1. Sau khi vẽ xong linh phù tại sao cần viết tên mình lên đó? Cách viết như thế nào?
Đã là bùa, nếu như không biết tên của người vẽ bùa lên đó thì tấm bùa này chỉ là một tờ giấy nháp. Lấy ví dụ, một tờ giấy mua bán cần có họ tên của tôi, mới có hiệu lực, ngược lại sẽ vô hiệu, nhưng cách viết họ tên lên bùa và cách viết tên bình thường của chúng ta không giống nhau. Cách viết tên trên linh phù là cách viết theo thể chữ phồn, cũng gọi là chữ phồn thể, đây chính là thể hiện sự bất đồng về âm dương
2. Thế nào gọi là bùa chú “hứa tự”
“Hứa tự” đối với việc vẽ bùa của Đạo giáo mà nó là một thủ thuật vừa quan trọng vừa thần bí, công hiệu của nó bằng với “chữ thiêm” của mỗ thần. Vẽ chữ “hứa tự” lên cũng coi như là thần đã đồng ý, nó như là số hiệu đời của mỗi thần là dùng một dạng văn tự đặc biệt đại diện cho nhà Tống, đây chính là dụng đồ thực tiế của “hứa tự”.
3. Không có bùa của “Tinh thần hứa tự” tại sao sẽ vô hiệu?
Xem qua điều kiện bên trên, trả lời vấn đề này rất đơn giản, chúng ta biết “hứa tự” đại diện cho ý nghĩa gì, vậy không có bùa “hứa tự” thì hiệu quả khẳng định là không tốt. Giả dụ: Năm nay là năm Canh Dần, thái tuế tên là Đồng Danh Đức, bạn viết hứa tự lên bùa, có nghĩa là năm nay Trực niên Thái tuế đã đồng ý các việc mình cầu.
4. Đến nay đang dừng lại ở “hứa tự” không lan truyền ra bên ngoài, lưu truyền bên ngoài chỉ có dạng thức bùa mà không có nguyên nhân nào cho “hứa tự” ở đó.
Ở trên có nói qua “hứa tự” đối với việc vẽ bùa sẽ dẫn đến tác dụng mang tính quyết định, nó là một dạng văn tự thần bí không thể lan truyền ra bên ngoài một cách tùy tiên. Loại bùa lưu truyền trên thị trường nếu không có “hứa tự” sẽ không thể có tác dụng thông linh, cho nên “hứa tự” thật sự không có ngoại truyền, chỉ có cha – con – thầy – trò lưu truyền lại bằng miệng.
5. Phân loại bùa chú và “hứa tự”
Trong xã hội các loại bùa chú được lưu truyền rất nhiều, ngoài câc loại tương đồng còn có các loại bất đồng, nhưng các loại đặc biệt thì phân thành hai loại chính phản: “Bùa chính diện” thông thường dùng để hành thiện cứu người, trị bệnh … “Bùa phản diện” là loại bùa hại cứu người, khống chế người. “Bùa phản diện” không lưu truyền, loại này trong tương lại cũng sẽ có những tổ hại đối với người làm bùa cho nên dạng bùa này không nên nghiên cứu về nó.
“Hứa tự” cũng nên phân thành hai loại chính phả như: kim thần, thần sát, lỗ ban … những “hứa” này thông thường dùng cho “phản diện”, nhưng có lúc cũng có thể dùng cho chính diện như can bát túc, thập nhị nguyệt kiến, thập thiên can, thập nhị địa chi. Thái tuế chính phản đều không được dùng: Tam thanh, Tam quan, Ngọc hoàng , … thông thường dùng cho chính diện. Nếu như phân loại thì chính diện là: Ngọc hoàng, Trương Thiên sư, Cửu thiên huyền long, vạn pháp giáo chủ, thái tuế, thập nhị nguyệt kiến, thập thiên can, thập nhị địa chi, can bát túc, những loại hình này đều thông dụng, không kể là vẽ bùa gì đều cần dùng.
6. Ứng dụng từng bước của “hứa tự”
Sử dụng “hứa tự” cũng cần phân định trước sau. Việc phân định trước sau của “hứa tự” khác không cần quá coi trọng. Nhưng có một điểm cần chú ý là “hứa tự” có phải viêt từng chữ theo thứ tự từng hàng hay chữ nào quan trọng thì viết trước.
7. Bùa Đạo giáo dùng ấn chương (con dấu)
Bùa dùng ấn chương là bùa mà người vẽ cần phải dùng một công cụ, nó rất giống với con dấu mà hiện nay các cơ quan đoàn thẻ hay dùng, bất cứ văn kiện gì đều phải đóng dấu mới có hiệu lực. Vì vậy, các nhà truyền đạo liên quan đén ấn chương cùng có nhiều trường phái khác nhau, nhưng tiêu biểu là những dạng sau: “đạo kính sư bảo”, “lôi đình đo ty”, “linh bảo thiên tuân” ….
