Ngũ hành
Khi nói tới Phong thủy, Kinh Dịch, học thuyết Âm Dương, Ngũ hành dùng trong dự đoán mới quan hệ giữa con người với nhau, như trong kết bạn, trong làm ăn, trong hôn nhân…., người ta thường viện dẫn đó là do một nhân vật cổ xưa ở Trung Hoa cổ đại sống cách nay khoảng trên dưới 5000 năm tên là Phục Hy. Đây cũng là một giả định để thuyết phục chúng ta tin vào điều đó.
Nhưng sao giả định này từ xưa tới nay chưa được khảng quyết qua các luận lý của các bậc trí giả ngay từ thời Tần, Hán, Đường, Tống…Trung Hoa cổ đại; mà nội dung của học thuyết Âm Dương, Ngũ hành chỉ lưu hành trong dân gian qua khẩu truyền, qua những cuốnsách cổ được ghi chép một cách không hệ thống, một cách quá khái quát mà cho đến nay người đương đại có trình độ tư duy khoa học cao vẫn thấy có gì đó lờ mờ. Phải chăng, những kiến thức về Âm Dương, Ngũ hành, về Phong thủy là cái mà chính Phục Hy, chính người Trung Hoa cổ đại đã lĩnh hội được phần nào từ “ai” trước đó ?
Điều trên đã hướng sự chú ý của chúng ta đến các hiện tượng kỳ lạ có trên Trái đất hiện nay khi Khoa học — Công nghệ vào cuộc.
Không ít các nhà triết học Duy vật, cả các nhà khoa học tự nhiên như Đác Uyn (người Anh nghiên cứu và đưa ra Học thuyết Tiến hóa của muôn loài trên Trái đất, chứng minh rằng con người do một dạng khỉ tiến hóa thành) cho rằng, nền văn minh nhân loại trên Trái đất phát triển qua 5 thời kỳ, mà Xã hội nguyên thủy là buổi bình minh của nhân loại, tiếp đến Xã hội nô lệ rồi cho đến xã hội loài người như hôm nay.
Thời Phục Hy cách nay khoảng 5000 năm, hẳn chắc là vào thời kỳ cuối của Xã hội nguyên thủy (Công xã nguyên thủy), thời kỳ mà như các nhà Xã hội học, Tự nhiên học, Triết học… nói, họ chỉ sông bằng kinh nghiệm qua trải nghiệm trước thiên nhiên, trước những tình hướng trong cuộc sống của chính họ. Nói khác đi, người nguyên thủy chưa có tư duy khoa học, chưa có nền văn minh qua đó mà tìm ra được quy luật của tự nhiên, của xã hội và tư duy. Vậy sao họ lại có được một học thuyết Âm Dương, Ngũ hành dùng trong dự đoán, dự báo với nội dung rất hoàn chỉnh về mặt nhận thức, về mặt lô gic như vậy. Và điều này đã gợi ý cho chúng ta một hướng tiếp cận mới: người nguyên thủy, ở đây là Phục Hy đã thừa hưởng một vốn tri thức trong nền văn minh loài người từng phát triển rất cao hơn, cao hơn cả nền văn minh nhân loại hiện nay trên Trái đất; mà nền văn minh này đã bị hủy diệt trước đó. Cái vốn tri thức của học thuyết Âm Dương, Ngũ hành kia còn sót lại ngẫu nhiên ở trên mảnh đất Trung Hoa cổ đại và cũng ngẫu nhiên người phát hiện ra đầu tiên là Phục Hy, rồi truyền cho các đời kế tiếp sau cho đến ngày nay.
Để minh chứng cho điều này, chúng ta chỉ cần đề cập tối một số ví dụ cụ thể sau đây.
Thứ nhất, các nhà khảo cổ học hiện nay đã phát hiện một loài sinh vật tên là “bọ ba thùy” có từ 600 triệu đến 260 triệu năm trước đây, còn trước đây đến 260 triệu năm cho đến nay sinh vậy này không còn nữa. Một nhà khoa học Mỹ đã phát hiện một khối hóa thạch bọ ba thùy, đồng thời trên khối hóa thạch đó còn có dấu chân một người đang đi giầy đạp lên, in rõ mồn một trên đó (khối hóa thạch bọ ba thùy). Điều này phải chăng đã chế nhạo các nhà Lịch sử tự nhiên ! Cứ theo Học thuyết tiến hóa của Đác Uyn, vào 260 triệu năm trước lẽ nào đã có con người trên Trái đất được.
