Thuật hoài
Hoành sóc giang san kháp kỉ thu,
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.
(Phạm Ngũ Lão)
Tỏ lòng
Múa giáo non sông trải mấy thu,
Ba quản khí mạnh nuốt trôi trâu.
Công danh nam tử còn vương nợ,
Luông thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu.
(Bùi Vãn Nguyên dịch)
Hãy phân tích bài thơ trên.
DÀN Ý
I. MỞ BÀI
– Vài nét về tác giả Phạm Ngũ Lão và hoàn cảnh lịch sử khi bài thơ ra đời.
– Ghi lại bài thơ.
II. THÂN BÀI
Bài thơ gồm bốn câu, chia làm hai ý chính, diễn đạt hùng khí một thời và nỗi lòng băn khoăn, trăn trở vì nghĩa cá của một nhân cách lớn.
A. KHÍ PHÁCH ANH HÙNG CỦA VỊ TƯỚNG VÀ QUÂN ĐỘI
1. Mở đầu bài thơ bằng cụm động từ hoành sóc. Tư thế cầm ngang ngọn giáo vẽ nên nét đẹp ngang tàng, oai phong lẫm liệt của một tráng sĩ xung trận, sẵn sàng chiến đấu:
Hoành sóc giang san khắp kỉ thu
(Múa giáo non sông trải mấy thu)
Người tráng sĩ ấy, vị tướng quân ấy đã chinh chiến triền miên, dãi dầu gian khó để bảo vệ giang sơn đã mấy thu rồi.
Ta bỗng nhớ tới hình ảnh người tráng sĩ trong Chinh phụ ngâm: Múa gươm rượu tiễn chưa tàn – Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo. Hình ảnh người tráng sĩ càng đẹp hơn khi dặt trong khung cảnh bừng bừng khí thế tiến công của một đội quân dũng mãnh muốn át cả trời sao (Ba quân khí mạnh…)
2.
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.
(Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu).
Tì là loài thú lai giống cọp và beo (theo truyền thuyết), hổ là cọp. Tam quân tì hố ý nói ba quân có sức mạnh vò địch. Khí thôn ngưu ngụ ý quân đội bừng bừng khí thế chiến đấu và chiến thắng.
Lời thơ ước lệ, hào tráng, hình ảnh kì vĩ, toát lên khí thê ngất trời của quân đội đời Trần qua ba lần chiến thắng bọn xâm lược Mông Nguyên.
Hai câu thơ đã phác họa nên một bức tranh hoành tráng về một thời oanh liệt với một giọng điệu thật hào hùng. Đó chính là âm hưởng vang vọng của hào khí nhà Trần.
B. QUAN NIỆM VỀCÔNG DANH VÀ KHÁT VỌNG CỦA TÁC GIẢ
1.
Nam nhi vị liễu công danh trái
(Công danh nam tử còn vương nợ)
Công danh là sự nghiệp và tiếng tăm. Trong thời phong kiến, kẻ làm trai rất coi trọng công danh, tức là phải lập sự nghiệp ích quốc lợi dân (công) để lưu lại tiếng thơm cho hậu thế (danh). Cho nên, công danh xem như món nợ đối với người trai:
Cỏ trung hiếu nên đừng trong trời đất,
Không công danh thà nát với cỏ cây.
(Nguyễn Công Trứ)
Câu thơ thể hiện ý chí và khát vọng thật cao dẹp: muốn được cống hiến cao nhất, muốn làm tròn sứ mệnh của đấng nam nhi.
2.
Tu thính nhăn gian thuyết Vũ Hầu.
(Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu).
Hoài bão của người trai càng cao đẹp hơn mà người đọc bắt gặp ở đây là một nhân cách lớn lao: một con người “cấp ngang ngọn giáo”, xông ra giữa trận tiền chống giặc suốt mấy thu rồi không nhớ nữa, thế mà vẫn nghĩ mình chưa làm tròn trách nhiệm, còn nợ với non sông, đất nước; vẫn thấy”thẹn” khi nghĩ mình công danh vẫn chưa bằng được Vũ Hầu.
Gia Cát Vũ Hầu được xem là một bậc tuyệt trí trong thời Tam Quốc, đầy tài năng thao lược, đã giúp Lưu Bị dựng nên nhà Thục Hán, công danh xếp vào bậc nhất thiên hạ. Phạm Ngũ Lão có thể tự thấy mình còn thua kém Gia Cát Lượng về công danh sự nghiệp. Cũng có thể hiểu “thẹn” là cách nói thể hiện khát vọng, hoài bão muốn sánh ngang với Vũ Hầu,
Có lần Nguyễn Khuyến cũng đã “thẹn” khi nghĩ mình chưa-có tài thơ văn và nhân cách cao bằng Đào Uyên Minh:
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.
(Thu vịnh)
Như vậy, những cái “thẹn” ấy cao đẹp và quý giá biết chừng nào! Đó là nỗi thẹn của một nhân cách lớn. Nỗi thẹn ấy giúp cho con người ta biết vươn tới lẽ sống cao cả hơn.
III. KẾT BÀI
Bài thơ thể hiện tấm lòng và ý chí của Phạm Ngũ Lão, đồng thời tiêu biểu cho tư tưởng và tình cảm của lớp người cùng thế hệ với ông, thế hệ làm nên hào khí Đông A.
Leave a Reply