnh để ám chỉ thân phận. Cánh chim nhỏ ở đây là trường hợp như vậy.
Cả bài thơ Tràng giang hoang vắng là vì người đọc chỉ thấy cảnh, thấy không gian. Nhưng đến hai dòng cuối, con người mới bắt đầu hiện hữu không phải với dáng vẻ bề ngoài mà là nội tâm ở bên trong.
Thể hiện rõ nhất cho cái nội tâm ấy phải kể đến câu thơ “Lòng quê dợn dợn vời con nước”. “Dợn dợn” đối ứng với “điệp điệp”, nó gợi lên cho chúng ta hình ảnh sóng nước tràng giang dường như chỉ còn dập dềnh một chỗ. Lí do là thời gian đã chuyển về buổi chiều muộn, tầm nhìn con người đã bị thu hẹp lại nhưng “dợn dợn” gợi một cảm giác về tâm trạng rất lạnh lẽo, rất ghê sợ. Cái “dợn dợn” ấy đang vời dần
xa, cái hoang lạnh đang chuyển dần về phía tít tắp của bóng tối. Con nước ở đây chính là những con sóng, những lớp sóng.
Kết hợp tất cả những từ ngữ ta sẽ thấy lớp sóng cứ gợn lên rồi trôi về phía mênh mông, càng xa càng lạnh lẽo ghê sợ.
Nếu ở câu đầu là sóng của tràng giang gợi lên nỗi buồn điệp điệp thì ở câu này cái tạo nên lớp sóng tạo nên nỗi buồn chính là lòng quê. Nói đúng hon những lớp sóng này không phải gợi lên từ tràng giang mà là nơi sâu thẳm nhất của lòng quê. Do đó những lớp sóng như đang vỗ về nơi xa xôi ấy lại chính là những lớp sóng ào ạt trào dâng trong lòng nhân vật trữ tình. Như vậy “Dợn dợn vời con nước” là hình ảnh cũng là tình cảm diễn tả nỗi buồn của lòng quê, nỗi buồn của con người đang sống giữa đất đai quê hương mình mà như “thiếu quê hương”, cứ như người xa xứ chạnh lòng nhớ quê nhà. Ý thơ rất dễ liên hệ đến tâm sự thẹn với ông Đào của Nguyễn Khuyến:
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên không ngỗng nước nào.
Ở ngay trên mảnh đất trong mùa thu nước Việt mà cụ Tam Nguyên như đang lạc vào một không gian đơn lẻ cô quạnh nào đó. Thế mới hay dù là thế hệ sau, dù có kiến thức Tây học như Huy Cận và các nhà văn mới nhưng cái mạch ngầm yêu nước và đau xót khi mất nước là mạch chảy trong tình cảm lí trí, tâm thức xưa nay của người Việt Nam.
Câu thơ cuối “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” đã gợi rõ nhất, sâu nhất nỗi buồn của Huy Cận. Câu thơ gợi nhớ ngay đến một ý thơ rất nổi tiếng của Thôi Hiệu:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai
Ở đây có sự gặp gỡ giữa cổ điển và hiện đại. Điển tích trong văn học là ẩn dụ gợi cho người đọc nhiều khám phá bí mật và thú vị. Câu thơ này kết thúc cả bài vì vậy nó có khả năng khơi gợi mênh mang cho độc giả. Tuy nhiên nếu chú ý hơn thì nỗi buồn của Huy Cận thực thể hơn, hiện đại hơn nỗi buồn đầy khí vị triết học của Thôi Hiệu. Huy Cận nghĩ đến cái nhà nơi chôn nhau cắt rốn – nơi có cha mẹ anh em xóm làng bầu bạn, nhớ nhà bằng một tấm lòng quê rất thật thà không khệnh khạng kiểu cách.
Với Thôi Hiệu, phải nhờ lớp khói trên sông thì nỗi buồn mới xuất hiện. Còn ở Huy Cận, tuy không hề có khói sóng nhưng người vẫn mượn nó trong tưởng tượng để hướng lòng về chốn quê nhà. Xưa muốn bộc lộ nôi buồn thì phải có ngoại cảnh. Nay các nhà Thơ mới không cần đến cái ngoại cảnh ấy cũng tê tái một nỗi buồn. Như nỗi buồn tiễn đưa của Thâm Tâm.
Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng.
Trong “thế giới” nhà thơ không cần mượn tói khói sóng trên sông bởi vì lòng nhà thơ đã có sẵn nỗi nhớ nhà kín đáo thiết tha. Mặc dù phủ định khói hoàng hôn và chính nhờ cách đó nhà thơ đã đưa khói hoàng hôn của Thôi Hiệu vào bài thơ để làm tăng nỗi buồn nhớ của nhà thơ, của người xa quê trước cảnh tràng giang.
C – KẾT LUẬN
Cảnh hoàng hôn tràng giang tuy có buồn, vắng nhưng là một bức tranh đẹp bởi được vẽ bằng một ngòi bút có tình yêu tha thiết đối với quê hương đất nước. Từ đó mới có những hình ảnh thật quen thuộc gần gũi với người Việt Nam: một dòng sông mênh mông, một con thuyền xuôi dòng, một cành củi khô, một bến bờ xa vắng, một buổi chiều chợ tan… có cái gì như là hồn dân tộc, hồn đất nước quê hương thấm sâu trong từng cảnh vật giản dị nhưng gợi cảm ấy. Mặt khác Huy Cận gợi sâu nỗi buồn cô đơn để phủ nhận mà để biểu hiện niềm khát khao có được sự thân mật, sự hòa hợp gần gũi giữa những người với người trong tình người tình đất nước.
Bình giảng bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận.
BÀI THAM KHẢO
(…) Tràng giang là bài thơ được sông Hồng gợi tứ. Trước Cách mạng, tôi thường có thú vui vào chiều chủ nhật hàng tuần đi lên vùng Chèm, Vẽ để ngoạn cảnh Hồ Tây và sông Hồng. Phong cảnh sông nước đẹp gợi cho tôi nhiều cảm xúc. Tuy nhiên bài thơ không chỉ do sông Hồng gợi cảm mà còn mang cảm xúc chung về những dòng sông khác của quê hương. Chúng tôi lúc đó có một nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm được lối ra nên như kéo dài triền miên. Tràng giang là một bài thơ tình và tình gặp cảnh, một bài thơ về tâm hồn. Nhìn dòng sông lớn gợn những lớp sóng, tôi cảm thấy nỗi buồn của mình cũng đang trải ra như những lớp sóng:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp.
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Thuyền và nước vốn là hai khái niệm gần gũi nhưng rồi không phải bao giờ cũng gắn bó. Thuyền gợi lên một cái gì nổi nênh như kiếp người trong cuộc đời cũ. Nhất là ở đâycon thuyền lênh đênh thả mái xuôi dòng và như có một nỗi buồn chia li, xa cách đang đón đợi. Tôi chọn lọc trong nhiều khả năng biểu hiện hình ảnh. Củi một cành khô lạc mấy dòng không phải là một thân gỗ xuôi dòng, một đám bèo xanh trôi nổi mà là một cành củi khô bập bềnh trôi dạt trên sông:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chạ chiều,
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót; .
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Khung cảnh của buổi chiều trên sông nước, làng xóm đôi bờ vắng lặng. Trong câu đầu của khổ thơ, tôi có học được chữ “đìu hiu” của Chinh phụ ngâm:
Non Kì quạnh quê trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.