Thứ hai, tại Bảo tàng của trường Đại học Quốc Gia Peru Nam Mỹ đang đặt một khối đá, trên khối đá khắc rõ một hình người, theo khảo sát của khảo cổ học, thì hình khắc người này được khắc lên đó 3 vạn năm về trước. Đặc biệt hình người đó lại mặc quần áo, đội mũ, đi giầy, trong tay lại cầm chiếc kính viễn vọng đang quan sát thiên thể. Lẽ nào 3 vạn năm về trước con người biết dệt vải và biết may quần áo, Thật là một điều khó tin hơn nữa, là hình người đó lại cầm kính viễn vọng để quan sát thiên thể ! Vậy nhất định là người đó có kiến thức về thiên văn.
Trong các tài liệu lịch sử khoa học, trong các sách giáo khoa hiện hành trên Thế giới hiện nay đều nói: một người châu Âu tên là Galileo (1562 – 1642) nước Ý là người đầu tiên đã phát minh ra kính viễnvọng để quan sát thiên văn, tính đến nay đã hơn 300 năm lịch sử. Vậy ai Là người đã phát minh ra kính viễn vọng 3 vạn năm trước? Rõ ràng không phải là người trên Trái đất như ngày nay.
Thứ ba, điều làm chúng ta đáng kinh ngạc hơn nữa là sự kiện ở châu Phi, ở Nước Cộng Hòa Gabon có một mỏ quặng Uranium (làm năng lượng hạt nhân, năng lượng nguyên tử…); nước này có phần lạc hậu về khoa học và công nghệ, tự mình không thể chiết luyện quặng Uranium, nên phải xuất khẩu quặng sang các nước tiên tiến, có nền khoa học công nghệ hiện đại. Năm 1972, một nhà máy ở Pháp đã nhập khẩu quặng Uranium của Gabon. Bước đầu họ hóa nghiệm quặng Uranium, qua hóa nghiệm bỗng họ phát hiện quặng Uranium ở mỏ đã bị sử dụng trước đó. Thấy quá lạ, họ bèn phái những nhân viên khoa học-công nghệ đi khảo sát, và mời cả các nhà khoa học nhiều nước khác cùng khảo sát. Cuối cùng qua kiểm chứng, họ xác định được là mỏ quăng Uranium kia chính là một lò phản ứng hạt nhân cỡ lớn; hơn nữa bố cục hết sức hợp lý, điều mà con người ngày nay không thể tạo dựng được như vậy. Vậy thử hỏi là lò phản ứng hạt nhân này đã được xây dựng từ bao giờ ?.
Các nhà khoa học đã xác định lò phản ứng hạt nhân này đã được xây dựng cách nay vào 2 tỷ năm trước, lò đã được vận hành 50 vạn năm. Đây là một thực tế làm các nhà Lịch sử tự nhiên, các nhà khoa học nhất là theo trường phái tiến hóa của Đác Uyn không thể chấp nhận được. Còn chúng ta với cái vốn tri thức học được qua nền giáo dục hiện đại thì rất kinh ngạc.
Như vậy, trên Trái đất đã từng có một nền văn minh phát triển cao, cao hơn nhiều so với nền văn minh nhân loại hiện nay gọi là nền văn minh Tiền sử, nền văn minh này đã bị tuyệt diệt. Các vốn tri thức như Kinh Dịch, Phong thủy, Học thuyết Âm dương và Ngũ hành… là của nền văn minh Tiền sử còn sót lại, mà ngẫu nhiên Phục Hy cách nay 5000 năm đã tiếp nhận được rồi truyền cho các đòi con cháu đến hôm nay.
Khái niệm Phong thủy rất quen thuộc trong dân gian Việt Nam xưa và nay với nhiều cách nhìn khác nhau. Có cách nhìn theo hướng thần bí và tin phục, có cách nhìn theo hướng tiêu cực, cho phong thủy là dị đoan. Trên thực tế, người ta ít công khai bàn về Phong thủy trên các phương tiện thông tin đại chúng. Nhưng có điều ai cũng thấy, ngày nay bất cứ ai khởi công tu tạo, làm nhà,lập móng, mua đất…đểu chọn thế đất, hướng nhà, xem tuổi làm. xem ngày làm nhà…
Để lý giải hiện tượng trên là một điều hết sức khó khăn, vì lẽ kể cả Trung Quốc nơi có thể nói là một trong những nơi trên Thế giới đầu tiên xuất hiện thuật Phong thủy…từ xưa đến nay rất ít học giả, các nhà khoa học nghiên cứu phong thủy một cách nghiêm túc.Thứ hai, thuật Phong thủy rất khó nghiên cứu, khó thâm nhập bơi các khái niệm về thiên văn, về địa lý hết sức trừu tượng, mà lại không có trong bất cứ trong các từ điển thuật ngữ hiện có nào. Song Phong thủy đã có cách nay hàng ngàn năm mà vẫn còn lưu truyền cho đến ngày nay, khiến mọi người phải suy ngẫm về sức sống và tính hợp lý của nó.
