I – PHẦN BẮT BUỘC
Phân tích thân phận và diễn biến tâm trạng của ba nhân vật trong truyện ngắn Vợ nhặt (Kim Lân) để làm rõ giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
II – PHẦN TỰ CHỌN
Thí sinh tự chọn một trong hai câu II. 1 hoặc II.2 sau đây:
II. 1 – Bình giảng khổ thơ đầu trong bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườnai mướt quá xanh như
Lá trúc che ngang mặt chữ điền?”
II.2 – Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Bên kia sông Đuống của Hoàng cầm:
“Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu”.
GỢIÝ LÀM BÀI
I – PHẦN BẮT BUỘC
Các ý chính:
Vợ nhặtkể chuyện một người nghèo “nhặt” được vợ trong năm đói. Tác phẩm được xây dựng theo diễn biến tâm lí của ba nhân vật chính xoay quanh cái tình huống bất ngờ và oái oăm khác thường đã gắn kết thân phận họ với nhau.
1) Qua truyện Vợ nhặt, Kim Lân đã phản ánh tình cảnh khốn cùng của nhân dân ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 và xu thế hướng theo cách mạng của họ (Giá trị hiện thực).
a) Hình ảnh xóm ngụ cư trong nạn đói, một cuộc sống mấp mé bờ vực cái chết (Người đói “như những bóng ma nằm ngổn ngang khắp lều chợ), “Người chết như ngả rạ, thây nằm còng queo bên đường”; tiếng quạ, tiếng hờ khóc, mùi xác chết…).
b) Trong tình cảnh đó, việc Tràng dắt người đàn bà đói về làm vợ khiến cả xóm làng lẫn bà mẹ nghèo của anh ngạc nhiên, không dám tin mà chính anh cũng thầm lo âu (vì anh chỉ là người đẩy xe bò nghèo khó, nhà cửa rách nát “đến cái thân mình cũng chẳng biết có nuôi nổi không”). Người đàn bà “vợ nhặt” của Tràng rách rưới, đói sắp chết, sau khi được cho ăn bốn bát bánh đúc, theo về làm vợ một kẻ đàn ông xa lạ như anh, trước hết, chỉ để khỏi đói. Nhưng cái đói xem ra không tránh khỏi: bữa đầu tiên của chị ở nhà chồng thật thảm hại, chẳng đủ cháo loãng để húp mà phải ăn thêm cháo cám.
c) Qua chuyện trò giữa ba mẹ con trong bữa ăn, bức tranh nông thôn miền Bắc ngày đói được mở rộng dần: “Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn”, “Đằng thì nó bắt trồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống qua nổi”. Nhưng cũng có tin về những miền quê xa người ta “không chịu đóng thuế nữa”, “còn phá kho thóc của Nhật chia cho người nghèo”. Truyện kết thúc bằng hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người phá kho thóc ngày càng rõ nét, đầy sức vẫy gọi trong tâm trí Tràng.
– Tóm lại, bằng những chi tiết về một ngày đời thường trong gia đình Tràng sau khi anh “nhặt” được vợ, Kim Lân đã phản ánh khái quát mà sinh động, đầy ám ảnh hiện thực đất nước năm đói lịch sử 1945, tố cáo tội ác kẻ thù thật mạnh mẽ mà không cần đao to búa lớn. Vợ nhặt được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám, lại được tác giả sửa chữa, cho in ngay sau ngày hòa bình lập lại. Kim Lân có điều kiện thể hiện được xu thế tất yếu cửa quần chúng lao khổ là hướng về ngọn cờ cách mạng, chỉ có cách mạng mới cứu họ thoát khỏi nghèo, chết thảm.