Cảnh vật vắng vẻ, đâu đây vẳng lại đôi tiếng lao xao của buổi chợ chiều. Thật không gì vui bằng lúc chợ đông và buồn bằng khi chợ chiều tan tác, không có tiếng người thì cảnh vật hoang vắng và xa lạ. Đôi chút âm thanh của cuộc sống con người không làm bớt đi sự vắng lặng nhưng vẫn tạo được ít nhiều màu vẻ của cuộc sống. Thiên nhiên tạo vật trong buổi chiều tà trên sông nước cũng lạ lùng. Từng vạt nắng từ trên cao rọi xuống tạo nên những khoảng sâu thăm thẳm trên bầu trời. Tôi dùng chữ sâu chứ không dùng chữ cao. Nếu là cao chót vót thì quá bình thường. Không gian được mở ra hai chiều, chiều cao và bề rộng tạo nên một không gian vũ trụ rộng lớn và cũng là những nỗi buồn như vô tận. Câu thơ đề từ của bài: Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài cũng được lấy lại trong ý thơ sông dài, trời rộng, bến cô liêu. Trong không gian buồn, xa vắng đó, ai cũng muôn tìm đến những dấu vết gần gũi của sự sống, của cuộc đời:
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Những dấu hiệu gần gũi nhất trong cuộc sống đều không có. Không một chiếc cầu nhỏ, không một chuyến đò ngang để cuộc sống đi về trong thân tình gần gũi. Cả bốn câu thơ đều buồn, mỗi câu mang một nỗi buồn riêng. Cảnh vật có đổi thay nhưng cùng một dáng vẻ, tất cả đều trôi nổi, mông lung, vô định. Không có những dấu vết của con người. Nhắc đến từng hình ảnh, lại thấy tha thiết nhớ cuộc sống của con người. Thiên nhiên tạo vật buồn nhưng đôi lúc bộc lộ vẻ đẹp kì vĩ lạ lùng:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiểu sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Câu thơ đầu có học được chữ “đùn”trong bài dịch thơ Đỗ Phủ:
Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Mây trắng hết lớp này đến lớp khác như những búp bông trắng nở ra trên trời cao. Ánh chiều trước khi vụt tắt rạng lên vẻ đẹp. Cánh chim bay liệng tuy gợi lên một chút ấm cúng cho cảnh vật nhưng nhỏ bé, mông lung quá. Và nỗi buồn đến đây càng thêm dadiết trong thương nhớ. Nó không chỉ đóng khung trong cảnh sông nước ở trước mặt mà mở ra đến những chân trời của miền quê xa. Hai chữ dợn dợn của tôi thường bị đọc sai thành dờn đợn, như thế chẳng có ý nghĩa gì. Trong bài thơ Tràng giang có nhiều điệp ngữ như: điệp điệp, song song, dợn dợn. Mỗi từ điệp như thế đều có ý nghĩa riêng về nội dung cũng như nghệ thuật. Bài thơ kết thúc bằng nỗi nhớ quê hương da diết. Tôi nói khác ý thơ của Thôi Hiệu:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
Vì lúc đó (1939), tôi buồn hơn Thôi Hiệu đời nhà Đường.
Tôi thường nói vui rằng cảnh trên sông nước có khói sóng làm cho Thôi Hiệu buồn, nhớ quê, còn tôi thì không có khói sóng cũng da diết nhớ quê hương. Bài Tràng giang đã kết hợp được thơ ca truyền thống, những nét cổ điển của thơ Đường với những nét hiện đại. Những hình ảnh con thuyền xuôi mái, củi một cành khô, bèo dạt về đâu, hàng nối hàng mang tính chân thực của đời thường, không ước lệ. Và cũng có những hình ảnh mang vẻ đẹp tượng trưng. Tình yêu quê hương trong bài Tràng giang gợi lên và mở ra một tình yêu lớn lao hơn mỗi miền quê, mỗi cảnh vật. Tình yêu đó mang nỗi buồn sông núi, nỗi buồn về đất nước.
(Huy Cận. Tác phẩm văn học 1930 – 1975, Tập II)
Thiên nhiên trong nhiều bài thơ mới (1932 – 1945) đẹp nhưng buồn. Hãy giải thích và chứng minh bằng bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận.
BÀI THAM KHẢO
Một trong những đề tài và cảm hứng lớn của “Thơ mới” (1932 – 1945) là thiên nhiên. Nhìn chung, đó là một thiên nhiên đẹp nhưng buồn. Vì sao thiên nhiên trong Thơ mới đẹp và vì sao thiên nhiên trong Thơ mới lại buồn?
Bài thơ Tràng giang của Huy Cận có thể giải đáp cho vấn đề trên.
