>> CÁC BẠN CLICK VÀO ĐÂY ĐỂ LỰA CHỌN NHỮNG BÀI VĂN HAY NỮA NHÉ <<
Cảm nhận của em về đoạn thơ sau trong bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy:
Từ hồi về thành phố
quen ánh điện, cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường
Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tôi om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn.
Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng.
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.
Gợi ý viết bài
Trên cơ sở những hiểu biết khái quát về tác giả Nguyễn Duy, về bài thơ Ánh trăng (đặc biệt chú ý hình tượng vầng trăng – biểu tượng của quá khứ nghĩa tình, hoàn cảnh sáng tác), học sinh trình bày cảm nhận của mình về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ. Các em có thể trình bày bài làm của mình theo nhiều cách, song cần đảm bảo được một số yêu cầu cơ bản sau đây:
1. Cảm nhận về nội dung đoạn thơ:
Đoạn thơ thể hiện sự trăn trở, suy tư của nhân vật trữ tình về thái độ sống đối với quá khứ. Điều này được thể hiện qua các chi tiết trong đoạn thơ:
– Hoàn cảnh sống thay đổi, thành phố với những tiện nghi hiện đại (ánh điện, cửa gương) dễ làm cho người ta lãng quên quá khứ, dửng dưng với cả vầng trăng tình nghĩa năm nào (Vầng trăng đi qua ngõ / như người dưng qua đường).
– Vầng trăng đột ngột xuất hiện trong một tình huống bất ngờ; nhân vật trữ tình đối diện với vầng trăng mà trong lòng ngập tràn bao cảm xúc. Những gian lao, vất vả và cả nghĩa tình trong quá khứ như ùa về làm nhân vật trữ tình vừa xúc động, vừa day dứt, vừa thành kính, lặng im (Ngửa mặt lên nhìn mặt / có cái gì rưng rưng/ như là đồng là bể / như là sông là rừng).
– Nhưng vầng trăng – quá khứ nghĩa tình luôn tròn đầy, bất diệt (Trăng cứ tròn vành vạnh / kể chi người vô tình) càng làm cho con người thêm ân hận, day dứt. Sự im lặng của vầng trăng như một lời nhắc nhở nghiêm khắc về thái độ sống với quá khứ (Ánh trăng im phăng phắc/ đủ cho ta giật mình).
2. Cảm nhận về nghệ thuật:
Biện pháp nhân hóa được sử dụng tài tình; hình ảnh thơ gợi cảm, có tính chất biểu tượng; giọng thơ vừa tâm tình vừa suy tư, trầm lắng, góp phần tạo nên chiều sâu triết lí cho bài thơ.
3. Đánh giá, nêu suy nghĩ:
– Đoạn thơ kết tinh giá trị tư tưởng, chủ đề của cả bài thơ. Cất lên như một lời cảnh tỉnh, đoạn thơ chính là cái “giật mình” đầy ý nghĩa của chính nhà thơ, tự nhắc nhở mình phải sống sao cho trọn vẹn, thủy chung.
– Đoạn thơ cũng như bài thơ không chỉ có ý nghĩa với nhà thơ, với cả một thế hệ vừa mới đi qua chiến tranh mà còn có ý nghĩa với người đọc ngày nay vì nó đặt ra vấn đề về thái độ sống với quá khứ. Đó chính là truyền thống đạo lí “Uống nước nhớ nguồn” đẹp đẽ của dân tộc.
Bình luận bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy.
Bài làm
Thơ xưa cũng như nay, thiên nhiên là nguồn cảm hứng sáng tác vô tận cho các nhà văn, nhà thơ. Nguyễn Duy, một nhà thơ tiêu biểu cho thếhệ trẻ sau năm 1975, cũng góp vào mảng thơ thiên nhiên một Ánh trăng Bài thơ như một lời nhắc nhở về một thời đã qua của người lính gắn bó với thiên nhiên bình dị, hiền hòa, với nghĩa tình đằm thắm sáng trong.
