Phân tích và chứng minh rằng văn học thời kì 1945 – 1975 được sáng tác chủ yếu theo khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
DÀN Ý
I. MỞ BÀI
– Khuynh hướng sử thi gắn liền với cảm hứng lãng mạn là một trong những đặc điểm cơ bản của văn học thời kì 1945 – 1975, thể hiện chủ nghĩa anh hùng Cách mạng, tạo nên một sức mạnh tinh thần to lớn giúp nhân dân ta vượt qua những thử thách tưởng chừng không thể vượt qua được:
Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước,
Mà lòng phơi phới dậy tương lai.
(Tố Hữu)
– Thế nào là khuynh hướng sử thi, thế nào là cảm hứng lãng mạn, mối quan hệ giữa hai yếu tố thi pháp này được thể hiện ra sao trong văn học thời kì 1945 – 1975?
II. THÂN BÀI
A. KHUYNH HƯỚNG SỬ THI VÀ CẢM HỨNG LÃNG MẠN
1. Tác phẩm viết theo khuynh hướng sử thilà tác phẩm đề cập đến những đề tài có ý nghĩa lịch sử và có tính cách toàn dân. Nhân vật chính là những con người tiêu biểu cho lí tưởng và phẩm chất của cộng đồng, nhân danh cộng đồng và chiến đấu vì cộng đồng. Thơ văn nói chung trang trọng và dẹp một cách tráng lệ, hào hùng.
2. Tác phẩm sáng tác theo cảm hứng lãng mạnmang nội dung trữ tình sôi nổi dạt dào và hướng về lí tưởng, hướng về tương lai.
– Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn nói chung không tách rời nhau trong các tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam từ 1945 đến 1975. Sự kết hợp ấy tạo nên chủ nghĩa lãng mạn anh hùng.
Tóm lại, dù là thơ hay văn xuôi, một tác phẩm sáng tác theo khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn đều là những bài ca sôi nổi và hùng tráng về đất nước đứng lên từ máu lửa, về những con người anh hùng trong chiến đấu và lao động, về lí tưởng độc lập tự do, về tương lai tất thắng của cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ vĩ đại.
B. CHỨNG MINH
Dùng thơ ca:
1. Khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn thể hiện như một đặc điểm nổi
bật của thi pháptrong văn học 1945-1975.
Quang Dũng, với bút pháp lãng mạn, đã vẽ lên hình ảnh của người lính Tây Tiến. Bút pháp này có khuynh hướng tô đậm những cái khác thường và sử dụng rộng rãi thủ pháp đối lập để tác động mạnh mẽ vào cảm quan người đọc. Cái khác thường, cái đặc biệt dễ khêu gợi trí tưởng tượng vốn là đặc trưng của cảm hứng lãng mạn. Núi rừng Tây Bắc, nơi người lính Tây Tiến xuất hiện, có một vẻ đẹp hùng vĩ và dữ dội khác thường:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Những con người tha thiết yêu đời, yêu cái đẹp, đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm ấy lại là những con người dũng cảm chiến đấu và sẵn sàng hi sinh:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
2. Khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạncòn thể hiện qua hàng loạt thơ ca về đất nước và chủ yếu thế hiện ở những tình cảm của cái tôi trữ tình của nhà thơ. Đây không phải là những tình cảm riêng tư trong quan hệ cá nhân, mà tình cảm chung tự hào về đất nước giàu đẹp:
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây làcủa chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa.
(Nguyễn Đình Thi)
– Niềm xúc động trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi,
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng,
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đố vàng,
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Rừng thu trăng rọi hòa bình,
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
(Tố Hữu)
– Nỗi xót xa trước cảnh đất nước bị giày xéo, nhân dân bị khủng bố, các giá trị văn hóa bị tàn phá, những truyền thống tinh thần bị xúc phạm:
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy,
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu
Hoàng Cầm)
– Tình cảm thiết tha và lòng biết ơn sâu nặng với cha ông ta đã xây dựng nên đất nước này bằng mồ hôi, trí tuệ và cả máu xương:
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…
(Nguyễn Khoa Điềm)
– Tình cảm gắn bó với mọi vùng của đất nước được khái quát thành một quy luật của tình cảm, của cuộc sống:
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn!
(Chế Lan Viên)
– Tất cả tình cảm đó đều gắn bó với nhau trong tình yêu Tổ quốc, lí tưởng đấu tranh vì độc lập, tự do và thấm nhuần niềm tin sắt đá vào tương lai tất thắng của Cách mạng, tràn đầy tính lãng mạn qua một số hình ảnh:
• Nhân dân vùng lên:
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa.
(Nguyễn Đình Thi)
• Đánh đuổi giặc thù:
Vì nắng sắp lên rồi
Chân trời đã tỏ
Sông Đuống cuồn cuộn trôi
Để nó cuốn phăng ra bể
Bao nhiêu đồn giặc tơi bời
(Hoàng Cầm)
• Đất nước hồi sinh:
Ngày mai rộn rã sơn khê,
Ngược xuôi tàu chạy bốn bề lưới giăng,
Than Phấn Mề, thiếc Cao Bằng,
Phố phường như nấm như măng giữa trời.
(Tố Hữu)
Dùng văn xuôi:
Đề tài của một số tác phẩm văn xuôi phản ánh công cuộc chống Mĩ của nhân dân ta vốn là một vấn đề có ý nghĩa lịch sử.
– Tnú trong Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành là một thanh niên yêu bản làng, luôn luôn bất khuất trước kẻ thù. Những phẩm chất này không chỉ là của riêng anh mà còn là phẩm chất của dân làng Xô Man, các dân tộc Tây Nguyên và của cả dân tộc Việt Nam. Tnú chịu đựng biết bao khổ sở, bị cầm tù, tra tấn, bị đốt mười đầu ngón tay, vợ con bị thảm sát… nhưng anh vẫn dũng cảm chiến đấu để giải phóng quê hương.
– Việt và Chiến trong Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi rất yêu quê hương, căm thù giặc. Vì muốn trả thù nhà, bảo vệ quê hương, hai chị em giành nhau tòng quân, và họ đều tỏ ra vô cùng dũng cảm. Chiến có lần chết giấc vì bom địch, còn Việt bị thương nặng, mấy ngày thất lạc đồng đội nhưng vẫn dũng cảm chịu đựng bằng tất cả sức mạnh thể chất và tinh thần.
– Nguyệt trong Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu là hình ảnh của một người con gái có tâm hồn cao đẹp lạ thường. Đi nhờ xe vận tải hàng quân sự, bị máy bay Mĩ tấn công giữa rừng đêm, Nguyệt đã dũng cảm bảo vệ người lái xe, bảo vệ chuyến hàng quân sự. Hơn nữa, Nguyệt còn có một niềm tin ngời sáng vào tình yêu chung thủy và cuộc sống. Hình ảnh Nguyệt luôn luôn gắn liền vào hình tượng ánh trăng, và ánh trăng chính là một phần của hình ảnh Nguyệt, vừa tươi mát, vừa kì ảo, lung linh lạ thường… Tất cả đã tạo nên vẻ đẹp lãng mạn, đầy chất thơ.
III. KẾT BÀI
Chính khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạnđã bao trùm lên hàng loạt thơ ca, truyện, kí thời kì văn học 1945 – 1975. Đó là sự tổng hợp nhuần nhị giữa các yếu tố hiện thực và lãng mạn, trữ tình và anh hùng ca, cảm xúc và trí tuệ dân tộc và hiện đại, trở thành một trong những đặc điểm cơ bản của văn học thời kì này.
Leave a Reply