Vì sao thiên nhiên trong Thơ mới đẹp? Vì thiên nhiên thực ở ngoài đời vốn đẹp, đất nước ta cây cối xanh tươi quanh năm, ánh nắng chan hòa bốn mùa:
Việt Nam đất nước chan hòa,
Hoa thơm quả ngọt bốn mùa tươi xanh.
(Nguyễn Đình Thi)
Thiên nhiên đẹp đó lại được lọc qua tâm hồn nghệ sĩ của các nhà thơ lãng mạn vốn rất tinh tế và nhạy cảm nên lại càng lung linh rực rỡ. Đó là cái đẹp của nghệ thuật chứ không phải cái đẹp trong cuộc đời. Một chiếc áo mơ phai dệt lá vàng của Xuân Diệu, một vườn ai mướt quá xanh như ngọc của Hàn Mặc Tử, một con hổ say mồi đứng uống ánh , trăng tan của Thế Lữ… là những vẻ đẹp như thế.
Nhưng vì sao thiên nhiên đẹp đó lại buồn? Vì lòng nhà thơ buồn nên nỗi buồn đã thấm vào cảnh vật, làm cho thiên nhiên cũng đượm buồn. Lòng nhà thơ buồn vì họ đều thuộc thế hệ thi nhân mất nước, sống trong cảnh đời nô lệ, lại mang cái “tôi” bé nhỏ, cô đơn của các nhà thơ lãng mạn. Vì thế Xuân Diệu nhìn trời đẹp mà vẫn cảm thấy buồn:
Hôm nay trời nhẹ lên cao
Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn.
Nghe mưa rơi, lòng Huy Cận dâng lên một “nỗi sầu vạn cổ”:
Tai nương nước giọt mái nhà
Nghe trời nặng nặng, nghe ta buồn buồn.
Cái buồn và cái đẹp ở đây hài hòa gắn bó với nhau trong quan điểm thẩm mĩ của các nhà thơ lãng mạn thời kì 1932 – 1945. Trong cái buồn có cái đẹp và trong cái đẹp lại thường chứa đựng cái buồn. Quan điểm này chắc chắn có phần chịu ảnh hưởng của các nhà thơ lãng mạn phương Tây, đặc biệt là các nhà thơ lãng mạn Pháp như Rim-bô, Véc- len, Bô-đờ-le… Trong màu sắc của nó, ta vẫn có thể tìm thấy ít nhiều ý nghĩa nhân văn, tình người trong đó.
Những điều trên đây dược biểu hiện khá rõ qua một bức tranh thiên nhiên tiêu biểu của thơ mới: bài thơ Tràng giang của Huy Cận.
Tràng gianglà bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ lãng mạn Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám, cũng là một trong những .bài thơ quen thuộc và nổi tiếng của phong trào “Thơ mới” 1932 – 1945. Đó là hình ảnh một con sông đẹp và buồn qua nỗi lòng Huy Cận, một thi nhân mất nước đang sống bơ vơ giữa cuộc đời, chưa tìm dược hướng đi cho mình trong cảnh đời nô lệ ấy. Hai nét đẹp và buồn kết hợp hài hòa, xuyên thấm vào nhau trong từng hình ảnh, chi tiết, từng câu thơ, chữ thơ, trong cả bài thơ để tạo nên một Tràng giang vừa cổ điển vừa hiện đại — một Tràng giang “mang mang thiên cổ sầu” của hồn thơ Huy Cận.
Tràng gianglà một con sông đẹp. Đất nước ta có nhiều dòng sông đẹp. Nhưng đã mấy ai đưa được những dòng sông đẹp đó vào thơ. Phải có cảm nhận tinh tế, phải có con mắt của thi nhân thì vẻ đẹp đó mới hiện hình lên từng dòng chữ, thành bức tranh thơ. Tràng giang của Huy Cận là một bức tranh thơ như thế.
Ở Tràng giang, thiên nhiên tạo vật trở thành cổ điển nhưng được nhà thơ cảm nhận bằng một cái nhìn mới mẻ và tinh tế. Có cái đẹp của màu sắc hài hòa bên sông:
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Một nét đẹp quen thuộc, giản dị mà ta thường gặp ở những dòng sông quê hương, nhưng đi vào câu thơ vẫn có gì như êm dịu, mượt mà hơn.