8. Bùa chú Đạo giáo liệu có khống chế thời hạn
Về vấn đề thời gian của vẽ bùa, có rất nhiều cách nói khác nhau, cũng có người nói cần phải vẽ bùa vào giờ Tý, bởi vì giờ Tý là giờ chuyển giao âm dương, bùa vẽ ra thì linh khí là quan trọng. Căn cứ vào người lưu truyền thì vẽ vào giờ Tý thì không thể được, nhưng cần yêu cầu thanh tịnh, không có người làm ồn quấy nhiễu, tự mình đơn đợc vẽ bùa trong phòng là được.
9. Công cụ và phân loại nguyên liệu vẽ bùa
Nguyên liệu vẽ bùa có rất nhiều loại, nhưng cuốn sách này nói đến thì không nhiều, nếu như dùng cây đào, thông thường dùng mảnh giấy vàng, đen thường dùng hương đen, tốt nhất là không dùng chất lỏng màu đen, trong chất lỏng màu đen có nguyên liệu hóa công sẽ ảnh hưởng đến linh khí, chu sa có thể đến hiệu thuốc để mua. Nước cần dùng nước sạch trong giếng hoặc nước trên núi, nếu như dùng nước tự nhiên thì nên để một ngày trước khi dùng.
Công cụ vẽ bùa chú là bút, tốt nhất mỗi lần dùng xong phải rửa sạch lau khô lần sau dùng lại.
10. Vẽ bùa đạo giáo có cần viết sớ?
Vẽ bùa viết sớ là cách vẽ bùa để hướng về thần linh cầu xin việc mình cần, nội dung của sớ văn là:
Kính cẩn thắp hương lễ bái, vạn pháp giáo chủ huyền thiên thượng đế. Trương thiên sư, Cửu thiên cung nữ nương nương, Kim mẫu nương nương, Kim niên Thái Tuế đến đức Tôn thần, thiên thông quá vãng tất cả thuần thị, để tự là …., Kim nhật nước …, tỉnh … thành phố … về việc …. Đệ tử vẽ bùa để giải hạn, trừ yêu. Trời có đức hiếu sinh, thần có ơn cứu tế dân, xin thần linh giúp sức đệ tử để vẽ linh phù đại hiển thần thông, đệ tử cảm kích vô cùng. Trước khi vẽ bùa đọc ba lần cây này, viết sơ văn hay không đều được, đều có thể đạt được hiệu quả mong muốn.
11. Rèn luyện công phu
Rèn luyện công phu bùa không phải là rèn luyện theo khí công, vẽ bùa và khí công không có mối liên hệ nào, nghi thức rèn luyện công phu bùa là: Trước tiên trên nền giấy vàng vẽ một chiếc bài vị, bên trên viết các vị: Trương thiên sư, Cửu thiên huyền nữ, Trực niên Thái tuế. Để bài vị đặt trên một chiếc bàn nhỏ trong một căn phòng sạch sẽ, cùng các loại hoa quả dâng lên thắp hương cửu chi, miệng đọc: “mời (tên các vị thần ở trên), hôm nay đệ tử … tỉnh …. Thành phố … huyện …cư trú, sinh vào lúc … ngày … tháng … năm … từ hôm nay trở đi học vẽ bùa, vì nhân dân mang đến điều tốt đẹp ngăn điều xấu, hành thiện tích đức, không làm những việc vi phạm đại đạo, mong thần linh giúp đẹ tử”. Sớm tối mỗi ngày một lần, liên tục 49 ngày như thế, sau đó đem bài vị cùng với tiền vàng đi hóa, lúc đó công phu của bùa đã hoàn mãn. Sau này khi vẽ sẽ có bùa sư hộ thân.
12. Cách đọc và công tác chuẩn bị vẽ bùa
Giống như rèn luyện công phu bùa, cũng sắp xếp một bàn đầy hoa quả, nên dùng giấy bút mực màu đen, chu sa, rượu trắng hoặc rượu gạo, vàng mã nhiều ít tùy tâm, sau đó mang ra đặt trước cửa thắp 18 cây hương thơm hướng lên trời cầu xin (đọc câu thần chú như trang trước đã nói), đọc 3 lần, sau đó cầm 9 cây hương mời thần đến phòng vẽ bùa, đặt trên bàn, tiếu tục đọc lại câu thần chú: hiệu bút phù: cư thụ ngũ lôi thần, điện đèn sáng loáng, bên trên là hộ thân bảo mệnh, bên dưới là ác quỷ yêu ma, tất cả sinh tử diệt đạo cho tôi được trường sinh, khẩn cấp như quân lệnh.