Cho đến nay, có thể nói thuật Phong thủy đã phát triển và thịnh hành ở Trung Hoa cổ đại, bắt đầu từ thời Tần (triều đại Tần Thủy Hoàng). Các khu vực khác trên thế giới như châu Âu, châu Mỹ…, thuật Phong thủy cũng có dấu ấn có từ ngàn xưa qua các công trình kiến trúc cổ đại, như kim tự tháp ở Nam Mỹ, Ai Cập, bãi đá ở Ai Len…lại có những cổng nhận ánh sáng của Mặt trời, của sao Bắc đẩu theo một thời gian nhất định rất chuẩn từ hàng ngàn năm nay.
Người Trung Hoa thời Tần Hán đã nhận thấy giữa Trái đất, môi trường sống và con người có mới liên quan đến sự phát triển, bại suy…Để điều chỉnh cuộc sống con người sao cho tốt đẹp hơn, người xưa đã chọn đất ở và chôn cất người quá cố. Hàn Tín, một danh thần của Hán Cao Tổ Lưu Bang, lúc còn trẻ, mẹ chết, nhà nghèo, không được chôn mẹ trong khu mộ của thôn, có người biết Phong thủy chỉ chỗ đất tốt, liền chọn gò có thể “cao bỉ địa”chôn mẹ. Sau này công thành danh toại, được phong sở Vương vạn hộ hầu.
Thời Tây Hán, đã có quan niệm khi làm nhà “ kiêng hướng Tây thì lợi nhà”, “kiêng lên gò để tránh tù tội”. Tuy vậy, thuật Phong thủy được thịnh hành, nâng lên thành lý luận, xuất hiện nhiều sách và các danh sư phải kể đến đời Tống Trung Hoa cổ đại (0960-1127). 0 thời kỳ này, các nhà Phong thủy đã đem triết lý Âm dương vào luận bàn đất cát (tốt), đất hung (xấu) nơi ở. Họ quan niệm rằng: đất bằng phẳng là đất ở tốt nhất, đất nghiêng vê Đông Nam, Tây Bắc cao là thứ nhì. Nếu phái ở nơi đất dốc thì nước cháy không đọng xung quanh là được. Còn nếu đất cao thì phải có đồi núi ôm lấy mà không bị khuyết là ở được. Đại để lànhư vậy, khu vực nào như thế là đất lành, ở tốt, trái lại là hung.
Các danh sư đời Tống cũng cho rằng, khu đất nào cát không phải lúc nào cũng gia phúc cho người ở, mà phải đúng lúc, phải đợi thời. Câu thành ngữ “ Đất có tuần, dân có vận”từ ý này mà ra. Đất phát không phái ai cũng được hưởng mà đất nào chủ nấy, với người này thì tốt, người khác thì không. Do vậy, người xưa có câu: “Phúc nhân cư phúc địa”(người phúc lớn thì ở đất cát).
Thời Tống, người ta coi nơi ở có tầm quan trọng bậc nhất: “Thứ nhất dương cơ, thứ nhì mồ mả”. Do vậy, thời đó người ta bàn nhiều về thế đất, cảnh quan nơi ở. Sách “Vi lược -Trạch kinh”, một cuốn sách phong thủy nổi tiếng thời Tống viết: “Phàm ở nơi mà Đông thấp Tây cao thì phú quý, hào hùng; trước cao sau thấp thì môn hộ tuyệt diệt, trước thấp sau cao trâu ngựa đầy đàn; phàm là mặt đất bằng phẳng hoặc trước thấp sau cao nếu ở sẽ gặp nhiều chuyện lành. Tây cao mà Đông thấp ở thi phú quý, sẽ sinh ra người hiền; trước cao sau thấp, ở thì gặp chuyện dữ; bốn phía đều cao mà ở giữa thấp, ở thì trước giàu sau nghèo”.
Những vấn đề nêu trên là ngoại cảnh, người Tống còn đi sâu tìm hiểu cấu trúc, kiểu dáng ngôi nhà, khuôn viên nơi ở…cũng tác động đến tốt xấu cho chủ nhà: gọi là ngoại cảnh. Cuốn sách “ Ngô Hưng Chi – Đàm chí”đời Tống khi bàn về nội cảnh viết: “ Đại sảnh ở chính giữa, tiền môn (cổng cao để nhìn xa) chắn phía dưới, cây xanh ở phía sau…Lầu minh nguyệt (để ngắm trăng) ở góc Tây Nam, hình thành thế hổ ngồi, hợp với luận thuyết của các nhà Âm dương”. Ý nói khuôn viên như trên, cuộc sống thật đại phú, đại quý mà lâu bền.