Có cái đẹp của dòng sông mênh mang giữa đất trời bao la vô tận:
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Đây là vẻ đẹp mới mẻ, có giá trị phát hiện của thi nhân. Huy Cận đã đem đến cho người đọc một vẻ đẹp mới của dòng sông, của bầu trời trong cái không gian ba chiều mênh mông và sâu thăm thẳm. Thiên nhiên được mở rộng đến không cùng trong cảm hứng vũ trụ, vốn là cảm hứng rất riêng và cũng rất đặc sắc của Huy Cận.
Lại có cái đẹp như trong một bức tranh cổ điển:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Cảnh chiều tà được vẽ lên thật đẹp: một cánh chim chiều chao liệng trên nền mây bạc, đôi cánh hút lấy nắng hoàng hôn như cùng chim sa xuống lấp lánh phía chân trời. Hai nét vẽ chấm phá của nhà nghệ sĩ, một nét hùng vĩ, một nét cô đơn, mà như thu được linh hồn của tạo vật vào bức tranh thơ. Cánh chim chiều của Huy Cận gợi nhớ những cánh chim chiều trong thơ xưa:
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
(Bà Huyện Thanh Quan)
Như vậy, “Tràng giang” là một bài thơ sông nước mang một vẻ đẹp trang trọng, cổ kính nhưng lại mới mẻ.
Tràng gianglà một con sông buồn. Con sông đẹp đó lại là một con sông buồn mênh mang, thấm thìa bởi lòng nhà thơ buồn nên nỗi buồn đã thấm sâu vào cảnh vật:
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
(Nguyễn Du)
Trong bài thơ, câu nào, hình ảnh nào, cho đến từng chi tiết, từng chữ thơ cũng đều buồn da diết. Cảnh buồn, người buồn, cho đến cả âm điệu và nhạc thơ cũng buồn mênh mang, sâu lắng. Đó là nỗi buồn mang cảm hứng sông núi, vũ trụ mà thi nhân đã cô đúc lại trong lời đề từ:
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài.
Đi vào thơ, khổ nào cũng buồn. Khổ một là cảnh trên sông với con sóng buồn điệp điệp, dòng nước sầu trăm ngả và một cành củi khô bơ vơ lạc lõng. Khổ hai là cảnh xung quanh sông với cái không gian ba chiều rộng mênh mông, sâu thăm thẳm càng làm cho cảnh vật thêm bé nhỏ, hiu hắt, cô đơn: cồn nhỏ lơ thơ, gió đìu hiu, cảnh vãn chợ chiều và bến cô liêu. Đến một con sông không bóng người, không sự sống (Mênh mông không một chuyến đò ngang – Không cầu gợi chút niềm thân mật) mà chỉ còn lại những cụm bèo trôi dạt trên sông hay chính là hình ảnh những cuộc đời chìm nổi, bơ vơ. Ở khổ bốn, nỗi buồn dâng lên trước cảnh hoàng hôn trên sông và biến thành nỗi nhớ nhà vẫn mênh mang không dứt như sóng nước vẫn dập dềnh trên Tràng giang:
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Cảnh buồn chính vì người buồn. Nhân vật trữ tình trong bài thơ tuy không xuất hiện nhưng vẫn hiện lên rất rõ qua bài thơ. Đó là Huy Cận với nỗi buồn sông núi của một thi nhân mất nước. Đứng trước Tràng giang mênh mang đất trời bao la, thi nhân cảm thấy “rợn ngợp”: con người thì bé nhỏ, hữu hạn còn vũ trụ thì vô tận, vô cùng. Cái cảm giác cô đơn, trống vắng, chông chênh đó đã tạo nên nét buồn riêng của Huy Cận trong Tràng giang và nỗi buồn đó đã dẫn đến cảm nhận về “cái không” của thi sĩ trước dòng sông hoang vắng: không tiếng (Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều), không đò (Mênh mông không một chuyến đò ngang), không cầu (Không cầu gợi chút niềm thân mật), không khói (Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà).