13. Phương pháp sử dụng linh phù cầu tài
Trình tự vẽ bùa của linh phù cầu tài là như nhau, nhưng khi cầu tổ sư cần thêm câu: “chiêu tài bảo dân công”, “ngũ phương ngũ lộ tài thần”. Sauk hi vẽ bùa xong cần dán vào tài vị ở trong phòng, tốt nhất mỗi ngày buổi sáng nên thắp 3 cây hương để lễ bái, không thì ít nhất cũng phải lễ vào buổi sáng hai ngày mùng một và rằm hàng tháng để mời tài thần mang tài đến.
14. Linh phù giải hạn tùy thân có cần phối hợp với vật gì? Nên mang theo bao nhiêu ngày, phân loại đến nơi nào?
Linh phù giải hạn tùy thân, sau khi vẽ xong khi giao cho người cần giải hạn cần thông báo cho người ddos hoặc người nhà, họ hàng thân thích, mua một con gà trống, cắt tiết lấy máy, trên linh phù có 3 chỗ: ở trên, ở giữa và ở dưới – nơi có con dấu thì dùng máu vẩy lên một ít, những vật dùng để phối hợp với linh phù là:
5 hạt ngũ cốc
5 hạt gạo
5 tờ giấy màu đen
5 ngọn chè non
5 ngọ lá đào non
5 sợi tóc của người cần giải hạn
1 đồng tiền đồng thời Càn Long
15. Phân loại các bước giải hạn
Dùng linh phù đã vẽ xong gói tất cả các vật ở trên lại, cuộn thành hình tam giác, bên ngoài dùng vải đỏ bọc kín, dùng tram tẩm mật ong xiên qua, treo trước đầu trong vòng 49 ngày, dùng tiền vàng hóa ở phương Tây Bắc ngã 3 ngã 4 đường, lấy tiền đồng trong đó làm vật may mắn. Trong toàn bộ quá trình giải hạn không được cho người khác biết, nếu không sẽ không có hiệu quả.
Hóa giải phong thủy nơi ở
Lợi dụng ngoại ứng
Hóa giải phương vị
Phối hợp màu sắc ngũ hành
Hành thiện tích đức, làm nhiều việc tốt
Phóng sinh, không sát sinh
16. Hiệu quả của giải hạn
Về vấn đề hiệu quả của giải hạn, tôi cho rằng mỗi một người học cách giải hạn đều rất quan tâm, nhưng hiệu quả của giải hạn cuối cùng có thể đạt được bao nhiêu phần trăm? Hiệu quả giải hạn: những điều kiện bên trên không chỉ yêu cầu người được giải hạn cần phải hoàn tất. Nếu người giải hạn mà rèn luyện đạo đức bản thân không đủ cũng sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả giải hạn. Đạo giáo có câu: “đạo cao long hổ phải gờm, đức trọng quỷ thần phải sợ”. Nếu bạn có thể vừa có “đạo” và “đức” lại thành tâm thành ý vì người khác mà hóa giải, thì việc giải hạn sẽ mười phần linh nghiệm. Nếu bạn hóa giải mà không có tâm cứu rỗi, vậy bạn cũng nên tự vấn lương tâm mình, người cần giải hạn lại càng phải làm hết tất cả vấn đề này.
17. Người giải hạn làm thế nào để bào vệ người nhà và bản thân mình
Giải hạn vì người khác trước tiên cần phải bảo vệ bản thân mình và người nhà, nếu không thì việc giải hạn cho người khác mất tác dụng, giải nguy bạn cho bản thân – đây không phải là việc tốt, nhưng làm thế nào mới có thể bảo vệ bản thân mình? mọi người đều rất quan tâm đến vấn đề này cũng là công việc thiện sau khi giải hạn. Dưới đâu là một số phương pháp cụ thể:
– Giải hạn vì người khác tốt nhất không nên miễn phí hoàn toàn, dù ít hay nhiều cũng nên nhận một ít phí. Căn cứ vào việc thu phí để sử dụng một phần vào việc có ích hoặc cứu tế nạn nhân hoặc người nghèo khổ, hoặc có thể đến chùa miếu hợp pháp để làm công đức, ít nhất cũng mua hương nến lễ bái trong chùa miếu, xem phí bao nhiêu mà định liệu cụ thể.
– Khấu đàu kính tổ sư và linh thần bùa giúp đỡ, dâng hoa quả tiền vàng thay cho lòng thành, nói rõ sự việc với tổ sư, lấy thành ý nhờ tổ sư giúp đỡ cho sự linh nghiệm của bùa chú.
– Vẽ bùa hộ thân dâng lên trước đàn của tổ sư cầu xin, như vậy là có thể bảo vệ bản thần và người nhà.
Leave a Reply