Bài thơ năm chữ nhỏ nhẻ, đơn giản, hiền lành và đẹp như thiên nhiên, như vầng trăng
Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với biển
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ
Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ ngỡ
không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa.
Mở đầu bài thơ là hồi ức của người lính khi còn nhỏ với kỉ niệm về cánh đồng xanh, về con sông êm ả và về biển cả mênh mông… Nhưng chiến tranh ập đến đã làm thay đổi tất cả. Chàng trai ấy giã từ cuộc sống bình dị chốn làng quê để trở thành người lính. Cuộc sống bây giờ là ở rừng và vầng trăng xuất hiện để chia cho người lính một chút thơ mộng của tuổi thanh xuân, chút dịu êm, hiền hòa của thiên nhiên, vầng trăng hồn nhiên càng lúc càng trở nên quen thuộc, gần gũi để rồi trở thành tri kỉ, trở thành tình nghĩa. Đây là nghĩa tình của những người đồng đội, đồng chí cùng chiến đấu cho hòa bình như nhà thơ Chính Hữu cũng đã từng có cảm nhận tương tự: Đầu súng trăng treo.
Nhưng chiến tranh đã đi qua, người lính giã từ núi rừng, trở về thành phố, và mọi chuyện bắt đầu đổi khác:
Từ hồi về thành phố
quen ánh điện, cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường
Thình lình đèn điện tắt
phòng buyu-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn.
Từ hồi về thành phố, người lính xưa bắt đầu quen sống với những tiện nghi hiện đại như ánh điện, cửa gương. Mới mẻ và hấp dẫn, nó đã cuốn hút mọi người bằng những cám dỗ chết người. Người lính quên hết thiên nhiên sông, biển, đồng, rừng, quên cả những gì thiêng liêng, là tri kỉ, là nghĩa tình. Và vầng trăng giờ đây chỉ là một người không quen biết, một người dưng qua đường. Câu thơ dửng dưng – lạnh lùng – xa cách miêu tảmột điều gì bội bạc, nhẫn tâm vẫn thường xảy ra trong cuộc sống. Nhưng khi đèn điện tắt, phòng tối om người lính mới chợt nhận ra vầng trăng tròn. Trăng vẫn tròn một vầng – vẫn thứ ánh sáng huyền diệu, trong ngần. Sự đổi thay của con người không làm vầng trăng cau mặt, trăng vẫn nguyên vẹn nghĩa tình, đầy ắp thuỷ chung.
Giật mình nhìn lại đoạn đường vừa đi qua để phát hiện mình vộ tình, bạc bẽo, người lính ngửa mặt nhìn lại vầng trăng – một thời quá khứ – một sự đối diện ngậm ngùi.
Ngửa mặt lên nhìn mặt có cái gì rưng rưng như là đồng là bể như là sông là rừng
Trăng cứ tròn vành vạnh kể chỉ người vô tình ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình.
Từ cái đối mặt trực diện với thiên nhiên thì cái quá khứ lại ào ạt hiện về nào là đồng, là bể, nào là núi, là rừng và cả vầng trăng nữa, trăng tròn vành vạnh, trăng im phăng phắc, không giận hờn trách móc mà chỉ nhìn thôi. Cái nhìn thật sâu như soi tận đáy tim người lính đủ để giật mình nghĩ về cuộc đời sống trong hòa bình hôm nay. Họ đã quên mất đi chính mình, quên những gì đẹp đẽ, thiêng liêng nhất của quá khứ để chìm đắm trong một cuộc sống xô bồ, phồn hoa mà ít nhiều rồi sẽ mất đi những gì tốt đẹp nhất của chính mình. Ánh trăng im phăng phắc như nhắc nhở người lính, nhắc nhở nhà thơ và cả mỗi người chúng ta: con người có thể vô tình, có thể lãng quên những thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì luôn tròn đầy, bất diệt. Câu thơ bình dị như lời nhà thơ thì thầm nhắc nhở với chính mình và cũng đồng thời nhắc nhở với chúng ta, những người đang sống trong hòa bình, hưởng những tiện nghi hiện đại, đừng bao giờ quên công sức đấu tranh cách mạng của biết bao người đi trước.