Tóm lại, không âm thanh cuộc sống, không sự vật, con người, không biểu tượng, gia đình, quê hương… không có gì cả! Trong tâm trạng như thế, thi sĩ chỉ còn là một cành củi khô, một cụm bèo trôi giạt trên sông, một cánh chim chiều nhỏ bé đang sa xuống tận phía trời xa. Một thi nhân mất nước chưa tìm được hướng đi cho mình, lại mần cảm trước thiên nhiên và cuộc đời, làm sao lại không có nỗi buồn như thế được? Người đọcngày hôm nay hiểu nỗi lòng Huy Cận, trân trọng “nỗi buồn thế hệ” của nhà thơ vì đằng sau nỗi buồn ấy là một tâm sự yêu nước thầm kín, một tình người yêu quê, nhớ nhà thăm thẳm.
Theo NguyễnXuân Lạc
Tràng Giangcủa Huy Cận là bài thơ mang vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại. Anh/chị hãy phân tích bài thơ Tràng Giang để làm sáng tỏ nhận xét trên.
DÀN Ý
I. MỞ BÀI
— Huy Cận (1919 — 2005) là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào “Thơ Mới” (1932 – 1945).
— Bài thơ Tràng Giang trong tập Lửa Thiêng là một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của Huy Cận. Bài thơ mang vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại.
II. THÂN BÀI
A. BÀI THƠ “TRÀNG GIANG”
– Trước hết, nhan đề bài thơ Trang Giang gợi lên không khí những bà thơ cổ: một dòng sông dài rộng, những khoảng cách xa xôi, những chia li cách trở (chàng ở đầu sông Tương, thiếp ở cuối sông Tương…) Tràng Giang còn gợi tên con sông Trường Giang, nơi Thôi Hiệu viết Hoàng Hạc lâu, Lý Bạch viết Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng…
– Huy Cận có thể viết Trường Giang nhưng phải viết Tràng Giang vì vần “ang” liên tiếp hai lần nghe buồn và mênh mang hơn.
— Nhà thơ còn một câu “đề từ”:
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài
Không chỉ có trời rộng và sông dài của thơ cổ, Huy Cận còn đưa vào đó nỗi bâng khuâng của thời đại: Trời rộng nhớ sông dài.
– Thật ra thì con sông trong bài thơ Huy Cận không phải là Trường Giang của Trung Quốc trong thời xưa, mà chính là con sông Hồng của Việt Nam. Bên dòng sông ấy, nơi một bến đò có tên là bến Chèm, Huy Cận đã cảm xúc mà viết nôn bài Tràng Giang của mình.
B. VẺ ĐẸP VỪA CỔ ĐIỂN VỪA HIỆN DẠI
Bốn khổ thơ như bốn bức tranh cổ, nhưng ẩn chứa trong đó nỗi cô đơn của con người hiện đại,
1. Bức tranh thứ nhất
– Những hình ảnh cố điển: một dòng tràng giang phẳng lặng, một con thuyền lặng lẽ trôi, một cành củi khô nhỏ bé.
— Cảm giác buồn của con người hiện đại:
• Sóng gợn tràng giang nhưng lại buồn điệp điệp (điệp từ điệp điệp – từ cái hữu hình của sóng trên tràng giang mà nhận ra cái vô hình là nỗi buồn của con người).
• Thuyền và nước bên nhau nhưng giữa thuyền và nước là sự xa cách hững hờ. Thuyền và nước theo hai chiều đối nghịch (về – lại) nổi lên giữa cuộc chia li là sầu trăm ngả.
• Cành củi bé nhỏ giữa tràng giang mênh mông, nhà thơ còn cố tình làm rõ: củi – một cành – khô. Đã thế, như có điều vô lí: một cành củi — lạc mấy dòng. Cành củi ở đây không chỉ là cành củi mà còn là cảm nhận về thân phận bé nhỏ của con người.
2. Bức tranh thứ hai
– Bức tranh phía bên kia tràng giang với những nét đơn sơ: mấy cồn đất nhỏ thưa thớt, những làn gió nhẹ thổi qua.