2) Trong truyện Vợ nhặt, Kim Lân đã khám phá và thể hiện phẩm chất tốt đẹp, của người lao động: Trong bất cứ hoàn cảnh khốn khó nào vẫn khát khao vươn về cuộc sống, yêu thương cưu mang lẫn nhau và hi vọng ở tương lai hạnh phúc (Giá trị nhân đạo).
a) Chuyện “nhặt” vợ, với Tràng, đầu tiên chỉ là đùa cợt, sau “chặc lưỡi”, liều, nhưng rồi nhanh chóng nảy sinh tình nghĩa, một tình cảm “mới mẻ” dịu dàng gắn bó anh với người đàn bà ấy khiến anh hình như quên hết “những cảnh sống ê chề, đói khát”. Tình nghĩa ấy đem lại hạnh phúc, thăng hoa tâm hồn Tràng. “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người”, thấy “thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn”, “thấy có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này”. Từ người đàn ông thô ráp đầu tác phẩm, Tràngnhư thành một người khác hẳn, với tình yêu và trách nhiệm.
b) Người đàn bà “vợ nhặt” của Tràng thoạt tiên chao chát, trơ trẽn bám lấy Tràng chỉ vì đói. Thấy cảnh nhà túng quẫn của Tràng, chị không giấu nổi vài biểu hiện thất vọng thầm kín. Nhưng bù lại, chị nhận thấy tình cảm mà Tràng và mẹ dành cho mình, chị trở nên “người đàn bà hiền hậu đúng mực”, chăm lo cho tổ ấm mới của mình bằng sự vun vén khéo léo và tình yêu bản năng của người phụ nữ.
c) Bà cụ Tứ thấy con trai mang về người “vợ nhặt” đã đi từ ngạc nhiên đến vui mừng, vừa tủi, vừa thương, vừa lo bằng tất cả trái tim của người mẹ yêu con, thương người đồng thời bằng những kinh nghiệm của người lao động nghèo từng trải. Nhưng niềm vui vân nhiều hơn, bà nói đến những ước mơ, dự định tương lai sáng sủa, động viên con và dâu.
– Tóm lại, tình thương, sự thông cảm đã khiến những người xa lạ xích lại gần nhau hơn, đùm bọc cưu mang lẫn nhau, mẹ — con, chồng- vợ thêm gắn bó trong hoàn cảnh khó khăn, bi đát. Vẫn còn đó đói nghèo nhưng tình thương khiến lòng họ ấm ấp hơn và thêm chỗ dựa, thêm sức mạnh để tin và hi vọng vào tương lai. Đó chính là tia sáng bùng lên giữa cuộc sống tối tăm. Truyện bắt đầu với chiều chạng vạng, nhá nhem đi dần vào đêm tối nhưng kết thúc với buổi sáng trong trẻo, nắng lóa, nét tươi tắn nhẹ nhõm trên khuôn mặt vốn u ám vì đói rách của các nhân vật làm rạng rỡ ngôi nhà, xóm làng của họ.
3) Kết luận: Nguyên nhân do thành công của Vợ nhặt (giá trị hiện thực và nhân đạo) là ở sự gắn bó, hiểu biết, lòng đồng cảm sâu sắc của Kim Lân với “đất”, với “người”, với cái “thuần hậu nguyên thủy” của đời sống nông thôn.
II– PHẦN TỰ CHỌN
Câu 2a: Các ý chính:
1. Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ tiêu biểu của Hàn Mặc Tử, thể hiện tình yêu của tác giả với cảnh và người xứ Huế. Bài thơ được sáng tác khi Hàn Mặc Tử đã mắc bệnh nan y, sống cách biệt. Bức ảnh cùng những lời thăm hỏi của Hoàng Cúc làm sống dậy trong Hàn Mặc Tử kỉ niệm về Huế cùng khát vọng trở lại thế giới của mọi người, trở lại cuộc đời tươi đẹp, ước mơ, hạnh phúc, tình yêu. Cảnh, vì vậy, “ít tả theo cái nhìn của mắt” mà chủ yếu qua “cái thấy bằng tâm tưởng”.
2. Khổ thơ đầu thể hiện một đặc điểm rất Huế của thôn Vì với những vườn cây trái.
– Mở đầu bài thơ bằng câu hỏi tu từ. Lời trách móc nhẹ nhàng, lời mời gọi dễ thương của một cô gái hay chính là lời tự vấn, là ước ao thầm kín của người đi xa khát khao về lại thôn Vĩ.