Bài thơ Ánh trăng là một lần giật mình của Nguyễn Duy về sự vô tình trước thiên nhiên, vô tình với những kỉ niệm nghĩa tình của một thời đã qua. Thơ Nguyễn Duy không hề khai thác cái đẹp của trăng, nhưng ánh trăng trong thơ ông vẫn mãi làm ray rứt người đọc – sự ray rứt về những điều được và mất, nên và không, khi sống trong cuộc đời. vẻ đẹp ấy mới chính là vẻ đẹp của văn chương cách mạng vì thơ không chỉ ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên, con người mà còn dạy ta cách học làm người.
Hoàng Đức Huy
Phân tích bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy.
Bài làm
“Ngọt bùi nhớ lúc đắng cay
Vui hôm nay nhớ lại ngày xưa ấy”.
Đất nước đã thống nhất hơn ba mươi năm qua nhưng niềm vui hòa bình và tự do vẫn đong đầy trong mỗi chúng ta. Sống giữa những ngọt bùi và tiện nghi vật chất hôm nay, có khi nào con người lại vô tình quay lưng với quá khứ đau khổ mà đầy nghĩa tình không? Nguyễn Duy, nhà thơ quân đội, từng trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ đau thương và oanh liệt, đã thức tỉnh mọi người về một lẽ sống đẹp thủy chung son sắt với bài thơ “Ánh trăng” thật nhẹ nhàng và sâu lắng.
Bài thơ là sự kết hợp khéo léo giữa tự sự với trữ tình, tạo cho bài thơ dáng dấp của một câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian. Giọng điệu tâm tình, nhỏ nhẹ như lắng đọng được thể hiện bằng thể thơ năm chữ.
Mở đầu bài thơ, tác giả đối thoại với chính mình và thủ thỉ với bạn đọc. Dòng cảm xúc trữ tình của nhà thơ cũng tuôn chảy theo những lời tự sự:
Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ.
Ngôn ngữ thơ thật mộc mạc, giản dị nhưng lại là sự rung động thật chân thành của một khoảnh khắc tâm tình, của một người lính từng trải đứng giữa hôm nay mà nhớ lại ngày xưa ấy. Cái ngày xửa, ngày xưa lăn lộn, gắn bó, hòa vào thiên nhiên “Trần trụi với thiên nhiên. Hồn nhiên như cây cỏ”… vầng trăng là kỉ niệm đẹp, là đất trời quê hương, là tuổi thơ nghịch ngợm, là những năm tháng gian khổ ở rừng, bom đạn có thể phá hủy đi tất cả, nhưng vẻ đẹp của ánh trăng thì làm sao hủy diệt được?… Trăng và người là đôi bạn tri kĩ. Ai lại nỡ quên “cái vầng trăng tình nghĩa” ấy?
Khổ thơ thứ ba mở ra một khoảnh khắc tâm trạng:
Từ hồi về thành phố
quen ánh đèn cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường.
Cái tưởng “không thể” – nhà thơ tưởng không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa ấy – thế mà ánh đèn đủ màu của phố xá phồn hoa đã khiến cho người ta có thể quên đi tất cả, cố ý quay lưng với tất cả. Hoàn cảnh tác động đến con người, làm thay đổi tình cảm con người, “có đèn quên trăng” là điều dễ hiểu. Nhưng cái chính là tác giả đã chạm đúng vào niềm trắc ẩn trong người đọc, chạm đúng vào cái tình nghĩa, cái thủy chung vốn có của con người. “Vầng trăng đi qua ngõ – như người dưng quađường”, câu thơ viết như không (không biểu cảm) mà ta lại nghe xót xa, nghẹn ngào lắm!