Nếu có sự phối hợp cái cát của ngoại cảnh và nội cảnh thì có lợi cho di dưỡng tinh thần người ở và theo đuổi nghiệp học đỗ đạt cao.
Các danh sư đời Tống cũng cho rằng, tuy chọn được ngoại cảnh và nội cảnh tốt, xong khi khởi công xây dựng cũng cần chọn năm, tháng, ngày, giờ tốt, xem tuổi làm nhà, ngày nhập trạch…
Thời Minh (1368-1644), Thanh (1644-1912), thuật Phong thủy phổ biến rộng khắp trên cái lý của thời Tống. Các vua chúa, vương công, đại thần cả hai triều đại đều quan tâm sát sao tới Phong thủy khi chọn đế đô, xây cất cung điện, chọn đất và xây cất lăng tẩm. Để chỉ đạo việc xây cất theo Phong thủy, triều Thanh đã cho thành lập hẳn một cơ quan là Ty Thiên giám, điều mà các triều đại trước đó không hề có.
Dân gianthờinhà Thanh trọng phong thủy đến mức đã tạo ra một lối kiến trúc khuôn viên nơi ở có tên là “ Tứ hợp viện”. Đó làlối kiến trúc nhà ở bốn bên sân ở giữa, cổng mở ở phía hướng chính của nhà. Họ cho rằng, nhà như vậy ở rất đại cát đại lợi.
Dưới thể chế chính trị của nước CHND Trung Hoa, thuật Phong thủy bị coi là mê tín dị đoan, cấm truyền bá và in sách báo…Nhưng từ những năm cuối thế kỷ XX, thuật phong thủy lại được phổ biến, các sách về Phong thủy được xuất bản, phổ biên rộng khắp. Nhiều nhà nghiên cứu và ứng dụng thuật Phong thủy xuất hiện. Trong đó đáng chú ý là nhà học giả kiêm pháp sư Tuệ Duyên, đã cho ra mắt bạn đọc cuốn sách “ Phong thủy học”( Nhà xuất bản Bắc Kinh, 2002. Sách dịch ra tiếng Việt với nhan đề: Kiến thức nhà ở theo phong tục dân gian. NXB Hải Phòng, 2003). Đây có thể coi như một cuốn giáo khoa về Phong thủy, coi Phong thủy là một bộ môn học với một hệ thống khái niệm hoàn chỉnh có những cách lý giải theo một logic riêng. Như vậy, tại Trung Quốc hiện nay, Phong thủy được coi như một môn học và được phổ biến rộng khắp.
Tại Việt Nam, Phong thủy có từ bao giờ, cho đến nay chưa có tài liệu nào trả lòi chính xác. Song dân gian xứ Việt từ xưa tối nay, khi nói đến Phong thủy đều nhắc tới hai nhân vật huyền thoại là Tả Ao và Cao Biền.
Cao Biền: là quan lại thời Đường Hy Tống Trung Hoa cổ đại, năm Giáp Thân (0864) sang làm Đô hộ sứ đất Giao Châu( xứ Việt ta lúc đó còn là Bắc thuộc lần thứ ba). Dân gian xứ Việt thời đó ít nhắc tới tài cai trị, nhưng lại nói nhiều đến thuật Phong thủy của ông, như việc trấn yểm các huyệt phát đế vương, phát người hiền tài trên đất Giao Châu.
Tả Ao (tên thật là Vũ Đức Huyền, cũng có tài liệu nói ông tên là Nguyễn Đức Huyền, sinh năm Nhâm Tuất – 1442, tại xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, làng Tả Ao) được dân gian Việt Nam tôn là Thánh Địa lý, coi ông là người giỏi nhất về Phong thủy của Việt Nam.
Tả Ao tên thật tà Nguyễn Đức Huyên, người làng Tả Ao huyện Nghi Xuân tình Hà Tĩnh, sinh vào thời vua Lê chúa Trịnh. Tả Ao rất giỏi y thuật trong chữa mắt cho dân là chính, từ chối rất nhiều việc để đất cát, mồ mả. Ông chỉ để đất trong những trường hợp đặc biệt, nhưng rất hãn hữu,ông không truyền nghề cho ai, nhưng lại để hai bộ sách về Phong thủy cho hậu thế, như bộ Địa diễn ca và bộ Dã đàm Tả Ao. Bộ Địa diễn ca được viết theo lối văn vần về thế đất, huyệt đất, long mạch, tụ thủy.. .Bộ Dã đàm viết có tính hướng dẫn đi vào những kiến thức cơ bản của Phong thủy, những ứng dụng quan sát các vùng đất cát, đất hung và cách sử dụng.
Leave a Reply