(1) Phương pháp phân 2 vùng, tức lấy ngón tay giữa và ngón áp út làm ranh giới chia bàn tay làm hai phần. Phần có ngón cái, ngón trỏ và ngón áp útthể hiện ý thức của một người, tức thái độ đối với thế giới. Còn phần có ngón áp út và ngón út thì thể hiện tiềm thức, tức thái độ đối với tâm linh.
(2) Phương pháp phân 3 vùng, bao gồm phần tinh thần ở trên, phần thực dụng ở giữa và phần sinh lý ở dưới. Phần tinh thần liên quan đến hoài bão và lý tưởng, nếu phần này phát triển hơn hai phần kia thì cho thấy quan điểm của người này về thế giới thiên về lý tính. Phần sinh lý bao gồm ham muốn sinh lý của con người, nếu phần này phát triển thì cho thấy người này thiên về cảm tính. Phần thực dụng nằm giữa, có thể căn cứ vào mức độ phát triển của phần này để đưa ra biện pháp cân bằng sự khác biệt giữa lý tính và cảm tính.
(3) Phương pháp phân 4 vùng, bao gồm vùng tâm trí lý tính, vùng tâm trí bản năng, vùng sinh lý thực dụng và vùng sinh lý trực giác. Vùng tâm trí lý tính kém phát triển cho thấy người này thiếu tự tin, còn phát triển thì cho thấy người này đầy tham vọng. Vùng tâm trí bản năng phát triển, cho thấy người này thích phô trương, còn không phát triển thì cho thấy người này rất xem trọng việc chứng tỏ bản thân. Vùng sinh lý thực dụng kém phát triển cho thấy người này thiếu sức sống, còn phát triển thì cho thấy người này luôn coi vật chất là động lực để phấn đấu. Vùng sinh lý thực dụng phát triển hơn hẳn các vùng khác, cho thấy người này quá coi trọng đời sống vật chất. Vùng sinh lý trực giác kém phát triển cho thấy người này thiên về lý tính, còn phát triển thì có thấy người này rất nhạy cảm và theo đuổi đời sống tinh thần.
Leave a Reply