Cái sự quên nhớ ấy xưa nay trong thơ đã nói nhiều. Tố Hữu cũng đã nghe Việt Bắc hỏi mình trong những ngày chuẩn bị về tiếp quản thủ đô Hà Nội (1954):
“Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng
Phố đông còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng”.
Nếu hoàn cảnh sống làm cho con người mau quên đi quá khứ “cái vầng trăng tình nghĩa” những năm ở rừng ấy thì đó cùng là điều tự nhiên, càng tạo điều kiện cho tác giả chiêm nghiệm lẽ đời. Nhưng sự việc không chỉ dừng lại ở đây, nó được đẩy lên khi:
Thình lình đèn điện tắt
phòng Buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn.
Chi tiết “đèn điện tắt” có thể xem là tình huống độc đáo của câu chuyện nhỏ mà tác giả kể lại, là tác nhân quan trọng để từ đó tác giả bộc lộ cảm xúc của mình. Mỗi ngày vầng trăng đi qua ngõ, tác giả xem như người không quen biết. Nhưng khi tất cả bao trùm trong bóng tối cửa sổ mở ra, căn phòng tràn ngập ánh trăng, đột ngột và bất ngờ! Chính vầng trăng xuất hiện bất ngờ trong bối cảnh ấy gây ấn tượng mạnh, thổi bùng nỗi nhớ về một thời máu lửa chưa xa nhưng đã mờ nhạt trong kí ức nhà thơ.
Thiên nhiên luôn tạo cảm giác tươi mát. Vầng trăng là hình ảnh của sự tươi mát đó, là bạn tri kỉ của nhà thơ suốt tuổi nhỏ và thời chiến tranh. Trong phút chốc, sự xuất hiện bất ngờ của vầng trăng giữa thành phố làm sống dậy trong bài thơ bao kỉ niệm ấm áp nghĩa tình của những năm tháng gian nan mà hào hùng. Quá khứ ùa về, chan chứa đầy ắp trong tâm tưởng. Chẳng có giọt nước mắt nào tràn mi nhưng nỗi nhớ ấy cứ rưng rức trong lòng tác giả.
Ngửa mặt lên nhìn trăng
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng.
Khổ thơ cho ta một cảm nhận nồng ấm: vầng trăng không chỉ có vẻ đẹp bình dị và vĩnh hằng của thiên nhiên mà cao hơn thế, nó là biểu tượng của tinh thần lạc quan trong sáng trong cuộc chiến đấu gian khổ, hiểm nguy mà nồng đượm nghĩa tình và sáng ngời chân lí.
Mở đầu bài thơ là vầng trăng tri kỉ trong kí ức của tác giả, khép lại bài thơ vẫn vầng trăng ấy, nhưng có chiều sâu tư tưởng, mang nặng triết lí:
Trăng cứ tròn vành vạnh.
Trăng tròn trịa như quá khứ đẹp, vẹn nguyên chẳng thể phai mờ. Người chiến sĩ cầm súng bảo vệ quê hương đã ngã xuống trên đất mẹ quê hương, họ nào có tính toán thiệt hơn, phải chăng “ánh trăng tròn vành vạnh” là biểu tượng của sự cống hiến không mệt mỏi, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh của bao chiến sĩ đồng bào.
Kể chi người vô tình Ánh trăng im phăng phắc Đủ cho ta giật mình.
Nỗi ăn năn của nhà thơ là một nỗi ăn năn đầy tính nhân bản, thức tỉnh tâm linh, làm đẹp tâm hồn, nhân cách con người. “Ánh trăng im phăng phắc” không nói mà nói bao điều, nhắc nhở nhà thơ (và cả mỗi chúng ta): con người có thể vô tình lãng quên, thờ ơ quay lưng với thiên nhiên, với những hi sinh mất mát của thời chiến tranh.
Nhưng thiên nhiên và nghĩa tình trong quá khứ thì luôn tròn đầy, bất diệt.