– Bức tranh vẫn tiếp tục gợi lên nỗi buồn và cô đơn, bởi vì những cồn đất chỉ là lơ thơ cồn nhỏ, gió chỉ là gió đìu hiu. Câu thơ gợi một hình ảnh trong Chinh phụ ngâm.
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.
– Một chút âm thanh mơ hồ: từ đâu gợi cảm giác mơ hồ, âm thanh lại rất nhỏ: làng xa – vãn chợ chiều.
– Cảm nhận về nỗi buồn không chỉ trong không gian mà cả trong thời gian. Đây là cảm nhận chỉ con người thời hiện đại mới có. Thời gian ngả sang chiều, giữa tràng giang và bầu trời càng cách xa, theo hai chiều đối nghịch: nắng xuống – trời lên. Khoảng cách xa cách càng trở nên đặc biệt với cái nhìn của nhà thơ: trời lên sâu chót vót. Trời không chỉ trên đầu mà còn là trời soi bóng xuống trường giang, vù trụ mở ra vô tận.
– Thân phận bé nhỏ và cô đơn của con người càng thấm thìa trong sự so sánh: sông dài, trời rộng – bến cô liêu. Sông dài trời rộng là không gian ba chiều, bến cô liêu là cái bến Chèm, nơi nhà thơ đang ngồi, như cũng chính là thân phận con người.
3. Bức tranh thứ ba
– Những hình ảnh quen thuộc: những cánh bèo mặt nước, những bãi bờ với những cây cỏ tiếp nối bên tràng giang đến tận chân trời.
– Hình ảnh của thân phận con người: bèo dạt về đâu (lạc loài, trôi nổi). Cảm giác cô đơn khiến nhà thơ muốn tìm đến một sự gần gũi, một sự kết nối, rồi để thấm thía một sự cô đơn trọn vẹn. Hai từ “không” trong hai câu thơ như hai cái lắc đầu buồn bã. Chỉ có con người đơn độc giữa không gian vô tình, vô cảm.
4. Bức tranh thứ tư khép lại bộ tranh cổ
– Một không gian quen thuộc, đúng là hình ảnh trong một bức tranh cổ: một rặng núi xa, những đám mây bạc từ mặt đất chầm chậm dâng cao.
– Giữa bầu trời có một cánh chim nhỏ nghiêng xuống, tạo nên một bức tranh lạ. Đây không còn là bức tranh cổ: chỉ có một cánh chim đơn độc, không phải một đàn chim vẫn bay trong những bức tranh chiều quen thuộc. Đặc biệt cảm giác của nhà thơ: chim nghiêng cánh nhỏ – bóng chiều sa. Bóng chiều như đổ sập xuống theo cánh chim nhỏ.
– Không nhìn vào không gian nữa, nhà thơ nhìn vào chính tâm hồn mình. Nhà thơ gọi tâm hồn mình là lòng quê, gợi nhớ đến “hồn quê” của Thúy Kiều nơi đất khách:
Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa
Nhà thơ còn cảm nhận lòng quê dợn dợn. Dùng điệp từ dợn dợn để nói về sóng trên tràng giang và nói về tâm trạng của chính mình: một cảm giác ngất ngây choáng váng.
– Cuối cùng đọng lại từ tràng giang là: nhớ nhà. Nói không khói hoàng hôn, nhà thơ muốn nhắc đến hai câu kết trong bài thơ Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai
(Bản dịch của Tản Đà)
Nhắc đến nỗi nhớ nhà của nhà thơ xưa, ý Huy Cận muốn nhấn mạnh: so với nhà thơ xưa, Huy Cận bây giờ nhớ nhà hơn nhiều, Huy Cận buồn hơn nhiều, cô đơn hơn nhiều.
III. KẾT BÀI
– Tràng Giang của Huy Cận đẹp vì những hình ảnh, những từ ngữ đẹp như thơ cổ, cho người đọc thưởng thức những bức tranh thân quen thuộc của phong cảnh sông nước quê hương.
– Tràng Giang của Huy Cận thực sự là một bài thơ của thơ hiện đại, mang cảm nhận về nỗi buồn và nỗi cô đơn của con người hiện đại, nhất là con người trong khoảng những năm ba mươi của thế kỉ trước.
Leave a Reply