– Tả vườn Huế, tác giả chú ý đến vẻ thanh tú, tinh khiết của cảnhvật. Từ hàng cau cao nhất trong vườn, vươn đến những tia nắng ban mai đầu tiên đến vườn cây lá “mướt” mượt mà, óng ả, tươi non, thanh sạch và “xanh như ngọc”, một màu xanh trong trẻo, long lanh ánh sáng.
– Thiên nhiên đầy sức sống, ấm áp hơn nhờ con người. Thấp thoáng sau lá trúc mảnh mai, thanh tao là gương mặt con người hiền hậu, dịu dàng. Cảnh và người hài hòa, tôn lên vẻ đẹp của nhau, vẻ đẹp thơ mộng, kín đáo của thiên nhiên Huế và tâm hồn người Huế.
Tình cảm nhà thơ thể hiện qua tiếng reo cảm thán ngưỡng mộ vẻ đẹp vườn Huế (“Vườn ai mướt quá”), qua niềm bâng khuâng da diết với “ai” đó (có phải “cố nhân”) ở Huế, một hình ảnh tuy thực mà mộng ảo, biết bao thân thiết cũng rất đỗi xa vời.
3. Kết luận: Khổ thơ thể hiện được “cái hồn” của cảnh và người xứ Huế đẹp, hữu tình, tình yêu say đắm của tác giả đối với cảnh Huế, người Huế phảng phất buồn bâng khuâng xa vắng — không chỉ là tâm trạng chung của thi nhân Thơ mới mà còn là tâm trạng rất riêng của Hàn Mặc Tử, một nhà thơ giàu mộng tưởng thiết tha phải chia lìa với trần thế tươi đẹp và tình tứ.
Câu 2b. Các ý chính: ‘
1. Bên kia sông Đuống được sáng tác trong một đêm tháng 4-1948 khi Hoàng cầm trong vùng tự do bên bờ bắc nghe tin giặc chiếm đóng tàn phá quê hương mình bên bờ nam sông Đuống. Bài thơ thể hiện tình yêu quê hương, nỗi nhớ tiếc, lòng đau xót, căm giận trước cảnh quê hương bị giặc giày xéo. Đoạn thơ dạo đầu cảm hứng của toàn bài.
a) Tình yêu, niềm tự hào đối với quê hương tươi đẹp, trù phú, cổ kính, có truyền thống văn hóa lâu đời, đặc sắc.
– Hương “lúa nếp thơm nồng” của no ấm.
– Màu sắc rực rỡ, tươi tắn của tranh làng Hồ làm bừng sáng nét trong trẻo của hồn dân gian, hồn dân tộc (tranh vẽ lợn gà bình dị thể hiện cái nhìn và ước vọng cuộc sống an bình, yên vui, hạnh phúc).
– Tình cảm tha thiết, tự hào (“quê hương ta”).
b) Nỗi đau xót, căm giận trước cảnh què hương bị giặc giày xéo.
– Bạo lực của kẻ thù khơi sâu lòng căm giận (hình ảnh ngọn lửa, bầy thú điên cuồng “lưỡi dài lè sắc máu”).
– Nỗi nhớ tiếc, xót xa, đau đớn thể hiện qua bút pháp tương phản cảnh quê hương xưa và nay, khát vọng bao đời về yên bình và thực tại ly loạn, đặc biệt xúc động khi tác giả dùng hình ảnh trong tranh làng Hồ để diễn tả cảnh thực ngoài đời của con người.
+ Đồng quê trù phú nay nhà cháy, ruộng khô, kiệt cùng ngõ thẳm, bờ hoang.
+ Mẹ con đàn lợn sum vầy nay chia lìa.
+ Đám cưới chuột tưng bừng rộn rã nay tan tác.
– Câu hỏi “Bây giờ tan tác về đâu”, âm hưởng đau đớn xót xa còn được tiếp tục trong các đoạn thơ sau tạo điệp xoáy mãi. vào lòng người đọc.
2. Kết luận: Xúc cảm mãnh liệt làm nên sức mạnh của bài thơ và khiến nó gợi được cộng hưởng ở đông đảo những người con trên bao quê hưởng đất Việt đang bị giặc thù giày xéo lúc bấy giờ.
Leave a Reply