Bài thơ đâu chỉ lời tâm sự, là tiếng lòng của tác giả, là sự tự vấn lương tâm mà còn là lời nhắc nhở với mỗi con người về lẽ sống chung thủy với chính mình, với dân tộc – Nguyễn Duy đã tự nhủ với lòng như vậy đấy.
Bài thơ đã khép lại nhưng lẽ đời vẫn còn vấn vương cùng người đọc. Đâu chỉ là chuyện ánh trăng mà là chuyện con người, con người của quá khứ và hiện tại.
Phân tích vẻ đẹp hình thức cùa bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy.
Gợi ý viết bài
Học sinh có thể phân tích nhiềucách, từ nhiều góc độ. Lưu ý là phải gắn với vấn đề lí luận sau đây:
– Đây là nhận định về hình thức nghệ thuật của một tác phẩm văn học. Thực chất là một dạng định nghĩa thế nào là hình thức nghệ thuật hay, đẹp.
– Các phẩm chất của hình thức cần được chú trọng khi phân tích tác phẩm văn học là “sáng tạo “, “sinh động “, “phù hợp “, biểu hiện nội dung “tốt nhất, ấn tượng nhất”.
– Đó vừa là mục tiêu cần đạt tới của người cầm bút, vừa là tiêu chí để thẩm định giá trị của tác phẩm văn chương.
a. Thể thơ, nhịp điệu thơ
Thể thơ 5 chữ mộc mạc, giản dị, cùng nhịp thơ lúc ngân vang, tha thiết (khổ 1,2), lúc trĩu nặng, lắng sâu (khổ 5,6) góp phần thể hiện thành công lời tâm tình, tự nhủ, thổ lộ tự đáy lòng không chỉ của một Nguyễn Duy mà là của cả một thế hệ.
b. Kết cấu
Bài thơ có kết cấu đơn giản như một câu chuyện kể (kết hợp tự sự vàtrữ tình), từ chiều quá khứ xôi về hiện tại, gắn liền với mạch cảm xúc của nhà thơ.
Chú ý một số điểm gút: “ngỡ không bao giờ quên”, “từ hồi về”, “thình lình đèn điện tắt”, “vội bật tung cửa sổ”, “đột ngột vầng trăng tròn”,”ánh trăng im phăng phắc”… khắc đậm ấn tượng, cảm xúc.
Chú ý hình thức: chỉ những chữ đầu khổ thơ được viết hoa, cuối khổ thơ mới có dấu chấm câu tạo nên tính đặc sắc và liền mạch cho ý thơ.
c. Hình tượng
Hình ảnh “Vầng trăng” xuyên suốt 5 khổ thơ và trở thành hình tượng “Ánh trăng ” ở khổ thơ cuối, tạo nên sự ám ảnh, khắc sâu ý tưởng, suy tư, tạo “độ xoáy” cho tứ thơ. Ý nghĩacủa hình tượng:
– Là biểu tượng đẹp đẽ của một thời gian lao, đầy tình nghĩa mà những người lính – trong đó có nhà thơ – từng gắn bó, yêu thương.
– Là biểu tượng sâu sắc về sự bao dung, độ lượng; sự thủy chung, nghĩa tình – vốn là phẩm chất của đất nước, nhân dân bình dị, sắt son.
– Là biểu tượng giàu tính triết lí về sự bất diệt, vĩnh cửu của thiên nhiên mang dấu ấn tâm tư con người.
d. Ngôn ngữ, hình ảnh, biện pháp tu từ
– Ngôn ngữ giản dị, giàu tính đời thường, như lời kể tâm tình, gần gũi, thần thiết. Hình ảnh đơn giản mà sâu sắc, giàu tính sáng tạo, có sức biểu hiện nội dung hùng hồn, ấn tượng.
– Biện pháp tu từ được sử dụng không nhiều nhưng cơ bản và đặc sắc (nhân hóa, so sánh, ẩn dụ…) góp phần làm lời thơ sinh động, giàu ý nghĩa.
Leave a Reply